GS. Song Thành
Nguyên Viện trưởng
Viện Hồ Chí Minh
Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại cho chúng ta một di sản vĩ đại về tư
tưởng đạo đức và tấm gương sáng ngời đạo đức, tượng trưng cho những gì cao đẹp
nhất trong tâm hồn, ý chí, nhân cách của con người Việt Nam.
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là một hệ thống toàn diện và phong
phú bao quát hầu hết các khía cạnh của đời sống đạo đức xã hội. Bài viết này
chỉ đề cập đến những quan điểm cơ bản nhất trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
có liên quan đến cuộc vận động giáo dục đạo đức đang diễn ra hiện nay.
1. Đạo đức là cái gốc của người cách mạng
Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh vấn đề giáo dục, rèn
luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân. Người nói: “Cũng như
sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc,
không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì
dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”. Cách mạng là cuộc đấu tranh
lâu dài, gian khổ và phức tạp, đòi hỏi người cách mạng “phải có đạo đức cách
mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”.
Sau thắng lợi của cách mạng Tháng Tám , Đảng ta trở thành đảng
cầm quyền, người cán bộ, đảng viên thành người có chức, có quyền. Quyền lực là
một nhân tố dễ làm tha hóa, biến chất con người. Sớm tiên lượng vấn đề này, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra những căn bệnh của người có chức, có quyền và đặt
lên hàng đầu việc giáo dục, rèn luyện đạo đức. Người nhắc nhở: “Những người ở
các công sở, từ làng cho đến Chính phủ trung ương, đều dễ tìm dịp phát tài, hoặc
xoay tiền của Chính phủ, hoặc đục khoét nhân dân. Đến khi lộ ra, bị phạt thì
mất hết cả danh giá, mà của phi nghĩa đó cũng không được hưởng. Vì vậy, những
người trong công sở phải lấy chữ LIÊM làm đầu”.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, sức hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội
(CNXH) chưa phải ở mức sống vật chất cao mà trước hết là ở giá trị đạo đức của
nó, ở phẩm chất cao đẹp của những người cộng sản. Hồ Chí Minh thường nêu tấm
gương đạo đức của V.I. Lê-nin để nói về ảnh hưởng lớn lao của đạo đức vĩ đại và
cao đẹp của người thầy cách mạng đối với các dân tộc châu á, đã khiến cho trái
tim họ hướng về lãnh tụ cách mạng tháng Mười Nga không gì ngăn cản nổi. Ngày
nay, nếu cán bộ, đảng viên chúng ta để mất đi những giá trị đó, chẳng những sẽ
làm mất đi sức hấp dẫn của CNXH mà còn là nguy cơ đối với Đảng và chế độ, như
Nghị quyết Đại hội X của Đảng ta đã cảnh báo.
2. Đạo đức cách mạng và chính trị cách mạng phải luôn luôn thống
nhất với nhau
Đạo đức cách mạng, theo Hồ Chí Minh, là: “Quyết tâm suốt đời đấu
tranh cho Đảng, cho cách mạng... Hết lòng hết sức phục vụ nhân dân. Vì Đảng, vì
dân mà đấu tranh quên mình, gương mẫu trong mọi việc”. Như vậy, đạo đức cách
mạng là để phục vụ sự nghiệp chính trị cao cả: giải phóng dân tộc, giải phóng
xã hội, giải phóng con người. Sự nghiệp chính trị đó mang giá trị đạo đức cao
cả. Do đó, chính trị và đạo đức dưới chế độ ta luôn luôn thống nhất với nhau.
Đạo đức để phục vụ sự nghiệp chính trị, người hoạt động chính trị phải có đạo
đức.
Nhờ kiên trì giáo dục đạo đức và nêu gương đạo đức của Chủ tịch
Hồ Chí Minh mà đại bộ phận cán bộ, đảng viên, trong hai cuộc kháng chiến chống
Pháp và chống Mỹ, đã nêu cao tinh thần tận tụy, trách nhiệm và đạo đức trong
sạch của người cách mạng, xứng đáng là “công bộc”của dân, góp phần làm cho uy
tín chính trị và uy tín đạo đức của Chính phủ Cụ Hồ thêm toả sáng. Một nền
chính trị liêm khiết đã làm cho chính quyền cách mạng trở nên mạnh mẽ và sáng
suốt, vượt qua được tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, giữ vững thành quả cách
mạng.
Hiện nay, sự thống nhất giữa chính trị và đạo đức trong xã hội
ta đang có nguy cơ bị phá vỡ; nghĩa là đang có mâu thuẫn giữa tư tưởng đạo đức
cách mạng, giữa mục tiêu chính trị cuối cùng với hoạt động chính trị thực tiễn
của một bộ phận cán bộ, đảng viên. Số người này đã lợi dụng chức quyền để trục
lợi, làm ô danh Đảng, làm mất niềm tin của nhân dân vào bản chất tốt đẹp của
chế độ XHCN. Những hành vi quan liêu, tham nhũng, lãng phí, mất đoàn kết,...
của họ không còn dừng lại ở phạm vi đạo đức cá nhân mà đã trở thành những vấn
đề chính trị - xã hội nghiêm trọng, có quan hệ đến an nguy của chế độ.
3. Đạo đức cách mạng đòi hỏi sự thống nhất giữa động cơ và hiệu
quả, giữa nói và làm, giữa đạo đức và tài năng
Đạo đức Hồ Chí Minh không phải là đạo đức tu thân mà là đạo đức
dấn thân, tức là đạo đức trong hành động. Đã là hành động, nhất là hành động
cách mạng, phải chú trọng đến hiệu quả. Nếu làm việc gì cũng không có hiệu quả
thì không thể coi là một người có đạo đức. Như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng căn
dặn: “Phải lấy kết quả thiết thực đã góp sức bao nhiêu cho sản xuất và lãnh đạo
sản xuất mà đo ý chí cách mạng của mình. Hãy kiên quyết chống bệnh nói suông,
thói phô trương hình thức, lối làm việc không nhằm mục đích nâng cao sản xuất”.
Thống nhất giữa động cơ và hiệu quả đòi hỏi phải thống nhất giữa nói và làm,
tức là phải chống bệnh nói suông, chỉ nói mà không làm, hoặc nói hay làm dở,
nói một đằng làm một nẻo,... Hiện nay, khi việc “thương mại hóa” tình người và
các quan hệ xã hội đang có chiều hướng gia tăng, ta cần phải hết sức cảnh giác
với căn bệnh “nói không đi đôi với làm”. Trên thương trường có lối quảng cáo
“một tấc đến trời”; nơi công sở cũng có một số người luôn sống với hai nhân
cách. Trong hội họp, họ thường nói rất hay về nhân ái, liêm chính, lương
tâm,... nhưng trong thực tế hành động thì làm ngược lại. Có một số ít vị “thủ
trưởng”- như chính Chủ tịch Hồ Chí Minh từng phê phán - “chỉ biết nói là nói,
nói giờ này qua giờ khác, ngày này qua ngày khác. Nhưng một việc gì thiết thực
cũng không làm được”; nghĩa là chỉ quen chỉ thị, đề xuất, nói rồi quên, nói cao
giọng mà không tính đến các điều kiện thực tế, đến khả năng thực thi của chính
mình. Hình như họ nói cốt để cho người khác làm, còn chính mình lại không quyết
tâm theo đuổi, chỉ đạo thực hiện đến cùng một công việc nào đó. Thành ra, có
nhiều chủ trương không đi vào cuộc sống, không đem lại chuyển biến đáng kể
trong thực tế, làm giảm niềm tin của dân, gây ra những hoài nghi không đáng có.
Ở Hồ Chí Minh, hiệu quả hành động gắn liền với tài năng. Nói
chuyện với thanh niên, Người nói: “... thanh niên phải có đức, có tài. Có tài
mà không có đức ví như một anh làm kinh tế tài chính rất giỏi nhưng lại đi đến
thụt két thì chẳng những không làm được gì ích lợi cho xã hội, mà còn có hại
cho xã hội nữa. Nếu có đức mà không có tài ví như ông Bụt không làm hại gì
nhưng cũng không lợi gì cho loài người”1. Như vậy, trong tư tưởng đạo đức Hồ
Chí Minh, đức và tài thống nhất làm một, phẩm chất và năng lực là một, trong đó
đức là gốc của tài, tài là sự thể hiện của đức trong hiệu quả hành động. Ta
hiểu, vì sao Hồ Chí Minh vừa rất coi trọng đạo đức lại vừa rất nhấn mạnh tài
năng. Người thấy rõ, không có tài thì cách mạng không thể thắng lợi được.Vì
vậy, Người rất quý trọng nhân tài, có chính sách thu phục và trọng dụng nhân
tài. Bài học tập hợp, tin dùng trí thức của Chủ tịch Hồ Chí Minh sau khi ta vừa
giành được chính quyền vẫn đang có ý nghĩa thời sự nóng hổi, đòi hỏi chúng ta
cần vận dụng tốt để sao cho các nhân tài ở trong Đảng hay ngoài Đảng, ở trong
nước hay còn ở ngoài nước đều được tập hợp, trọng dụng, chung sức, chung lòng
xây dựng Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
4. Đạo đức cách mạng thống nhất với đạo đức đời thường
ở Hồ Chí Minh không có sự phân biệt giữa đạo đức cách mạng với
đạo đức đời thường. Người dùng khái niệm đạo đức cách mạng để phân biệt đạo đức
mới trong thời kỳ đấu tranh cách mạng với đạo đức cũ chịu ảnh hưởng tư tưởng
của giai cấp thống trị, chứ không phải coi đó là hai cấp độ đạo đức khác nhau,
áp dụng cho hai loại người khác nhau. Hoàn cảnh đấu tranh cách mạng đầy gian
khổ, hy sinh đòi hỏi ở người cách mạng phải có sự tu dưỡng đạo đức sâu sắc hơn,
một bản lĩnh đạo đức kiên cường, để: “không tham giàu sang, không ngại gian
khổ, không sợ uy quyền”.
Trong “ba không” ấy, thực tế cũng cho thấy nhiều khi người chiến
sĩ cách mạng có thể dễ dàng vượt qua được uy vũ của kẻ thù, vượt qua được cực
khổ, bần hàn, nhưng lại khó vượt qua được thử thách của vật chất, danh vị, tiền
tài, gái đẹp,... Là một nhà cách mạng từng trải, rất lịch lãm về nhân tình thế
sự, Hồ Chí Minh thấu hiểu được chỗ mạnh, chỗ yếu của con người. Trên trang đầu
cuốn Đường kách mệnh, bàn về tư cách của người cách mạng, Hồ Chí Minh đâu có
nói về những điều to tát, chữ nghĩa cao siêu. Người chỉ bắt đầu bằng những yêu
cầu rất giản dị, gần gũi của đời thường: “Tự mình phải: Cần kiệm,... Không hiếu
danh, không kiêu ngạo. Nói thì phải làm,... ít lòng tham muốn về vật chất”.
Tiếp theo, trong bài Người cách mạng mẫu mực, viết năm 1926, Người lại đưa ra
12 điều, trong đó nhắc nhở người cách mạng phải “xem thường danh vị, ngôi thứ
và tiền bạc, vì chúng là cội nguồn sinh ra đố kỵ và hận thù và là nguyên
nhân của những hành động chỉ điểm, phản bội làm tổn hại nghiêm trọng đến sự
nghiệp cách mạng”.
Cũng như các trường phái đạo đức học tiến bộ trong lịch sử, khi
bàn về hạnh phúc và hưởng thụ, Hồ Chí Minh thường vẫn dành vị trí ưu tiên cho
những giá trị đạo đức - tinh thần so với các giá trị vật chất. Người đã nhiều
lần nói rõ cái hữu hạn của sinh hoạt vật chất so với cái vô hạn của giá trị
tinh thần: “Ai chẳng muốn no cơm, ấm áo. Nhưng sinh hoạt vật chất hết đời người
là hết, còn tiếng tăm xấu hay tốt còn truyền đến ngàn đời sau”. Người kiên trì
nhắc nhở chúng ta: đã là người cách mạng phải sẵn sàng chịu đựng những thiệt
thòi về vật chất để theo đuổi những giá trị tinh thần cao quý như liêm khiết,
công bằng, chính trực,... để xứng đáng là những chiến sĩ tiên phong, gương mẫu
của Đảng.
Tiếc thay, hiện nay có một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên
có chức, có quyền đã không theo được lời nhắc nhở đó. Họ đã bị chủ nghĩa cá
nhân cực đoan, chủ nghĩa cơ hội thực dụng, lối sống buông thả, chạy theo các
dục vọng vật chất thấp hèn,... chi phối. Họ đã vì đồng tiền mà bước qua pháp
luật, đánh mất phẩm giá, mất luôn cả sinh mệnh chính trị, cả sự nghiệp đã theo
đuổi một đời người!
5. Giáo dục đạo đức phải gắn liền với thực hành đạo đức
Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Đảng ta không phải trên trời sa
xuống. Nó ở trong xã hội mà ra. Vì vậy, tuy nói chung, thì đảng viên phần nhiều
là những phần tử tốt, nhưng vẫn có một số chưa bỏ hết những thói xấu: tự tư tự
lợi, kiêu ngạo, xa hoa,...”1. Do đó, Đảng phải tiến hành giáo dục đạo đức cách
mạng cho họ. Người thường xuyên nhắc nhở và chính Người đã kiên trì, liên tục
thực hiện công việc quan trọng này; đặc biệt, ở những thời kỳ có tính bước
ngoặt: cách mạng thắng lợi hay chuyển giai đoạn, từ chiến tranh sang hòa bình,
từ nông thôn vào thành thị,... Người cũng đề ra những yêu cầu đạo đức trong mỗi
lĩnh vực hoạt động của con người: học tập, lao động, sản xuất, chiến đấu; trong
các mối quan hệ chủ yếu: đối với mình, đối với người, đối với việc, từ gia đình
đến xã hội, từ Tổ quốc, nhân dân đến nhân loại.
Ở Hồ Chí Minh luôn luôn có sự nhất quán giữa nói và làm,
giữa giáo dục đạo đức và thực hành đạo đức. Bởi lẽ, đạo đức vừa là một hình
thái ý thức, vừa là một hình thái hoạt động, nó là sự thống nhất có mâu thuẫn
giữa hai mặt đó, tức là giữa ý thức đạo đức và thực tiễn đạo đức, giữa nhận
thức và hành động. Vì vậy, vai trò của giáo dục đạo đức là vô cùng quan trọng.
Đó là quá trình nội tâm hóa những quy phạm đạo đức của xã hội thành hành động
tự giác của mỗi cá nhân. Bộ mặt đạo đức xã hội như thế nào, xét đến cùng, được
quyết định bởi việc giáo dục đạo đức của xã hội ấy làm có hiệu quả hay không.
Muốn đạt hiệu quả, giáo dục đạo đức không thể chỉ dừng lại ở bồi
dưỡng ý thức đạo đức đơn thuần, ở thuyết giảng đạo đức suông. Chủ tịch Hồ Chí
Minh thường nhắc nhở rằng, giáo dục thanh niên không phải là nói cho họ nghe
những bài diễn văn êm dịu hay là những phép tắc đạo đức. Người đòi hỏi giáo dục
đạo đức phải đi liền với tổ chức hành động, trong quá trình hành động lặp đi
lặp lại, hành vi đạo đức sẽ thành thói quen, rồi tiến dần thành phẩm chất,
thành niềm tin đạo đức của cá nhân.
Trong giáo dục đạo đức, việc nêu gương sáng của người lãnh đạo
có vai trò cực kỳ quan trọng, bởi quần chúng sẽ soi vào đó mong tìm thấy lý
tưởng chính trị, lý tưởng đạo đức của Đảng và chế độ ta, để học tập và làm
theo. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách,
đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt
chước”2. “Tự mình phải chính trước, mới giúp được người khác chính. Mình không
chính, mà muốn người khác chính là vô lý”.
Những tư tưởng lớn trên đây của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đạo đức
và giáo dục đạo đức cần được chúng ta tiếp tục nghiên cứu và quán triệt sâu sắc
hơn nữa trong cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”
đang diễn ra hiện nay. Học tập tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, theo đúng tinh
thần Hồ Chí Minh, không phải chỉ để giải quyết vấn đề nhận thức mà cái chính là
phải tổ chức hành động. Chúng ta tin tưởng rằng, với quyết tâm mới và cách làm
mới, cuộc vận động sẽ đạt được kết quả mong đợi: đẩy lùi được tiêu cực, hình
thành được nền nếp tu dưỡng, rèn luyện và giáo dục đạo đức ở trong Đảng và
ngoài xã hội, từng bước làm cho xã hội ta tiến tới là một xã hội đạo đức và văn
minh.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét