NGÔ TRẦN ĐỨC
1. MỞ ĐẦU
Trên báo mạng của Đài RFI
tiếng Việt, sau loạt bài về Nhân văn - Giai phẩm, Thụy Khuê đã cho đăng
một bài viết 4 kỳ với một cái tít khá giật gân: Ai viết những bài ký tên Nguyễn Ái Quốc tại Pháp từ 1919 đến 1923?
Tên bài khiến tôi
phải đọc, bởi lẽ ai cũng biết, thời gian đầu, Nguyễn Ái Quốc được coi là
bút danh tập thể của ba người: Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn
Tất Thành khi thảo bản Yêu sách gửi Hội nghị Versailles; nếu làm
rõ được những bài viết sau đó, khoảng từ giữa năm 1919 sang đầu năm
1920, bài nào là của Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường, bài nào là của
Nguyễn Tất Thành, thì cũng là một đóng góp trong việc nghiên cứu, bởi
cần phải “trả lại những gì của César cho César”, đó là cách ứng xử sòng
phẳng đối với các vấn đề của lịch sử nói chung, cũng là một thái độ cần
có trong nghiên cứu khoa học.
Nhưng để làm được việc đó
thật không đơn giản chút nào. Những bài viết ấy xuất hiện cách đây đã
hơn 80 năm, các tác giả của nó đã đi vào lịch sử từ rất lâu, và những
người đương thời - như những chứng nhân lịch sử - cũng chẳng còn ai. Để
có thể làm rõ một cách thuyết phục, đòi hỏi phải rất công phu: phải đi
sâu khảo sát thư tịch, sưu tầm, tra cứu bản thảo, bút tích của các tác
giả từ những nguồn lưu trữ khác nhau trong và ngoài nước, so sánh đối
chiếu nội dung, sự kiện được đề cập đến trong bài viết với cuộc đời hoạt
động và văn phong của các tác giả,… để xem vào thời điểm đó, ai có thể
viết, được công bố lần đầu tiên ở đâu, trên báo nào… Tóm lại, là phải có
minh chứng, lập luận, lý giải thuyết phục, chứ không thể cứ một mực tùy
tiện, nói liều!
Đọc xong bài viết 4 kỳ của
Thụy Khuê, tôi hoàn toàn thất vọng, bởi tác giả hình như không có ý định
xuất hiện như một nhà khảo cứu với phương pháp làm việc khoa học mà chỉ
muốn làm một nhà báo tuyên truyền cho động cơ chính trị của nhà Đài! Âu
cũng là chuyện thường tình, như là “nợ áo cơm, phải trả hình hài” vậy
thôi! Người đọc nhận thấy ngay, các chủ kiến và lập luận của Thụy Khuê
đưa ra hoàn toàn không phải là kết quả của một quá trình tìm tòi nghiêm
túc, dựa trên các chứng cứ xác thực, được chứng minh cụ thể, có nguồn
xuất xứ tin cậy, mà chỉ toàn xuất phát từ những thiên kiến chủ quan,
những lập luận hời hợt, để rồi đưa ra những kết luận hồ đồ với cách thức
diễn đạt không thể chấp nhận trong nghiên cứu khoa học: có lẽ là, có thể là, rất có thể là, phải chăng là…
(của Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn An Ninh,…) được tác giả lặp đi lặp lại
hàng chục lần! Những lỗi thô thiển về logic và lập luận như vậy có lẽ
chỉ những học sinh trung học đang tập viết văn chính luận mới thường mắc
phải!
Tuy nhiên, người đọc vẫn
hiểu được cái đích của bài viết mà Thụy Khuê muốn đi tới là: tất cả các
bài báo ký tên Nguyễn Ái Quốc từ năm 1919 đến năm 1923, thậm chí đến năm
1927, bao gồm cả những bài được đăng trên Inprekor - cơ quan thông tin của Quốc tế Cộng sản, cả hai cuốn Đông Dương và Bản án chế độ thực dân Pháp,
cũng được quy cho là của Nguyễn Thế Truyền hoặc Nguyễn An Ninh mà không
cần bất cứ một sự chứng minh nào! Thật không thể tưởng tượng nổi có một
người phụ nữ cầm bút, định làm nghiên cứu mà lại liều lĩnh đến như vậy!
Cơ sở xuất phát cho mọi
thiên kiến cực đoan của Thụy Khuê bắt đầu từ chỗ tác giả cho rằng: giữa
năm 1919, Nguyễn Tất Thành mới từ Anh trở lại Paris, lúc đó anh mới đang
học tiếng Pháp nên chưa thể viết những bài báo có nội dung chính trị
phức tạp được!
Kể ra, đối với một bài viết
tùy tiện như thế, thực không đáng phải tốn nhiều giấy mực về nó. Nhưng
với nhiều bạn đọc, nhất là các bạn trẻ, không có điều kiện trực tiếp với
thư tịch gốc, đọc Thụy Khuê sẽ dễ bị ngộ nhận, nên tôi thấy cần thiết
phải viết bài trao đổi này với Thụy Khuê và với các bạn đọc có quan tâm
đến vấn đề được đặt ra.
2. NGUYỄN TẤT THÀNH TRỞ LẠI PARIS NĂM NÀO? TRÌNH ĐỘ TIẾNG PHÁP CỦA ANH RA SAO?
2.1. Đúng là vấn đề
thời gian Nguyễn Tất Thành trở lại Paris chính xác vào ngày tháng năm
nào vẫn đang còn có ý kiến khác nhau. Tiến sĩ sử học Thu Trang, trong
hai công trình nghiên cứu của mình về Phan Chu Trinh và về Nguyễn Ái
Quốc, đều cho rằng: “Nguyễn Ái Quốc đã đến Paris vào đúng lúc Hội người Việt Nam yêu nước ra đời. Nghĩa là vào cuối năm 1916 đầu năm 1917, chắc hẳn không phải là trường hợp ngẫu nhiên” [1].
Một số người khác, trong đó có nhà sử học Pháp Daniel Hémery, lại cho là vào năm 1919 chứ không phải năm 1917 [2].
Cả hai phía đều dựa vào những báo cáo khác nhau của mật thám. Tuy
nhiên, có nhiều nhà nghiên cứu lại cho rằng, cần phân biệt thời điểm
Nguyễn Tất Thành bí mật trở lại Paris với thời điểm mật thám phát hiện
ra anh từ sau vụ anh thay mặt nhóm người Việt Nam yêu nước đến trao bản Yêu sách 8 điểm
gửi Hội nghị hòa bình Versailles. Nghĩa là mật thám Pháp chỉ phát hiện
ra anh từ sau ngày 18/6/1919, sau khi Tổ chức giúp đỡ người lao động
nhập cư của Đảng Xã hội đã lo xong cho anh những giấy tờ hợp pháp, để từ
đó anh có thể xuất hiện công khai. Như vậy, Nguyễn Tất Thành đã phải có
mặt ở Paris trước thời điểm nói trên từ lâu rồi.
Bạn đọc có thể tham khảo thêm bài viết của một đảng viên Xã hội kỳ cựu, nguyên là công nhân xưởng in báo L’Humanité,
có chân trong ban đón tiếp người lao động nhập cư của Đảng Xã hội sau
chiến tranh; ông đã kể cho biết: Lần đầu tiên tôi gặp anh Nguyễn là vào tháng 7/1918,
khi anh mới từ Luân Đôn sang được mấy tháng, lúc đó anh đang phải sống
ẩn dật trong một căn phòng nhỏ ở phố Charonne, có khi hàng tuần không
dám ra ngoài, để tránh mọi sự khám xét. Tôi đã thu xếp cho anh một chỗ ở
mới tại quận 13, nhà đồng chí Moktar, người Tunisie. Để đảm bảo an
toàn, khi Moktar đi vắng, anh không được đốt lửa, thắp đèn, mùa đông năm
ấy rất rét. Anh phải chịu đựng như thế cho đến khi Đảng thu xếp xong
cho anh các giấy tờ hợp pháp: giấy quân dịch, thẻ lao động,… [3].
Thụy Khuê khẳng định thời
điểm Nguyễn Tất Thành đến Paris là tháng 6/1919 vì nó phù hợp với chủ
kiến của mình: “Mãi giữa năm 1919, Nguyễn Tất Thành mới đến Paris, tiếng
Pháp chưa thạo, làm sao viết được những bài báo chính trị phức tạp!”.
2.2. Vấn đề cần làm
rõ là vào thời điểm đó, khả năng tiếng Pháp của anh Thành đã đạt tới
trình độ nào? Theo tiểu sử, chúng ta biết khi ở trong nước, anh Thành đã
vào học trường Quốc học Huế, đã hoàn thành chương trình lớp cao đẳng
(cours supérieur). Trong lời khai với sở mật thám Huế ngày 19/3/1920,
ông Nguyễn Tất Đạt cũng nói rõ: “Il obtint son certificat d’études
primaires en 1908 et fut admís au Quôc Hoc” [4].
Khi ra nước ngoài, anh Thành làm việc trên tàu viễn dương cho các hãng
Chargeurs Réunis rồi hãng Messageries Maritimes (Năm Sao) đều là các
hãng vận tải biển của Pháp, chỉ chuyên nói tiếng Pháp.
Tại Marseille ngày
15/9/1911, anh Thành đã viết đơn bằng tiếng Pháp, gửi Tổng thống Cộng
hòa Pháp, xin vào học Trường Thuộc địa, cuối thư có nói rõ: biết tiếng Pháp, Quốc ngữ và chữ Hán.
Tiếp theo, tại Sài Gòn ngày 31/10/1911 và tại New York ngày 15/12/1912,
anh Thành đã gửi hai bức thư cho Khâm sứ Trung Kỳ, một bức nhờ chuyển
cho cha một ngân phiếu 15$, một bức cho biết đã gửi cho cha là Nguyễn
Sinh Huy 3 ngân phiếu nhưng mới chỉ nhận được một thư trả lời; thư tỏ ý
muốn được biết địa chỉ và tình hình cha mình hiện nay sống ra sao. Những
bức thư này được viết bằng tiếng Pháp với một cách diễn đạt gãy gọn,
trong sáng và chuẩn xác về chính tả - ngữ pháp, chứng tỏ người viết đã
có một trình độ vững vàng về tiếng Pháp [5].
Thời gian đầu sang Anh,
trong một lá thư gửi Phan Châu Trinh, anh viết: “Mấy bốn tháng rưỡi nay
thì chỉ làm với Tây, nói tiếng Tây luôn. Tuy ở Anh nhưng chẳng khác gì ở
Pháp”. Điều đó cho thấy việc học nói và viết tiếng Pháp của anh Thành
là một quá trình liên tục, vì vậy khi trở lại Paris, anh đã có thể nói
và viết tiếng Pháp thông thạo, đó là điều dễ hiểu.
Các mật vụ người Việt có
nhiệm vụ theo dõi anh đều có báo cáo giống nhau, như mật báo của Đốc phủ
Bảy (mật danh là Edouard) viết: “Anh ta nói được tiếng Anh và tiếng Pháp thông thạo, biết ít tiếng Đức và tiếng Trung Quốc”. Một nhà báo Mỹ đã phỏng vấn anh và đăng bài đó trên tờ Yi Che Pao, xuất bản ở Thiên Tân, số ra ngày 2/9/1919, đã xác nhận: “Nguyễn Ái Quốc nói tiếng Pháp rất giỏi” (parle admirablement le français) [6].
Không lâu, sau khi xuất hiện
công khai, Nguyễn Ái Quốc đã hăng hái đăng đàn diễn thuyết bằng tiếng
Pháp với thính giả Pháp, xin đơn cử:
- Ngày 14/1/1920, tại số 3 đường Château - Paris, Nguyễn Ái Quốc diễn thuyết về đề tài Sự tiến triển trong xã hội các dân tộc châu Á và những yêu cầu của nước Nam (Theo báo L’Humanité các số ra ngày 13 và ngày 14/1/1920 và báo cáo của mật thám Jean).
- Ngày 11/2/1920, Nguyễn Ái Quốc thuyết trình đề tài Chủ nghĩa cộng sản ở châu Á và vấn đề ruộng công điền ở Trung Quốc và Việt Nam, tại Hội nghị những người thanh niên cộng sản Quận 2 (Theo báo cáo của mật thám Jean).
- Tại cuộc mít-tinh kỷ niệm ngày 1/5/1920, Nguyễn Ái Quốc đã lên diễn đàn nói về Chương trình hoạt động của Nhóm Xã hội đòi ngừng gửi người thuộc địa sang Pháp (Báo cáo của mật thám Jean).
- Ngày 25/12/1920, Nguyễn Ái
Quốc, đại biểu duy nhất là người bản xứ, được mời tham dự Đại hội lần
thứ XVIII Đảng Xã hội Pháp, khai mạc tại thành phố Tours. Ngay buổi
chiều hôm sau, anh được Chủ tịch phiên họp - Emile Goude - mời lên phát
biểu. Lần đầu tiên trong đời, anh được dự một Đại hội lớn với sự có mặt
của những trí thức tên tuổi của nước Pháp bấy giờ, nên không tránh khỏi
xúc động, có lúc hơi thiếu bình tĩnh. Bài phát biểu ứng khẩu, được biên
bản tốc ký ghi lại cho thấy ở anh một tư duy và ngôn ngữ Pháp sắc sảo,
súc tích, sáng sủa, mạch lạc, tập trung vào mục tiêu tố cáo tội ác của
chủ nghĩa thực dân, kêu gọi sự ủng hộ thiết thực sự nghiệp giải phóng
các dân tộc thuộc địa. Bài phát biểu đã được Đại hội nhiều lần vỗ tay
hoan nghênh nhiệt liệt.
Phát biểu tiếp theo đại biểu Đông Dương, chủ tịch phiên họp - E.Goude - đã nhận xét: “Bằng một thứ tiếng Pháp tuyệt vời (en un excellent français), ông
đã tố cáo những tội ác, những hành động đàn áp và chuyên chế mà hai
mươi triệu người An Nam là nạn nhân, họ bị đầu độc bằng rượu và thuốc
phiện, bị bóc lột và truy nã bởi một thứ công lý tư sản đè nặng lên họ.
Tất cả những đảng viên xã hội nhất trí phản kháng, chống lại những bất
công và tội ác của thứ công lý tư sản ở Đông Dương” (Vỗ tay) [7].
Đưa ra một vài dẫn chứng để
hiểu được trình độ tiếng Pháp của Nguyễn Ái Quốc vào quãng năm
1919-1920, khi ông bước vào hoạt động chính trị ngay tại thủ đô Paris.
Tất nhiên, từ văn nói đến văn viết còn phải qua một chặng đường học tập
và rèn luyện nữa. Nguyễn Ái Quốc hiểu rằng, hoạt động chính trị công
khai giữa Paris phải sử dụng được vũ khí tuyên truyền sắc bén là sách
báo, nên đã ra sức học viết, trước hết là học với người thầy trực tiếp ở
ngay cùng nhà là Phan Văn Trường, sau đó là miệt mài ở các thư viện.
Nhờ khiêm tốn và dày công học hỏi, nên ông Nguyễn đã tiến bộ rất nhanh
trong viết báo. Dấu ấn phong cách Phan Văn Trường trong những bài viết
đầu tiên của Nguyễn Ái Quốc là rất rõ, hoặc do Phan Văn Trường hướng dẫn
hoặc được Phan trực tiếp sửa chữa, nên sự khó phân biệt cũng là dễ hiểu
(chính Hồ Chí Minh sau này đã công khai nói rõ điều đó). Vì vậy, ngày
nay mới cần đến sự thẩm định của nhà nghiên cứu.
Thụy Khuê xuất phát từ cái
nhìn miệt thị cho rằng, Nguyễn Tất Thành tuy cũng xuất thân con quan,
nhưng khi xuất dương đã phải sống một cuộc sống nghèo khổ, cực nhọc,
không được học hành, không có bằng cấp như Phan Văn Trường, Nguyễn Thế
Truyền, Nguyễn An Ninh, nên không đủ kiến thức và Pháp văn để viết, vai
trò của ông trong tờ báo Le Paria chỉ là “giữ sổ sách, tập viết mấy dòng tin tức, in và phát truyền đơn”
thế thôi! Những câu viết khinh thị với đầu óc nặng bằng cấp này chứng
tỏ Thụy Khuê tuy sống ở Pháp đã lâu nhưng lại không có được cái nhìn
tiên tiến của giới trí thức Pháp.
Người Pháp thứ thiệt lại rất
coi nhẹ bằng cấp mà coi trọng thực tài, đề cao tư duy độc lập, khả năng
phản biện và cá tính sáng tạo. Hãy nghe một trí thức Pháp, ông Daniel
Hémery, đánh giá về Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh sau này: “Hồ Chí
Minh không hoàn thành trọn vẹn một chương trình giáo dục nào, ông cũng
không tiếp nhận đầy đủ một nền tri thức hiện đại cũng như nền nho học cổ
truyền mà đứng giữa hai nền văn hóa đó. Ông là một người tự học đầy tài
năng, là hình mẫu của giới trí thức không bằng cấp, sẽ giữ vai trò
quyết định trong phong trào cách mạng” [8].
3. BÚT DANH NGUYỄN ÁI QUỐC TRỞ THÀNH TÊN RIÊNG CỦA NGUYỄN TẤT THÀNH NHƯ THẾ NÀO VÀ TỪ BAO GIỜ?
3.1. Bút danh Nguyễn
Ái Quốc xuất hiện lần đầu tiên tháng 6/1919 trong bản Thỉnh nguyện thư
gửi hội nghị Versailles, đồng thời cũng được gửi đến Tổng thống Hợp
chủng quốc và các đoàn đại biểu nhiều nước tham dự Hội nghị. Theo nhiều
nhà nghiên cứu, sáng kiến đưa thỉnh nguyện thư là của Phan Châu Trinh,
Nguyễn Tất Thành và do Phan Văn Trường chấp bút, dưới ký một bút danh
chung là Nguyễn Ái Quốc, nhưng địa chỉ ghi bên dưới không phải 6 Villa
des Gobelins mà là 56 phố Monsieur le Prince, nơi cư trú lúc đó của
Nguyễn Tất Thành.
Ngày 14/11/1919, Bộ Thuộc
địa Pháp có thư mời Nguyễn Ái Quốc đến gặp để kiểm tra lý lịch, đã gửi
thư về địa chỉ này, nhưng khi đó anh Thành đã chuyển đến số 6 Villa des
Gobelins, nhà của Phan Văn Trường [9]. Nhận được thư mời, Nguyễn Tất
Thành ung dung đến trụ sở Bộ Thuộc địa diện kiến Bộ trưởng A. Sarraut -
người đã có hai nhiệm kỳ làm Toàn quyền Đông Dương - và sau đó với P.
Pasquier (người sau này cũng trở thành Toàn quyền Đông Dương). Qua những
cuộc gặp gỡ và đối thoại thẳng thắn này, cùng với kết quả xác minh của
những mật thám người Việt bủa vây quanh anh, người mang tên Nguyễn Ái
Quốc hiện diện bằng xương bằng thịt đã được khẳng định chính là Nguyễn
Tất Thành.
Tất nhiên, bút danh Nguyễn
Ái Quốc có thể vẫn được Phan Văn Trường tiếp tục sử dụng trong một thời
gian nữa, từ cuối năm 1919 đến đầu năm 1920, một là vì thời gian đó, bản
Yêu sách vừa mới được công bố trên L’Humanité, các thế lực thực dân đang có phản ứng mạnh về nội dung bản Yêu sách,
bút danh Nguyễn Ái Quốc đang nổi như cồn, ký bút danh đó sẽ được người
đọc chú ý hơn; hai là xét về nội dung các bài báo xuất hiện cuối năm
1919 như Ở Đông Dương, vấn đề dân bản xứ (L’Humanité, ngày 2/8/1919), bài Đông Dương và Triều Tiên (Le Populaire ngày 4/9/1919), bài Thư gửi ông Outrey (Le Populaire, ngày 14/10/1919), nói chung đều xoay quanh nội dung bản Yêu sách, cùng một mạch văn, nên có thể vẫn do Phan Văn Trường viết.
Điều này cũng đã từng được
Tiến sĩ sử học Thu Trang nêu lên qua phân tích sự khác nhau trong lối
hành văn, cách lý luận giữa Phan Văn Trường và Nguyễn Ái Quốc, một bên
là luật sư, “có một túi luật lệ”, nên thỉnh thoảng ông đưa sự hiểu biết
chuyên môn của mình ra để đấu khẩu với những tên thực dân” (như bài Thư gửi ông Outrey);
còn Nguyễn Ái Quốc, trong những bài báo về sau, “không mấy khi Nguyễn
dùng luật lệ để bắt bẻ thực dân, mà phần nhiều hay dùng những chứng cớ
hiển nhiên, dễ hiểu, thực tế đập vào mắt độc giả. Nội dung giản dị, dễ
đọc, không đi vào chuyên môn; khi cần dẫn chứng thì mới trích đoạn chỗ
này, chỗ khác, hoặc trích vài con số để chứng minh sự thật” [10].
Thu Trang nghi vấn các bài
này có thể là của Phan Văn Trường, chứ không hề nghĩ đến Nguyễn An Ninh
hay Nguyễn Thế Truyền như Thụy Khuê đã gán một cách vô căn cứ cho hai
người này, đơn giản là vì, vào năm 1919-1920 Nguyễn Thế Truyền vẫn chưa
có mặt tại Paris. Theo Đặng Hữu Thụ [11],
từ năm 1916-1920, ông Truyền đang học đại học ở Toulouse, miền Nam nước
Pháp; năm 1920 tốt nghiệp kỹ sư hóa học và cử nhân khoa học ban Lý -
Hóa, sau đó ông về nước cưới vợ và ở lại trong nước hơn một năm. Ngày
23/8/1921, ông lại được học bổng của Thống sứ Bắc Kỳ, tiếp tục đi du học
lần thứ ba, theo học tại Đại học Sorbonne, cuối năm 1922 đậu cử nhân
triết học và bắt đầu kết giao thân thiết với Nguyễn Ái Quốc và viết báo Le Paria;
có một thời gian ngắn ông tá túc ở số 6 Villa des Gobelins, sau đó ông
Truyền thuê nhà ở tại số 6 đường Saint-Louis-en-l’Ile Paris. Như vậy,
những bài báo đầu tiên của Nguyễn Thế Truyền sẽ chỉ bắt đầu xuất hiện
vào cuối năm 1922 trên tờ Le Paria.
Còn Nguyễn An Ninh, sinh năm
1900, 18 tuổi ông mới sang Paris, tiếp tục học luật tại Sorbonne, hai
năm sau (1920) đậu xuất sắc bằng cử nhân luật, nhưng chưa thấy nói đến
những hoạt động chính trị của ông vào thời gian này. Như vậy, khó có thể
nói võ đoán như Thụy Khuê rằng Thư gửi ông Outrey là của Nguyễn An Ninh viết, với một lập luận “kỳ khôi” rằng: “Outrey
và Nguyễn An Ninh cùng ở Nam Kỳ nên biết rõ hành tung của nhau: Outrey
biết rõ gốc gác và hành động của Nguyễn An Ninh,… khi đọc văn, y đoán
chắc là của Nguyễn An Ninh, nên trong lời buộc tội ở hạ viện, Outrey đã
mô tả Nguyễn Ái Quốc như Nguyễn An Ninh”(sic)!
Thụy Khuê cần biết rằng
Outrey là ủy viên Hội đồng thuộc địa Nam Kỳ và là đại biểu của Hội đồng
thuộc địa Nam Kỳ trong Hạ viện Pháp, rồi làm Thống đốc Nam Kỳ, đang dòm
ngó chức Toàn quyền Đông Dương; còn Nguyễn An Ninh khi ở trong nước mới
chỉ là một học sinh Cao đẳng pháp chính thuộc Đại học Đông Dương, chưa
đến 18 tuổi, hãy còn vô danh, nghĩa là chưa viết lách và chưa có hoạt
động chống đối tiếng tăm gì, vậy tại sao một quan chức thực dân cao cấp
như Outrey lại có thể “biết rõ gốc gác và hành tung của Nguyễn An Ninh,
khi đọc văn y nhận ra ngay để có thể khẳng định Nguyễn Ái Quốc chính là
Nguyễn An Ninh? (Những lập luận kiểu “tự do sáng tác” như thế này không
hiếm trong bài viết của Thụy Khuê, có dẫn ra nữa cũng chỉ làm mất thêm
thì giờ của độc giả).
3.2. Vậy bút danh
Nguyễn Ái Quốc trở thành tên riêng của Nguyễn Tất Thành từ bao giờ? Cần
nói ngay rằng, “nhóm Ngũ Long” là do người đời sau đặt ra để tôn vinh
năm nhà hoạt động yêu nước nổi tiếng có mặt tại Paris trong những năm 20
của thế kỷ trước (ví như người ta vẫn đặt: “Nam Đàn tứ hổ”, “Thăng Long
tứ kiệt”,…) chứ không phải là một “nhóm” có ý nghĩa về tổ chức, hình
thành và hoạt động bên nhau cùng một lúc. Mỗi người có một vai trò và
nổi lên ở một giai đoạn nhưng không phải khi nào họ cũng nhất trí với
nhau về xu hướng, quan điểm và phương pháp hành động.
Nguyễn Ái Quốc từ khi gia
nhập Đảng Xã hội rồi trở thành người cộng sản thì xu hướng ngày càng cấp
tiến, hoạt động ngày càng mạnh mẽ; Phan Văn Trường là một trí thức có
quốc tịch Pháp nên chủ yếu muốn dựa vào pháp luật và báo chí công khai
để đấu tranh; Phan Châu Trinh thì chủ trương cải cách ôn hòa, mềm mỏng,
không muốn làm mất lòng người Pháp. Họ thường tranh luận, có khi to
tiếng với nhau, từ đêm này qua đêm khác, khiến hàng xóm phải than phiền.
Tranh luận mãi mà không thuyết phục được nhau cũng mệt mỏi, cuối cùng
đành mỗi người tạm đi một nơi: Cụ Phan dọn về ở 21 Pernety rồi cuối năm
đó xuống Marseille làm việc hơn một năm; Nguyễn Ái Quốc dọn về số 9 Ngõ
Compoint, Phan Văn Trường đi Mayence, ngôi nhà ở Gobelín bỏ trống. Tuy
vậy, về mặt tình cảm, họ vẫn kính trọng nhau và duy trì quan hệ với nhau
hết sức tốt đẹp.
Thực tế đó cho thấy, Nguyễn
Ái Quốc đã đi theo một con đường riêng, xu hướng thiên tả của anh được
bộc lộ rõ ràng và mạnh mẽ trong hoạt động cũng như trong các bài viết,
điều đó làm cho một số người e ngại. Phan Châu Trinh nhận xét về anh
Thành là còn quá trẻ và có bầu máu quá nóng; Khánh Ký thì cho là do hoạt động của Nguyễn Ái Quốc mà cảnh sát đã làm rầy rà cho những người An Nam ở số 6 villa des Gobelins
(mật báo của Devèze ngày 27/12/1920). Có thể nói, từ khi gia nhập Đảng
Xã hội Pháp năm 1919, rồi sau Đại hội Tours (tháng 12/1920), trở thành
người cộng sản, bút danh Nguyễn Ái Quốc ký dưới những bái báo có xu
hướng xã hội chủ nghĩa, thường hay nhắc đến Quốc tế Cộng sản, đã trở thành bút danh riêng của Nguyễn Tất Thành. Đó là điều dễ thấy, không ai có thể xuyên tạc được.
4. VỀ TÁC PHẨM ĐÔNG DƯƠNG VÀ BẢN ÁN CHẾ ĐỘ THỰC DÂN PHÁP
4.1. Trong bài viết của mình, Thụy Khuê có nói đến cuốn La France en Indochine của Nguyễn An Ninh được viết và xuất bản tại Pháp tháng 4/1925, nhưng thừa nhận nay không còn dấu tích (nghĩa là Thụy Khuê cũng chưa từng nhìn thấy, chưa nói là từng đọc), chỉ còn bài viết La France et l’Indochine của ông đăng trên Europe,
số 31, ra ngày 15/7/1925 cho ta biết tư tưởng đấu tranh của Nguyễn An
Ninh. Thế mà Thụy Khuê đã vội phỏng đoán một cách hồ đồ rằng: “Cuốn sách
mang tên Đông Dương (1923-1924) được dịch và đưa vào Hồ Chí Minh toàn tập, tập 1, phải chăng đây chính là tác phẩm La France en Indochine mà Nguyễn An Ninh đã cho in năm 1925?” (sic!).
Để tránh những kết luận liều
lĩnh như trên, tôi khuyên Thụy Khuê nên đến Trung tâm lưu trữ tư liệu
lịch sử Nga, vào phòng Quốc tế cộng sản, mở cặp tư liệu về Nguyễn Ái
Quốc, đọc Hồ sơ số 7, sẽ thấy bản thảo bút tích, đánh máy tiếng Pháp,
cuốn sách nhỏ nhan đề Đông Dương của Nguyễn Ái Quốc được lưu tại đó. Trang bìa in nền hoa văn, có chữ viết tay của thủ thư bằng tiếng Nga, dịch ra như sau:
ĐÔNG DƯƠNG
Dự thảo cuốn sách nhỏ của đồng chí Quốc
(1923-1924)
Dự thảo có 18 bài, gồm 82
trang đánh máy tiếng Pháp, với các đề mục như sau: 1. Sa géographie. Les
classes. L’histoire; 2. Sa vie économique; 3. Les méfaits du
militarisme; 4. Les atrocités de la civilisation; 5. Mentalité
coloniale; 6. Les administrateurs; 7. Parasitisme et pétaudière; 8. Le
consortium des bandits; 9. Concessions et concessionnaires; 10. Les
travaux publics; 11. Corvées ou travaux forces; 12. L’obscurantisme; 13.
La presse; 14. Les impôts; 15. La résistance; 16. L’Eglise; 17. La
Justice; 18. L’Annam vu par les français.
Đọc qua, người đọc có thể thấy ngay tên một số đề mục có sự trùng hợp với tên một số chương của Bản án chế độ thực dân Pháp, có điều cuốn Đông Dương chỉ giới hạn tố cáo tội ác chế độ thực dân trong phạm vi xứ Đông Dương, còn Bản án
đã được tác giả bổ sung và phát triển, mở rộng sự tố cáo ra các thuộc
địa Á - Phi khác thành một tác phẩm đầy đặn hơn. Ông D. Hémery đã cho
rằng Đông Dương chính là tiền thân của tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp.
4.2. Trước khi đề cập đến tác phẩm Bản án, tưởng cũng nên nói qua về những bài viết trên báo Le Paria. Vẫn quen lối nói bất cần khảo chứng, Thụy Khuê cứ tùy tiện nói bừa: “những bài xuất hiện trên báo Le Paria và L’Humanité, phần lớn là của Nguyễn Thế Truyền; những bài trên Le Libertaire, phần lớn là của Nguyễn An Ninh; những bài ký tên Nguyễn Ái Quốc sau khi Nguyễn Tất Thành đi Nga, từ 1923 đến 1927, trên Le Paria và trên Inprékorr,
báo Nga ấn bản Pháp ngữ, cũng của Nguyễn Thế Truyền” (sic)! “Nói có
sách, mách có chứng”, yêu cầu đó đối với người Việt Nam, ngay cả trẻ
con, ai cũng đều biết cả. Nhưng vì quá hăng hái “lập công” nên Thụy Khuê
đã liều lĩnh nói bừa, vì vậy cũng chẳng đánh lừa được ai!
Cần nhắc lại rằng báo Le Paria do
Nguyễn Ái Quốc tham gia sáng lập, trực tiếp làm chủ nhiệm kiêm chủ bút
và viết chính, số đầu ra ngày 1/4/1922, ngay trong số 1 đã có giới thiệu
về số 2: đón đọc bài “Động vật học” được viết rất hay của Nguyễn Ái Quốc, photographe - (chữ thợ ảnh được chú thích đàng hoàng như một chức danh, đó là bài viết của một thợ ảnh chứ không phải của một avocat hay licencié nào).
Còn Nguyễn Thế Truyền, như đã nói ở trên, mãi cuối năm 1922 mới kết thân với Nguyễn Ái Quốc và tham gia cộng tác với Le Paria, khi đó bút danh Nguyễn Ái Quốc từ lâu đã trở thành tên riêng của Nguyễn Tất Thành rồi. Trong 38 số báo Le Paria,
có tới 37 bài của Nguyễn Ái Quốc, không kể bài dịch, với văn phong giản
dị, thiết thực nhưng không kém phần trào lộng tinh tế, châm biếm sắc
sảo, dồi dào tình cảm cách mạng và có tính chiến đấu cao, không thể trộn
lẫn được. Chính nội dung những bài viết này, sau đã được Nguyễn Ái Quốc
sử dụng lại, đưa vào tác phẩm “Bản án”.
Có điều lạ là Thụy Khuê đều vơ tất cả các bài trên Le Paria và
trên các báo khác về cho Nguyễn Thế Truyền và Nguyễn An Ninh mà lại gạt
Phan Văn Trường ra? Nên nhớ, mãi đến 6/12/1923, ông Phan Văn Trường mới
lên tàu về nước. Dưới một bút danh mới là PHAN, ông đã viết nhiều bài
cho Le Paria, theo GS Nguyễn Phan Quang, trong cuốn Luật sư Phan Văn Trường [12], các bài đó được đăng trên Le Paria các số: 11, 12, 13, 14, 16, 18-19, 21,… trong các năm 1922 - 1923.
Đối với tác phẩm Bản án,
lúc đầu, Thụy Khuê khẳng định rằng đó là của Nguyễn Thế Truyền, sau có
lẽ thấy nói thế không thuyết phục được ai, nên đổi giọng: “có thể được
coi là một sáng tác tập thể, mà Nguyễn Thế Truyền làm chủ biên và viết
lời giới thiệu”.
Thụy Khuê dẫn thêm một câu của Trần Dân Tiên: “Ông Nguyễn chỉ viết một cuốn sách duy nhất là quyển Bản án chế độ thực dân Pháp,
trích trong những sách của người Pháp viết để ở thư viện quốc gia”, để
rồi lu loa lên rằng: viết như thế “chứng tỏ ông chưa đọc Bản án chế độ thực dân Pháp
vì “chẳng có cuốn sách nào của người Pháp lại viết về tội ác của một
thành phần dân tộc mình, như thế, lưu trong thư viện để ông chép
lại”(sic)!
Ô hay! Thật kỳ lạ cho tư duy
của một nhà phê bình! Chẳng lẽ ở Pháp, Thụy Khuê chỉ quen biết với toàn
những tên thực dân mà quên rằng nước Pháp còn là quê hương của lý tưởng
Tự do, Bình đẳng, Bác ái, của những người xã hội và cộng sản, của những
trí thức chân chính theo đuổi lý tưởng nhân đạo và chính nghĩa, như J.
Jaurès, A. France, M. Cachin, Vigné D’Octon và rất nhiều người khác nữa.
Họ viết sách, viết báo lên án tội ác của chủ nghĩa thực dân, bênh vực
các dân tộc thuộc địa; Nguyễn Ái Quốc trích dẫn họ như là một cách dùng
“gậy ông đập lưng ông” thì có gì là lạ? Đây là dụng ý của Nguyễn Ái
Quốc, được mật thám Jean ghi lại và đưa vào mật báo ngày 19/1/1920: “Tôi
không muốn tự mình viết lấy, vì như thế không có giá trị trung thực.
Tôi sẽ dùng những đoạn văn trong số sách đã viết về thực dân Pháp. Tôi
sẽ cố gắng làm cho đậm nét những đoạn ấy” [13].
Có thể thấy, chính Thụy Khuê chưa đọc, hơn nữa có thể còn chưa được nhìn thấy tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp
của Nguyễn Ái Quốc được xuất bản năm 1925 (hay 1926?) tại Paris, nếu
được nhìn qua thôi, chắc không dám liều lĩnh nói sách này là của Nguyễn
Thế Truyền hoặc do ông Truyền làm chủ biên, đơn giản là vì ngay trước
trang bìa bên trong, sách đã in trang trọng ảnh chân dung tác giả của nó là: Nguyễn Ái Quốc!
Một điều cũng hiếm thấy ở phương Tây lúc bấy giờ. Chính Nguyễn Thế
Truyền trong Lời giới thiệu cũng viết: chúng tôi sẽ lần lượt đưa ra
những bản án của các dân tộc là thuộc địa của Pháp trong một loạt các
tập sách nhỏ mà mở đầu bằng bản án của một người An Nam: Nguyễn Ái Quốc.
Đề cập đến vấn đề tác giả của Bản án, ông Đặng Hữu Thụ, vốn người Hành Thiện, tác giả cuốn sách khá đầy đặn về Thân thế và sự nghiệp nhà cách mạng Nguyễn Thế Truyền, cho biết: “Trước
khi đi Mạc Tư Khoa, ông Nguyễn Ái Quốc có viết cuốn sách lên án chế độ
thực dân Pháp bằng Pháp ngữ. Ông có giao bản thảo sách cho ông Nguyễn
Thế Truyền nhờ sửa chữa lại bản thảo, đề tựa và cho in tại Pháp. Sách
được in năm 1926 tại Paris, có bài tựa của ông Nguyễn Thế Truyền”
(tr.120). Ông Truyền nhờ ông Bửu Nghi, du học ở Pháp, là bạn thân
của ông Truyền, sửa dùm các lỗi chính tả, văn phạm, lời văn; sau ông
Truyền xem lại, sửa chữa lần nữa, gọt giũa câu văn, viết lại nhiều câu ý
tưởng còn thiếu mạch lạc, trước khi trao cho nhà in (tr.123-124). Ông
Thụ kết luận: “Vậy tác giả cuốn sách trên là ông Nguyễn Ái Quốc” (tr.125).
Thụy Khuê chắc đã đọc kỹ
cuốn sách này vì đã đôi lần trích ý kiến Đặng Hữu Thụ trong bài của
mình, nhưng đến đoạn này lại lờ đi không nhắc đến chỉ vì nó không có lợi
cho dụng tâm đang muốn thực thi. Cách trích dẫn của Thụy Khuê là như
vậy, nhiều khi cố tình cắt xén, cốt sao đạt được ý đồ của mình. Bản Việt Nam yêu cầu ca
được Nguyễn Ái Quốc chuyển thành văn vần để cho những người ít chữ dễ
thuộc, dễ nhớ, nhưng không thể đưa in vì ở Pháp lúc đó không có chữ in
Quốc ngữ có dấu, nên Nguyễn Tất Thành phải viết tay, làm bản chụp rồi in
ra. Bài ca viết theo thể lục bát, bản phô-tô trong sách của Thu Trang
cho thấy Nguyễn Ái Quốc viết liền 2 câu 6/8 cùng 1 dòng. Thụy Khuê chỉ
chép lại trong bài viết của mình toàn các câu 6, bỏ các câu 8, làm cho
nó trở nên ngô nghê, chẳng còn vần điệu gì, cốt để hạ một câu: Nguyễn
Tất Thành do sớm bỏ học, nên tiếng Pháp sơ sài, Quốc ngữ cũng kém!
Vở kịch Le Dragon en bambou (chứ không phải de bambou
như Thụy Khuê viết) cũng đuợc gán cho là của Nguyễn An Ninh mà không
đưa ra được chứng lý nào. Chúng ta được biết, Nguyễn Ái Quốc không chỉ
viết báo chính luận mà còn sử dụng các loại hình nghệ thuật khác như
truyện, ký, kịch, tranh biếm họa để phục vụ cho tuyên truyền chống chủ
nghĩa thực dân. Tháng 5/1922, Chính phủ Pháp mở Hội chợ triển lãm thuộc
địa tại thành phố Marseille để khoe công lao khai hóa thuộc địa và có
mời vua bù nhìn Khải Định sang dự để khoe như một món hàng triển lãm. Sự
kiện này làm cho những người Việt Nam yêu nước có mặt ở Pháp cảm thấy
bị sỉ nhục. Một chiến dịch phản đối bùng lên, phê phán mạnh mẽ tên vua
bù nhìn ươn hèn, ăn chơi trác táng.
Phan Châu Trinh viết Thất
điều thư, Nguyễn Ái Quốc viết nhiều bài báo và truyện ngắn châm biếm
Khải Định, trong đó có vở kịch ba hồi Con rồng tre (trước đó ông đã diễn thuyết về đề tài Sân khấu Việt Nam tại
CLB Faubourg buổi sinh hoạt tháng 4/1922). Vở kịch được nhóm Faubourg
đem công diễn và đã được khán giả nhiệt liệt hoan nghênh. Điều này được
chính Léo Poldès, một trí thức phái tả, là chủ nhiệm CLB Faubourg thời
bấy giờ thừa nhận, trong một bài viết đăng trên Tuần báo Ici Paris số 53, ra ngày 11, 12/6/1946 [14], sau khi được gặp lại Nguyễn Ái Quốc đang thăm chính thức nước Pháp thời gian đó.
Bài viết có đoạn: “Tôi đã
đọc tập bản thảo. Thật là hay, thật là đẹp, lời văn vừa chải chuốt vừa
gọn gàng với những cái châm biếm dí dỏm kiểu Aristophane… Thật không ngờ
rằng 25 năm sau, người thợ ảnh ở ngõ hẻm Compoint, tác giả Con rồng tre, lại trở nên một vị Quốc trưởng với cái tên mới Hồ Chí Minh, Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa!”.
Đỉnh cao của sự xuyên tạc
được gói lại trong phần kết luận của bài viết cuối cùng, trong đó Thụy
Khuê đưa ra danh sách những bài báo ký bút danh Nguyễn Ái Quốc từ 1919
đến 1922, tất cả đều được gán cho Phan Văn Trường, Nguyễn An Ninh và
nhiều nhất là cho Nguyễn Thế Truyền, không có bài nào là của Nguyễn Ái
Quốc! Làm một cuộc phủ định sạch trơn như vậy, tác giả muốn nhằm mục
đích gì? Thụy Khuê đã vu cáo một cách thâm độc: “Hồ Chí Minh không ngần
ngại nhận mình là tác giả những bài viết và những công trình không phải
của mình” vì “chính những bài báo đó đã xây dựng nên huyền thoại Hồ Chí
Minh”, “đã xác định tư tưởng Hồ Chí Minh”! “Vì thế, không thể để cho lớp
trẻ học mãi những điều mạo nhận”! (sic).
Tuy nhiên, như bạn đọc đã
thấy, âm mưu “lật đổ thần tượng” của Thụy Khuê đã thất bại thảm hại. Ở
thời đại thông tin phát triển rộng rãi như hiện nay, mọi nguồn lưu trữ
đã được bạch hóa, đến những tài liệu được coi là tối mật của Mỹ cũng đã
được Wikileaks tung lên mạng, trình độ nhận thức của đa số người đọc
ngày nay cũng đã khác xưa; thủ đoạn vu cáo, bịa đặt, xuyên tạc, tung hỏa
mù,…của thời chiến tranh lạnh mà Thụy Khuê quen dùng đã trở nên cũ kỹ,
rất gây phản cảm cho người đọc. Viết văn, viết báo - dù là tiểu trí thức
- thường bao giờ cũng phải lấy sự thật làm đầu, theo đuổi chân lý,
chính nghĩa; nếu cứ ngụy tạo một cách trơ trẽn, để lộ một nhân cách tầm
thường, thì chẳng đánh lừa được ai.
5. THAY LỜI KẾT LUẬN
Mấy bài báo ở thời kỳ đầu
khi Nguyễn Ái Quốc mới bước lên vũ đài chính trị chỉ là số rất nhỏ trong
hàng vạn bài báo và tác phẩm Hồ Chí Minh viết sau này, nó chẳng có vai
trò như Thụy Khuê suy diễn, nếu như có sự lầm lẫn một đôi bài nào đó thì
chính là lỗi ở các sử gia, các nhà sưu tầm, cả Pháp lẫn Việt, chứ không
liên quan gì đến Hồ Chí Minh. Huyền thoại Hồ Chí Minh đâu có thể hình
thành từ vài bài báo? Đó là sản phẩm của một đời đấu tranh vào sinh ra
tử, phải vượt qua bao thử thách hiểm nguy, phải đối phó với bao kẻ thù
hung bạo, trong một bối cảnh quốc tế cực kỳ phức tạp, để lèo lái con
thuyền cách mạng Việt Nam cập bến bờ độc lập, tự do; đó cũng là sản phẩm
của cuộc đời một chính khách trong sạch và liêm khiết có một không hai
như Hồ Chí Minh. Đóng góp vào sự hình thành huyền thoại đó còn phải nói
đến vai trò của các bạn bè Pháp, kể cả mật thám Pháp, như P. Arnoux,…
Tư tưởng Hồ Chí Minh là cả
một hệ thống quan điểm về con đường cách mạng Việt Nam từ độc lập dân
tộc đi tới xây dựng thành công một nước Việt Nam “hòa bình, thống nhất,
độc lập, dân chủ, giàu mạnh và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách
mạng thế giới”. Tư tưởng đó là kết quả của quá trình học tập, thâu hóa
tinh hoa tư tưởng nhân loại, của các vĩ nhân như Khổng tử, Jésus, Marx,
Tôn Dật Tiên,… để từ đó thăng hoa lên thành tư tưởng Hồ Chí Minh. Trả
lời câu hỏi của một phóng viên: ông là ai, theo chủ nghĩa cộng sản hay
chủ nghĩa Tôn Dật Tiên? Hồ Chí Minh từng trả lời: “Tôi vẫn là tôi ngày
trước - một người yêu nước. Tôi hiến dâng cả đời tôi cho Tổ quốc tôi”. Tên gọi Nguyễn Ái Quốc đã kết tụ đầy đủ lý tưởng, bản chất, mục tiêu chiến đấu, phẩm chất đạo đức của cuộc đời Hồ Chí Minh.
Hồ Chí Minh không “vơ vào”
cho mình một chút gì cả! Sinh thời, Người thẳng thắn từ chối mọi danh
hiệu mà người đời khen tặng. Có một nhà văn nước ngoài gọi Người là nhà
thơ, Người khoát tay: nhà thơ gì tôi, chẳng qua là trong tù, đi ngang
được ba bước, đi dọc được sáu bước, không biết làm gì thì làm thơ, thế
thôi. Tôi chỉ là người có chút duyên nợ với báo chí, gọi tôi là nhà cách
mạng chuyên nghiệp là đúng nhất. Cũng cần nhắc lại: Hồ Chí Minh là nhà
lãnh đạo Việt Nam duy nhất không có huân chương, người không tán thành
dựng tượng đồng, bia đá, bảo tàng,… cho mình khi nhân dân còn thiếu bệnh
viện, trường học.
Giáo sư Nguyễn Mạnh Tường,
một trí thức chân chính, vì chính kiến riêng mà phải chịu một cuộc sống
đau khổ hơn ba mươi năm, như một kẻ bị trục xuất ra khỏi cộng đồng (Un excommunié).
Cuối đời, năm 1989, ông được học trò và người thân mời trở lại thăm
nước Pháp, vào đúng lúc sự biến Đông Âu đang xảy ra. Phóng viên báo Le Monde đã phỏng vấn ông. Theo tâm lý thường tình, người ta nghĩ ông sẽ thực hiện “un coup pied de l’âne”
(cú đá của con lừa thừa cơ người khác đang gặp khó khăn). Nhưng nhân
cách của một trí thức chân chính không cho phép ông hành xử như vậy.
- PV: Ngài thấy chủ nghĩa cộng sản bây giờ thế nào?
- GS Nguyễn Mạnh Tường:
Trước hết các ông đừng lẫn lộn chủ nghĩa cộng sản, mà nhiều trí thức
Pháp đã coi là hi vọng cuối cùng của loài người, với những người đã thực
hiện nó.
- PV: Vậy ngài thấy các lãnh tụ cộng sản thế nào?
- GS NMT: Cũng như vậy,
các ông chớ xếp chung các lãnh tụ cộng sản vào một gói. Làm sao có thể
đặt ngang hàng Ceaucescu với Hồ Chí Minh? Các ông đều biết Cụ Hồ đến khi
chết vẫn chỉ có hai bộ quần áo kaki đã sờn và một đôi dép lốp cao su đã
vẹt gót.
- PV: Liệu Việt Nam có như Đông Âu không?
- GS NMT: Đảng cộng sản
Việt Nam cũng có những sai lầm, nhưng không ai quên công lớn của Đảng đã
lãnh đạo nhân dân giành lại độc lập, thống nhất, giải phóng dân tộc [15].
Tôi muốn dẫn một người nữa,
GS Hoàng Xuân Hãn, một học giả đáng kính, được coi như là lương tâm của
trí thức Việt kiều ở hải ngoại. Một phóng viên của Diễn đàn (Paris),
trong một lần trao đổi với GS về sự đánh giá của ông đối với công lao
của Đảng cộng sản Việt Nam, nhất là của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã được
nghe ông tâm sự: “Bây giờ lòng người còn phân tán, hận thù còn quá
nhiều, nên sự đánh giá còn lệch lạc. Nhưng với con mắt của người nghiên
cứu lịch sử dân tộc, bác tin rằng vài chục năm nữa, có lẽ sớm hơn, người
ta sẽ nhìn nhận công lao của cụ Hồ”. Rồi ông nói cụ thể hơn: “Cũng
những anh thanh niên ấy mà bác đã quan sát, vì đã dạy học họ trong mấy
năm, nhưng không tập hợp nhau được, hay tập hợp được cũng chẳng làm nên
việc gì, thế mà hôm trước hôm sau, họ thay đổi hẳn”.
Theo lời phóng viên được đối
thoại thì ý này của GS Hoàng Xuân Hãn trùng hợp với nhận xét của viên
tướng chỉ huy quân đội Nhật ở Đông Dương thời đó, trên đường từ Hà Nội
vào Sài Gòn ngay sau ngày 19/8/1945, ông ta cũng nhận thấy “những đôi mắt, những ánh mắt” trên khuôn mặt người Việt Nam chỉ “hôm trước, hôm sau” đã “hoàn toàn khác hẳn” (do
GS Vĩnh Sính thuật lại). Sau khi ôn lại những cố gắng liên tiếp của các
thế hệ cha ông từ cuối thế kỷ XIX, tìm đường giải phóng đất nước mà
không thành, GS Hãn kết luận: “Vì chưa bao giờ trong lịch sử của
mình, dân ta phải đương đầu với một quốc gia xâm lược mà thế lực, trình
độ phát triển, hơn hẳn ta đến như vậy” [16]. Vậy mà cụ Hồ đã thành công. Có lẽ, đó cũng là nhận thức chung của những trí thức Việt kiều có lương tri ở hải ngoại hiện nay.
Hàng chục năm nay, đã có
không ít kẻ xấu xa bị thất bại ê chề trong âm mưu “lật đổ thần tượng”.
Họ phải biết rằng Hồ Chí Minh, cũng như Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi,…là
những thần tượng muôn đời của dân tộc, nên một vài đứa con lạc bầy, dù
có hò hét điên cuồng đến đâu, cũng không thể nào đánh đổ được. Mong rằng
Thụy Khuê sẽ không ăn phải đũa của những kẻ “bội tín”, sẽ tiếp bước lớp
trí thức tinh hoa ở hải ngoại, có những đóng góp tích cực vào sự nghiệp
đoàn kết, hòa hợp dân tộc và phát triển đất nước.
[1]
|
Những hoạt động của Phan Châu Trinh tại Pháp 1911-1925 (tr.128) và Nguyễn Ái Quốc tại Paris (1917-1923), tr.47.
|
[2]
|
D. Hémery: Ho Chi Minh, de l’Indochine au Vietnam, Descouvertes Gallimard, Paris, 1990. p. 42.
|
[3]
|
Michèle Zecchini: Le Calligraphe (Người viết chữ đẹp). Tạp chí Planète-Action, số 3/1970, p. 24-28.
|
[4]
|
Daniel Hémery: Jeunesse d’un colonisé, Genese d’un exil, Ho Chi Minh jusqu’en 1911. Approches-Asie, No 11/1992. Xem phần Documents Annexes, No 15, Déclarations de Nguyen Tat Dat, 19 mars 1920. p. 144.
|
[5]
|
Xem D. Hémery: Sđd, phần Documents, các số 6, 7, 9 tr. 131, 132, 134.
|
[6]
|
Dẫn lại theo Thu Trang-Gaspard: Ho Chi Minh à Paris, p. 69.
|
[7]
|
Dẫn theo Alain Ruscio: “Le délégué de l’Indochine”(Nguyen Ai Quoc), Intervention au Congrès de Tours, 27 décembre 1920, trong cuốn Le Journal L’HUMANITÉ et l’Indochine coloniale 1904-1954 + quelque textes d’Histoire. Về bài phát biểu của Nguyễn Ái Quốc Discours au Congrès de Tours, (extrait du procès-verbal sténographié), xin xem “Hồ Chí Minh - écrits”, Édition en langues étrangères, Hanoi-1976, p.11-13.
|
[8]
|
D. Hémery: Ho Chi Minh, De l’Indochine au Viet Nam, sđd, tr. 33.
|
[9]
|
Trong Hồi ký 41 năm làm báo,
Hồ Hữu Tường có kể: Lúc đầu, các cụ chọn bút hiệu Nguyễn Ố Pháp (có
nghĩa là Nguyễn ghét Pháp); bút danh này bị các bạn Pháp phản đối, coi
là sô vanh, cực đoan nên mới đổi ra là Nguyễn Ái Quốc. Giai thoại này
cần được thẩm tra lại, vì đến nay vẫn chưa tìm được bài báo nào ký bút
danh Nguyễn Ố Pháp trên các báo ở Paris trước năm 1919; theo thống kê
của A. Ruscio trong “La question coloniale dans L’Humanité (1904 - 2004)”- La Dispute, Paris, 2005, cũng không thấy có. Bút danh này chỉ thấy xuất hiện trên Le Paria
các số 31 (11, 12/1924), số 32 (2/3/1925 và số 33 (4/1925). Số kép
36+37 (10, 11/1925), có đưa tin Nguyễn Ố Pháp dự Đại hội lần thứ ba Quốc
tế những người lao động trong ngành giáo dục, họp ở Paris sau chuyển
sang Bruxellles tháng 8/1925, thời gian này Phan Châu Trinh, Phan Văn
Trường đã về nước, còn Nguyễn Ái Quốc đã rời Paris từ 6/1923 và lúc đó
đang ở Quảng Châu.
|
[10]
|
Thu Trang (Công Thị Nghĩa): Nguyễn Ái Quốc tại Paris, Nxb Chính Trị Quốc Gia, H-2002, tr. 94-95.
|
[11]
|
Đặng Hữu Thụ: Thân thế và sự nghiệp nhà cách mạng Nguyễn Thế Truyền, Paris, 1993, chương I, phần gia thế.
|
[12]
|
GS Nguyễn Phan Quang-Phan Văn Hoàng: Luật sư Phan Văn Trường, Nxb TP Hồ Chí Minh, 1995, tr.78 và 169.
|
[13]
|
Dẫn lại theo Thu Trang: Nguyễn Ái Quốc tại Paris, sđd, tr.128.
|
[14]
|
Léo Poldès: “Le Mystère de Ho Chi Minh”, Ici Paris Hebdo, No 53, 11,12/6/1946.
|
[15]
|
Dẫn lại theo Bee.net.vn ngày 4/12/2010.
|
[16]
|
Nguyễn Ngọc Giao: Hoàng Xuân Hãn: con người và chính trị, bài đăng Diễn Đàn số 53-54, ngày 6/7/1996.
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét