Chủ Nhật, 18 tháng 2, 2024

Chúng ta chưa có con ngựa văn hóa để cưỡi

 

Chúng ta chưa có con ngựa văn hóa để cưỡi

Chủ tịch / Tổng giám đốc, InvestConsult Group
09:56 CH @ Chủ Nhật - 09 Tháng Bảy, 2017

Hỏi: Ông có cho rằng môi trường văn hoá tạo nên tài năng không? Chúng ta biết phong trào Thơ mới đánh dấu một sự bùng nổ thi ca với sự xuất hiện của nhiều tài năng trẻ tuổi như Chế Lan Viên, Xuân Diệu, Huy Cận... Phải chăng đó là ảnh hưởng của tư tưởng tự do từ nền văn hoá Pháp? Ngày nay, ở đất nước chúng ta không thiếu những người trẻ tuổi có tài, nhưng họ bị thui chột rất nhanh trong môi trường xã hội Việt Nam. Ngược lại, một đứa trẻ đang học ở Việt Nam rất bình thường, nhưng nếu sang một môi trường được giáo dục tiên tiến hơn, như Mỹ chẳng hạn, thì lại vượt hẳn lên.

Trả lời: Hiện tượng bùng nổ do những trạng thái phát triển mới về tự do không phải là hiện tượng chỉ có ở Việt Nam. Thời kỳ Phục hưng, thời kỳ Khai sáng là những thời kỳ làm bùng nổ rất nhiều tài năng, có những người đã trở thành tài năng kinh điển như Michelangelo, Raphael, Shakespeare, Goethe, Rousseau, Voltaire, Montesquieur... Những trạng thái bùng nổ tinh thần tạo ra sự bùng nổ các tài năng là một hiện tượng có thật. Ở Việt Nam cũng có nhiều lúc như vậy.

Phải nói rằng, những tài năng nghệ thuật ở Việt Nam xuất hiện ở nhiều giai đoạn chứ không phải chỉ trong giai đoạn Thơ mới. Tất nhiên giai đoạn Thơ mới là giai đoạn điển hình, ở đấy người ta bắt đầu ý thức về thân phận con người, thân phận dân tộc. Hoàng Ngọc Phách là người bắt đầu viết tiểu thuyết bằng văn xuôi. Văn xuôi thể hiện năng lực tư duy, năng lực cấu trúc, còn thơ thể hiện năng lực sáng tạo ngôn ngữ. Sự xuất hiện của những nhà thơ như Chế Lan Viên, Huy Cận, Xuân Diệu, hay những nhà văn như Hoàng Ngọc Phách, Nam Cao, Nguyên Hồng, Nhất Linh, Khái Hưng, Thạch Lam... là hiện tượng bùng nổ các tài năng có thật ở Việt Nam. Chúng ta cũng đừng nhầm lẫn rằng ở trong môi trường hiện nay chúng ta không có tài năng. Tài năng là một trạng thái chứ không phải là một con người cụ thể. Cũng không nên nhầm lẫn tài năng như một con người với tài năng như một trạng thái của con người. Tôi cho rằng, tài năng hay thiên tài là kết quả của trạng thái thần thánh mà con người bắt gặp chứ không phải chính nó. Do vậy, đừng nhầm lẫn giữa tác giả và tác phẩm, cũng đừng nhầm lẫn giữa tác giả và con người ấy. Nếu có thiên tài thì mỗi con người chỉ là quán trọ của những trạng thái thiên tài mà thôi.

Chúng ta tôn trọng trạng thái thiên tài của con người, chúng ta thưởng thức trạng thái thiên tài của con người và chúng ta trân trọng con người. Có những người cụ thể rất bần tiện, ích kỷ, khó tính trong đời thường, nhưng đọc tác phẩm của họ thì người đọc không ngờ có những lúc họ lại có sự biểu đạt đẹp đến thế, có những phát hiện thần thánh đến thế. Những câu thơ của Chế Lan Viên như: "Nhà dân chật, dân lên đây phơi thóc. Thóc của dân che kín mộ anh hùng", đấy là những phát hiện thần thánh! Nhưng Chế Lan Viên không phải là thần thánh. Nói cách khác, những trạng thái thần thánh ngụ tạm ở con người Chế Lan Viên trong những thời khắc nào đó. Trong nhiều bài thơ của ông cũng chỉ có 15 - 20% trạng thái thần thánh như vậy thôi, nhưng đừng xem đó là điều bình thường. Bởi vì con người chỉ cần một trạng thái thần thánh cũng đã ghê gớm lắm rồi. Tôi kính trọng Chế Lan Viên chính bởi những trạng thái thần thánh như vậy.

Tuy nhiên, trạng thái thần thánh chỉ xuất hiện trong một điều kiện, trong một sự hỗ trợ nào đó. Nếu không có tự do thì các trạng thái thần thánh không xuất hiện được, hoặc có xuất hiện thì nó cũng bị méo mó. Sự phát hiện ra các giá trị thần thánh trong một tác phẩm văn học không phải chỉ là công việc của người tạo ra tác phẩm, mà còn có cả sự bức xúc thần thánh của người đọc. Cho nên, không có một sân chơi chung, một sân khấu chung để người đọc, tác giả và phần thần thánh của tác giả gặp nhau thì không thể có sự thức tỉnh về giá trị được.

Vậy cái sân chơi chung ấy là gì? Đó là mảnh đất tự do mà ở đấy người viết mô tả một cách tự do trạng thái thần thánh mà mình bắt gặp và người đọc đọc những thông điệp thần thánh đòi hỏi phải đọc. Nếu xã hội không nhận biết được giá trị thần thánh của một tác phẩm thì làm sao mà tác phẩm ấy đến một cách rõ rệt với cuộc đời được? Nếu không được kích thích bởi tình yêu đối với các giá trị thần thánh thì làm sao tác giả viết ra được? Thực ra cuộc sống luôn luôn khó đối với những người sáng tạo. Voltaire, Rousseau, Pasternak... là những người bị truy đuổi, phải sống lưu vong. Sự bất hạnh không phải là yếu tố ngăn cản sự sáng tạo, mà nguyên nhân chính là sự thiếu tự do. Muốn đi trốn thì phải có chỗ để trốn. Khi một con người sáng tạo không còn chỗ để trốn nữa thì không thể có môi trường để sáng tạo được. Những sáng tạo vĩ đại thường không được hoan nghênh ngay từ đầu, phải có thời gian để chất lượng thần thánh trong tác phẩm gặp gỡ chất lượng thần thánh trong người đọc. Cho nên, tôi nghĩ tự do không chỉ tạo ra sự kiên nhẫn, sự dũng cảm của người viết, tự do còn tạo ra sự thức tỉnh các nhu cầu của người đọc.

Quay trở lại vấn đề Thơ mới. Thơ mới không phải là một hiện tượng, một phong trào thần thánh duy nhất trong lịch sử văn chương Việt Nam. Phải nói rằng, thời đại nào chúng ta cũng có những tác phẩm hay, thời chống Pháp, chống Mỹ và bây giờ cũng vậy. Trong thời kỳ chống Mỹ các tác giả bắt buộc phải khoác lên tác phẩm của mình một đống xù xì nhiều thứ phải đạo. Nhưng với tư cách là một người đọc có hiểu biết, người ta phải chịu khó lột cái áo khoác xù xì ấy ra thì mới đọc được cái chân chất, cái cốt lõi ở bên trong để thấy rằng đó cũng là một giai đoạn thúc bách con người sáng tạo. Chẳng hạn, đọc “Dấu chân người lính” của Nguyễn Minh Châu, nếu không biết lột cái tấm áo khoác phải đạo của nó ra thì không thể thấy được giá trị của "Dấu chân người lính". Người ta gọi đó là nền văn học ám chỉ. Cũng có những người sau này buộc phải mặc những bộ cánh rất tội nghiệp để tác phẩm của họ được ra đời, nhưng những thông điệp hay những tia sáng loé lên thông qua những lỗ thủng của cái áo khoác phải đạo của họ đôi khi là thiên tài. Tất nhiên, đọc những tác phẩm của nền văn học có kỷ luật trong thời kỳ chiến tranh và thời kỳ sau này, để tìm ra giá trị thật sự của nó rất vất vả, bởi vì những người viết buộc phải làm những việc có vẻ như hạ thấp mình xuống ngay cả với những giá trị thân thiết nhất của họ. Ví dụ, Chế Lan Viên viết:

Bạn thương mến đừng xua con chim nhỏ
Mỗi câu thơ đều muốn báo tin lành
Đều muốn trút hạt châu vàng khỏi cổ

Mỗi đêm tàn đều muốn hoá bình minh.
Cánh lông dù lạnh lẽo hạt sương đêm
Nhưng sờ xem, dưới lông chim, chim vẫn ấm
Đừng đuổi thơ tôi vì một chút chiều tà nào ngả bóng
Hãy kiên lòng, sẽ thấy nắng mai lên…


(Nhật ký một người chữa bệnh)

Tại sao tác giả “Điêu tàn” làm nghiêng ngả cả thi đàn Thơ mới từ năm 17 tuổi lại phải hạ giọng năn nỉ như vậy? Chúng ta thương, chúng ta xót cho những tài năng như vậy buộc phải mặc những bộ cánh không như ý muốn, thậm chí buộc phải tự hạ thấp mình xuống để tồn tại.

Hỏi: Trong Di cảo thơ Chế Lan Viên, bài "Tháp Bayon" cũng có những lời: "Anh là tháp Bayon bốn mặt. Giấu đi ba còn lại đấy là anh. Chỉ mặt đó mà nghìn trò cười khóc. Làm đau ba mặt kia trong cõi ẩn hình". Chúng ta thấy rằng, khi Liên Xô đổi mới, dù tác phẩm được in hay không, nhiều nhà văn vẫn viết, mặc dù không được ủng hộ. Đấy là bản lĩnh của nhà văn. Nhưng ở đất nước chúng ta không có chuyện ấy. Sau khi cởi mở hơn với văn nghệ, các nhà văn dường như không có thêm sáng tạo nào đáng kể, ngay cả nhóm Nhân văn Giai phẩm cũng vậy.

Trả lời: Không phải chỉ có nhà văn ở Liên Xô vẫn viết mà các nhà văn của chúng ta cũng viết. Sở dĩ chúng ta không đọc được các tác phẩm thời kỳ này là vì những tác phẩm đáng kể lẫn lộn trong nhiều cái không đáng kể và ngay cả có những tác phẩm đáng kể thì chưa chắc chúng ta biết đến để mà đọc. Tuy nhiên phải nói rằng, trình độ phát triển về văn hoá viết của người Việt chưa thể so sánh với văn hoá viết của người Nga được. Sự nghèo nàn của nhà văn hoặc của một tập thể nhà văn không phải do chính tâm hồn họ nghèo nàn mà do bản thân cuộc sống cũng nghèo nàn. Sự đói kém đến mức cằn cỗi trong cuộc sống hàng ngày cũng giết chết không biết bao nhiêu cơ hội để các trạng thái thần thánh xuất hiện trong tâm hồn của mỗi người viết. Còn hiện tượng

Nhân văn Giai phẩmthì còn có nhiều chuyện để bàn. Những thể nghiệm về cách tân thơ ca của Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm... nói cho cùng là nhu cầu tự thân của họ, lúc đầu cũng rất bản năng. Chính sự vụng dại có đôi chút ác ý của một vài người cầm quyền văn nghệ lúc đó làm cho phản ứng của họ trở nên quyết liệt hơn, trở nên đối kháng hơn. Tuy nhiên phải khẳng định rằng cách tân cả nội dung lẫn hình thức là bản năng tự nhiên và lành mạnh của trí thức. Nếu không thế thì không phải là trí thức.

Hỏi: Tôi rất đồng ý với ông về điều ấy. Những nhà thơ như Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm vì bị vùi dập, đè nén nên phải co lại, phải nói để người ta không hiểu được. Cuối cùng họ bị đẩy về phía cách tân, chứ thực chất không hoàn toàn như vậy.

Trả lời: "Không hiểu được" như anh nói bị ảnh hưởng bởi hai yếu tố. Thứ nhất, không hiểu được là vì dần dần chúng ta mất đi cái bản năng tự nhiên để hiểu văn học trung thực. Xã hội không hiểu được văn học trung thực nữa. Cái đau khổ cho người Việt chúng ta là xã hội không còn đủ năng lực để hiểu các giá trị trung thực của văn học nghệ thuật nữa chứ không phải chỉ là “không hiểu được”. Thứ hai là xã hội không còn năng lực hiểu một cách trung thực nên sinh ra hiện tượng người viết viết một cách gian dối, bởi vì người ta biết buôn bán trạng thái không thể hiểu được của xã hội để hy vọng tạo ra cái "thiên tài" của mình. Trong một bài viết trước đây, tôi đã nói rằng, thiên tài là thứ mà người sở hữu nó là người cuối cùng biết về nó. Những "nhà sáng tạo" của chúng ta ý thức được thiên tài của mình trước khi sáng tác, cho nên chúng ta có rất nhiều người "giả vĩ nhân", nói những điều cao cả để hy vọng mình cao thượng, nói những điều bóng bẩy để hy vọng người ta không đọc được bụng mình, và thảng hoặc cũng có những người có ý tốt thì nói một cách cay nghiệt để chọc tức những kẻ mình căm ghét. Nhưng người ta quên mất rằng, trong khi chọc tức những kẻ mình căm ghét thì những người yêu mến mình họ đọc cái gì? Và khi họ đọc cái chọc tức của mình rồi thì họ có còn là kẻ sáng suốt nữa không?

Phải nói rằng, hầu hết các nhà văn nghệ của chúng ta không có điều kiện để tự mình hoàn chỉnh về văn hoá, học vấn và dù có muốn cũng không thể làm được, cho nên, khi viết được cái này thì mất cái kia. Đối với những người đọc chuyên nghiệp thì họ nhận ra ngay tính không chuyên nghiệp hoặc không hoàn chỉnh của người viết.

Hỏi: Tôi là một người đọc rất kỹ nhóm Nhân văn giai phẩm, nhưng nói thực là tôi thấy những sáng tác của họ không phải là những sáng tạo quá ghê gớm.

Trả lời: Tôi nghĩ rằng phải đặt vào bối cảnh lịch sử nhất định thì mới có thể nói về họ một cách công bằng được. Họ là những người viết hiếm hoi xem sự tồn tại giá trị văn chương của mình quan trọng hơn sự tồn tại của chính mình. Chỉ riêng điều ấy thôi cũng đáng để trân trọng rồi. Hơn nữa, trong tất cả cái mớ hỗn độn và đồ sộ của họ, quả thật có những cái rất đẹp. Tôi biết cái mà anh lên án chính là những thủ đoạn của họ trong việc thực thi các sáng tác để tạo ra vẻ hiền triết khó hiểu. Nhiều người cũng dị ứng với chuyện ấy. Có những người lớn tiếng chỉ trích, miệt thị mọi thứ cũng nghĩ mình là thiên tài, đó thực chất chỉ là những người to gan, mà to gan thì không phải là thiên tài. Nguyễn Huy Thiệp có lẽ là nhà văn hiện nay được ca ngợi nhiều nhất, cả ở nước ngoài cũng như ở trong nước, nhưng khi đọc xong các tác phẩm của anh ấy, kể cả tác phẩm nổi tiếng là “Tướng về hưu”, phải nói thật là tôi có cảm giác rùng mình vì sự thiếu nhân văn trong việc sử dụng các chi tiết. Tôi là người ham mê văn học cổ điển Pháp, tôi không thấy ai dùng những chi tiết thiếu nhân văn cả. Một trong những di chứng của nền văn nghệ tuyên truyền chính là ưa dùng các yếu tố kích động, mà kích động thì không phải là nghệ thuật.

Hỏi: Trong thơ ca, có một điều lạ là khi dịch sang một ngôn ngữ khác thì chỉ còn ý chứ điệu thì không giữ được nhiều. Vì các đặc trưng ngôn ngữ của các dân tộc khác nhau.

Trả lời: Khi tôi đọc thơ của các tác giả phương Tây, tôi không đủ trình độ ngoại ngữ để đọc nguyên bản nhưng bao giờ tôi cũng đọc nguyên bản cho dù không hiểu. Như thơ Heinrich Heiner chẳng hạn, tôi đọc cả bản gốc, lẫn bản dịch. Tôi dùng nguyên bản để thẩm định lại chất lượng dịch thuật, mặc dù tôi không đủ năng lực thưởng thức nguyên bản. Riêng đối với thơ tôi thấy có một đặc trưng rất kỳ lạ, dường như nhịp điệu thông qua ngôn ngữ thơ ký gửi rất nhiều thông điệp. Trước đây, khi còn trẻ, tôi đọc thơ Nazim Hickmet hay thơ Heinrich Heiner do Xuân Diệu dịch, tôi thấy Xuân Diệu dịch cũng được, nhưng tôi muốn thẩm định xem ông ấy dịch bao nhiêu, phóng tác bao nhiêu. Nhưng phóng tác cũng không sao cả, con người đủ bản năng để hiểu thông điệp của tác giả, bất chấp mọi bản dịch. Bởi vì thiên tài là những người chỉ cần tạo ra một nét thôi là làm cho mọi ngôn ngữ đều trở nên thống nhất. Chúng ta không có những nhà thơ như vậy.

Hỏi: Đọc những bài thơ nước ngoài, mặc dù không cảm nhận hết được cái hay của nhịp điệu nhưng chúng ta vẫn nhận thấy đằng sau mỗi bài thơ đều ẩn chứa những ý tưởng rất sâu sắc. Còn thơ ca Việt Nam thì cứ à ơi vậy thôi, nó không có ý, không có nội dung gì cả.

Trả lời: Không phải không có ý mà phải nói thật rằng, chúng ta đôi khi nhầm lẫn giữa ý và cảm xúc. Thơ là ý chứ không phải cảm xúc, cảm xúc giống như cái thìa để nuốt cho gọn cái ý thôi. Tại sao không có ý? Vì ý là sản phẩm của trí tuệ mà để tạo ra sản phẩm của trí tuệ thì buộc phải thông tuệ. Người viết mà học vấn thấp thì làm sao mà có ý được? Bởi vì đây không phải là những ý thông thường mà là những ý mang chất lượng hướng dẫn. Nếu anh nhìn cái gì cũng giống cái gì thì không thể có ý được. Nếu ý mà nông nổi thì tuổi thọ của thơ rất ngắn.

Hỏi: Ở Việt Nam hay ở nước ngoài có những trường hợp là những đứa trẻ ra đời chưa được học hành gì cả, tự nhiên nó có những ý nghĩ rất khác thường. Vậy cái đó từ đâu ra?

Trả lời: Anh lấy gì để đảm bảo rằng người lớn tuổi thì thông thái hơn trẻ con? Tại sao người ta thiền? Thiền là một hoạt động cố gắng để đưa con người về trạng thái trẻ thơ. Con người càng già thì việc đưa mình về trạng thái trẻ thơ càng vất vả. Cho nên sự phát hiện của những đứa trẻ thông thái bất ngờ hơn nhiều so với sự lên gân của một ông già. Trần Đăng Khoa lúc trẻ và bây giờ là một ví dụ.

Hỏi: Ông có cho rằng có sự chuyển kiếp không?

Trả lời: Có chứ, thế mới có thiên tài. Thiên tài là sự gặp gỡ của Chúa với mình, mình nói đấy nhưng mà ý là của Chúa. Bây giờ không có Chúa thì làm sao có thiên tài. Trong khi viết, năm 1998 tôi có nói một câu thì năm 2008 tôi vẫn nói đúng câu ấy, mặc dù tôi không hề ý thức gì khi nói. Bởi vì câu ấy không phải là của tôi mà chúa ký gửi vào tôi câu ấy. Nhiều người cho rằng, khi mình lãng quên một điều gì đó đã viết ra, 10 năm sau mình viết lại thì sẽ hoàn chỉnh hơn.

Đó là một sự nhầm lẫn. Làm cho nó gần giống với hình hài mà người khác có thể hiểu được, làm cho người khác dễ hiểu hơn thì chưa chắc làm cho nó đẹp hơn. Có lẽ chuyện này là trừu tượng. Nhưng tôi biết rất rõ rằng, làm cho nó rõ hơn đối với người đọc thì không có nghĩa là làm cho nó đẹp hơn, xét về quan điểm mỹ học.

Hỏi: Đôi khi người ta vẫn tranh luận với nhau về chuyện bao giờ Việt Nam mình có giải Nobel?

Trả lời: Phải nói thật rằng, ở chúng ta đang hình thành một nền văn hoá đầy ảo tưởng: phải có trường Đại học đẳng cấp Havard, phải có giải Nobel… Điều này làm tôi buồn. Nobel không phải là giải thưởng cho một người tài đơn giản mà một người tài cưỡi trên một con ngựa văn hoá rực rỡ. Dân tộc chúng ta chưa có một con ngựa như vậy để cưỡi cho nên chúng ta không được vinh thăng bằng Nobel. Đừng vội vàng hy vọng những chuyện như vậy.

Chúng ta có một xã hội, có một nền chính trị, có một nền kinh tế chưa hoàn chỉnh thì chúng ta chưa nên hy vọng có được giải Nobel. Người ta sẵn sàng bỏ qua một viên kim cương trong vũng bùn bởi vì viên kim cương ấy không đủ giá để người ta cúi xuống bốc cái đống bùn ấy về đãi. Cho nên, nhiệm vụ của chúng ta là làm cho viên kim cương của mỗi một người có nằm trong một cái hộp nhung. Toàn bộ cố gắng vĩ mô của xã hội chúng ta là phải phấn đấu để Việt Nam trở thành một cái hộp bằng nhung chứ không bắt người đời cúi xuống đống bùn để nhặt viên kim cương ở trong ấy. Đấy là chúng ta nói chung như vậy, còn nếu xét về mặt văn chương thuần tuý, chúng ta cũng có những người viết hay, nhiều tác phẩm hay, nhưng tất cả đều bị vấy bẩn cả. Ai lục tung cái đám bụi ấy lên để mà tìm ra những thứ giá trị ở đấy bây giờ? Vì kẻ mua cái giá trị ấy không phải là chúng ta, chúng ta có hét to lên về sự đắt giá của mình thì cũng chẳng thay đổi được gì. Tất cả các giải thưởng được cấp bởi những người giàu có, những vùng phát triển, khi lục lọi trong một căn phòng bụi bặm phải bõ công, họ không mất công mất công như thế. Họ tìm thấy Nguyễn Du đã là một sự may mắn với chúng ta rồi.

Thực ra, chúng ta cũng có nhiều thứ có giá trị nhưng chúng ta không có một miền đất sáng giá để những thứ có giá trị được đặt đúng vị trí của mình. Tôi đi nhiều nước, tôi thấy các nhà văn nước ngoài cũng bụi bặm, đôi khi bê tha, rệu rã và nghèo đói như chúng ta. Nhưng cái khổ của cá nhân họ lại nằm trong một cộng đồng chói sáng, cho nên họ là những kẻ khuân vác những giá trị của xã hội ấy để trình bán cho thiên hạ, còn chúng ta thì khuân vác những giá trị ấy từ đâu? Các nhà văn là những người khuân vác những giá trị mà xã hội có để lắp nó lại thành một kết cấu có giá trị có thể bán được. Vậy các nhà văn của chúng ta khuân vác những thứ gì? Thực ra các nhà văn của chúng ta khuân vác những thứ có giá ở nơi khác đến Việt Nam cho nên, với tư cách là một độc giả đã đọc nhiều văn học nước ngoài, khi đọc các tác phẩm của Việt Nam tôi thấy nhiều người quen, phải gật đầu chào nhiều quá. Tôi nhớ có một nhà báo đã đến phỏng vấn tôi về bảo hộ quyền tác giả trong âm nhạc, tôi cười và nói rằng, các tác phẩm âm nhạc của chúng ta là những buổi dạ hội của những yếu tố quen biết, chúng ta bắt gặp ở trong đấy Chopin, Mozart, Beethoven... Những người có học thì đưa về được nhiều cái tử tế, còn những người ít học thì đưa về ít hơn. Xã hội chúng ta chưa đủ những yếu tố để lắp đặt tạo ra những thứ có giá. Những hiện thực thật sự lớn lao, thật sự khốc liệt thì luôn gắn bó với chính trị, gắn bó với các bí mật chính trị. Đấy vẫn là một cái lô cốt khép kín mà các nhà văn của chúng ta chỉ đứng ở bên ngoài để đoán mò mà thôi. Vì thế những cái đáng viết thì không được viết, cho nên các nhà văn nghệ của chúng ta chỉ canh tác trên những cánh đồng của những thứ không đáng viết.

Xã hội chúng ta chưa có các giá trị phổ quát. Một xã hội có những giá trị phổ quát là một xã hội có một nền văn hoá có giá trị phổ quát. Chúng ta chưa có một nền văn hoá có giá trị phổ quát. Tại sao lại như vậy? Điều này cần rất nhiều suy nghĩ và của rất nhiều người mới có thể giải đáp được. Riêng về văn học, chữ viết hiện đại mới có vài trăm năm, nên chúng ta chưa có những kinh nghiệm để tạo ra những tác phẩm có giá trị phổ quát. Nhiều người nói Vũ Trọng Phụng là thiên tài, lúc đầu tôi cũng nghĩ vậy nhưng sau thì chỉ thấy đó là những ghi chép bản năng, dung tục và đơn giản, vắng bóng những thông điệp có giá trị phổ quát và thiếu vắng vẻ đẹp phổ quát. Nếu đọc "Viên mỡ bò" của Guy de Maupassant, chúng ta sẽ thấy ông ta viết đẹp như thế nào và giá trị khái quát của nó lớn đến thế nào.

Hỏi: Đúng là đọc những nhà văn lớn của thế giới như Maupassant hay Dostoevsky, mình cảm thấy “sợ”. Cái cảm giác ấy không bao giờ có được khi đọc các tác giả Việt Nam.

Trả lời: Những nhà văn như thế thì không chỉ có mình “sợ”, mà kể cả những nhà văn lớn, những nền văn hoá lớn trên thế giới, họ cũng “sợ”. Bởi vì nếu đọc kỹ Dostoevsky thì chúng ta thấy ông ta còn giỏi phân tâm học hơn cả Freud. Những nhà văn lớn, trước khi ngồi vào viết, họ đã là bậc thầy của thiên hạ rồi. Họ là một kinh nghiệm sống khổng lồ trước khi viết cho nên tác phẩm của họ là một giáo trình sống khổng lồ. Tôi nói chuyện với nhiều nhà văn Việt Nam, kể cả những người có tên tuổi, tôi thấy khó khăn để nhìn thấy sự tự tin của họ, nhất là ở những nhà văn lớn và tử tế. Ở những đối tượng không lớn và tử tế thì tôi không nhìn thấy sự tự tin mà chỉ thấy sự tự mãn. Tự tin là kết quả của sự hiểu biết đúng đắn, Sự hiểu biết đúng đắn là kết quả của một nền giáo dục và đào tạo đúng đắn, Chúng ta chưa có nền giáo dục như vậy.

Cho nên hầu hết họ đều khai thác phần bản năng của mình, những kinh nghiệm sống thông thường của họ. Và khai thác bản năng và những kinh nghiệm sống thông thường thì rất khó có thể tạo ra những tác phẩm có chất lượng thiên tài được. Trần Đăng Khoa là một hiện tượng, anh ấy mở đầu cuộc đời nghệ thuật của mình bằng những cuộc gặp gỡ có chất lượng thần thánh, nhưngthần thánh rất sớm ra đi đối với Trần Đăng Khoa. Chúng ta phải thấy rằng, những thứ văn chương nhất thời ở Việt Nam chiếm một tỉ lệ khá lớn, trong đó bao gồm cả những tác phẩm phụ hoạ lẫn những tác phẩm chỉ trích chế độ.

Cả hai loại tác phẩm này đều ký sinh trên những khuyết tật của đời sống. Khi đời sống dịch chuyển đến độ hợp lý thì sự sống của những tác phẩm như vậy cũng chấm dứt.

Nguồn:

Thứ Sáu, 16 tháng 2, 2024

HOÀNG VĂN HOAN VÀ NHỮNG "NƯỚC ĐI" CỦA BẮC KINH

 HOÀNG VĂN HOAN VÀ NHỮNG "NƯỚC ĐI" CỦA BẮC KINH 

Trương Huy San

Ngày 3-7-1979, Phó Chủ tịch Quốc hội Hoàng Văn Hoan trên đường sang Đức chữa bệnh, khi máy bay của hãng Interflux quá cảnh ở Carasi, Pakistan, ông đã cáo bệnh ở lại, rồi hôm sau đánh lừa người bác sĩ đi cùng, đi taxi đến lãnh sự quán Trung Quốc. Ngày 5-7-1979, ông được đưa tới Bắc Kinh.


Đôi bên lặng ngắt. Hơn một tháng sau, ngày 5-8-1979, TTXVN mới phát đi bài phỏng vấn Tổng thư ký UBTV Quốc hội Xuân Thủy về “Vụ Hoàng Văn Hoan bỏ trốn”. 


Ngày 9-8-1979, từ Bắc Kinh, Hoàng Văn Hoan có “Thư gửi toàn thể đồng bào Việt Nam”, buộc tội Lê Duẩn đã “khống chế đất nước”. Theo ông, trong lúc “nhân dân ta đang khao khát sống yên ổn [sau 30 năm chiến đấu gian khổ], xây dựng tổ quốc để mở ra con đường tiến tới tương lai tốt đẹp” thì, “triển vọng đó đã bị Lê Duẩn phá hoại hoàn toàn”.


Bức thư được đài Bắc Kinh và BBC phát đi như một quả bom, chấm dứt những đồn đoán trước đó. Không khí chính trị trong nước đã ngột ngạt, càng thêm ngột ngạt.


Hoàng Văn Hoan “nối gót” một người cùng quê, ông Hồ Tùng Mậu, xuất dương, trở thành “học trò lớp thứ Hai” của Hồ Chí Minh ở Quảng Châu, rồi trở về quê thành lập Chi bộ Thanh niên Cách mạng Đồng Chí Hội đầu tiên ở Quỳnh Đôi. Ông sát cánh cùng Hồ Chí Minh ở “Đảng Cộng sản Xiêm”. Cùng một số người Việt giúp cụ Hồ Học Lãm đồng sáng lập Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội [Việt Minh]. 


Đầu năm 1942, ông về Cao Bằng, cùng Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp “cố vấn cho tỉnh ủy Cao Bằng” xây dựng căn cứ địa Việt Bắc. Ông là một trong 7 người “theo chỉ dẫn của Bác Hồ trực tiếp xây dựng lực lượng vũ trang Cách mạng”[Phùng Chí Kiên, Lương Văn Tri, Chu Văn Tấn, Hoàng Văn Hoan, Võ Nguyên Giáp và Phan Anh, Tạ Quang Bửu (từ Trường Thanh niên Tiền tuyến)].


Trong những ngày ngay sau 2-9-1945, ông là thứ trưởng Quốc phòng và được giao phụ trách công tác chính trị [Chính ủy toàn quân]. 


Năm 1956, ông được bầu bổ sung vào Bộ Chính trị. Trước Đại hội IV, Lê Duẩn cử ông đi “dự phiên họp đầu khóa của Quốc hội Cuba” và khi trở về thì Đại hội đã xong phần trù bị [làm nhân sự], Hoàng Văn Hoan bị đưa ra khỏi Bộ Chính trị.


Trên bàn làm việc của Hoàng Văn Hoan được nói là luôn có một cuốn Đại Việt Sử Ký Toàn Thư bằng chữ Hán[của một học giả người Nhật tặng] và một cuốn Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim. Ông vốn sinh ra trong một gia đình nhà Nho, hẳn biết rõ Trần Ích Tắc, Lê Chiêu Thống, vậy điều gì khiến ông quyết định đến Bắc Kinh khi Bắc Kinh vừa gây ra một cuộc chiến tranh và cả bộ máy tuyên truyền đang khiến nhân dân sục sôi chống “quân bành trướng”?


Ngày 18-5-1991, Hoàng Văn Hoan qua đời ở Bắc Kinh, hưởng thọ 86 tuổi. Theo đề nghị của ông, tro cốt được chia làm 3 phần: “Một phần rắc nơi đầu nguồn sông Hồng để tôi được về với Tổ Quốc Việt Nam thân yêu; Một phần lưu lại Trung Quốc để tỏ tấm lòng lưu luyến, biết ơn của tôi với ĐCS, nhân dân Trung Quốc và bà con Việt Kiều…”


Phần lưu lại được Bắc Kinh đặt trang trọng ở Bát Bảo Sơn, phần đưa về Việt Nam an táng tại quê nhà. Bia mộ ghi ba chữ, “Trung Chính Công” [bậc trung chính]. Hai bên có đôi câu đối: “Công danh kí sơn hà, thiên thu định luận/ Nhân cách tồn chính sử, lưỡng quốc lưu hương”. Trên đầu bia có dòng chữ "Cao chiêm viễn chúc"[đứng trên cao để nhìn xa]. Dưới ghi ”Kính tùng ngạo băng tuyết"[Cây tùng (cứng cỏi) coi thường băng tuyết. Câu này trích từ một bài thơ chữ Hán của Hoàng Văn Hoan với hai câu đầu, "Kính tùng ngạo băng tuyết/ Hàn đống độc thư nghiên"[Cây tùng cứng cỏi ngạo băng tuyết/ Trong sương giá vẫn một mình tươi xanh].


Sau khi Hoàng Văn Hoan “trốn sang hàng ngũ kẻ xâm lược nước ta”[lời của Tòa án], một người đồng chí của ông là Chu Văn Tấn cũng bị giam giữ. Chu Văn Tấn qua đời trong điều kiện bị giam lỏng vào năm 1985.


Ngày 26-6-1980, TAND TC đã tuyên xử tử hình Hoàng Văn Hoan về tội phản quốc. Báo chí thì đã “xử” ông không biết bao nhiêu giấy mực. 


Cứ cho là có “thiên thu định luận”. 


Nhắc lại câu chuyện Hoàng Văn Hoan hôm nay chỉ để nói câu chuyện “chơi bài” của Bắc Kinh. 


Ông Hoàng Văn Hoan làm Đại sứ Việt Nam tại Bắc Kinh từ 1950-1957. Ngay khi có mặt ở TLSQ Trung Quốc ở Carasi, “ông mượn mấy đồng Rupi trả tiền taxi, rồi đi thẳng vào trong nhà tự nhiên như người quen biết cũ”. Khi cầm bức điện Hoàng Văn Hoan thảo gửi Lý Tiên Niệm [CTN], các cán bộ lãnh sự hiểu ngay vấn đề, họ “khẩn trương thu xếp chỗ ở kín đáo” cho ông. 


Ngay chiều hôm đó, Bắc Kinh trả lời và chỉ thị đưa ông tới Bắc Kinh “càng sớm càng tốt”.


Việc đầu tiên, Hoàng Văn Hoan được Trung Quốc đưa vào viện 103, nơi các bác sĩ phát hiện ông bị ung thư phổi. Bắc Kinh đã mời Viện trưởng Viện Ung thư Nhật và một đoàn chuyên gia Nhật sang, hội chẩn và cùng các bác sĩ Trung Quốc mổ cho ông. 


Ông không chỉ được chăm sóc chu đáo ở bệnh viện. Gần 12 năm ở Trung Quốc, Hoàng Văn Hoan được bố trí ở trong một biệt thự lớn gọi là “Lầu 10” nằm trên một đồi cao, phía trước là một vườn đào rộng mấy hecta, phía sau là núi, phía xa là hồ nước “rộng như hồ Ba Mẫu”. 


Lầu 10 nằm ở Ngọc Tuyền Sơn, một khu an dưỡng đặc biệt dành cho lãnh đạo cao cấp. Trong khoảng 1965-1968, Hồ Chí Minh cũng đã mấy lần ở Lầu 1 của Ngọc Tuyền Sơn[cách Lầu 10 hơn 1 km]. 


Ngoài phòng khách, phòng làm việc, phòng giải trí, phòng ngủ, phòng làm thuốc… Lầu 10 còn có nhiều phòng khác cho thư ký, cận vệ, cần vụ, cấp dưỡng, y tá, lái xe… Bắc Kinh cũng dành cho Hoàng Văn Hoan một xe Hồng Kỳ, loại xe chỉ “lãnh đạo tối cao” của Bắc Kinh mới được sử dụng.


Bắc Kinh là thế. 


Năm 1970, Norodom Sihanouk bị Lonnon lật đổ khi ông đang ở thăm Mascova. Chủ tịch HĐBT Liên Xô, Aleksei Kosygin, chỉ cho ông Hoàng biết tin trên đường tống tiễn ra sân bay. Nhưng Bắc Kinh không chơi như vậy. Bắc Kinh vẫn đón Sihanouk theo lịch trình và Chu Ân Lai đã yêu cầu các đại sứ nước ngoài đang ở Bắc Kinh cùng ra bay đón ông Hoàng dù Vua không còn ngai nữa.


Sihanouk cũng ở Ngọc Tuyền Sơn trong nhiều năm với rất nhiều cung nữ và các đầu bếp thượng hạng, có đủ Tây, Tàu.


Bắc Kinh không đặt cược hết vào Khmer Đỏ. Người Trung Quốc biết Pol Pot, Yeng Sary được những người CS Việt Nam đưa vào Đảng ở Paris. Cũng những người CS Việt Nam đảm bảo cho Pol Pot, Yeng Sary tiếp tục sinh hoạt trong tổ chức đảng khi quay về CPC. 


Bắc Kinh thường chỉ hậu thuẫn cho các tổ chức Maoist ở Đông Nam Á như những nhóm phiến quân. Khi đó, Bắc Kinh vẫn tưởng, Khmer Đỏ lên nắm quyền thì sẽ thân Hà Nội hơn. Việc để Khmer Đỏ đứng chung với Sihanouk, sử dụng uy tín quốc gia của ông là do nỗ lực nhiều hơn từ Hà Nội.


Từ năm 1973, theo Thượng tướng Trần Văn Trà, “Ta giúp bạn giải phóng các tỉnh phía Đông CPC”. Năm 1975, đặc công Việt Nam đã giúp Khmer Đỏ đánh sập cầu Chhroy Chhangva và pháo binh Việt Nam đã khống chế sân bay cũng như hỏa lực của Lonnon, giúp Khmer Đỏ nắm quyền ở Phnom Penh trước khi “giải phóng Sài Gòn” hai tuần.


Tôi vừa đọc xong hồi ký của một người Khmer sống sót qua chế độ Pol Pot. Ông là một trong 3 người còn lại trong số khoảng 800 người “Khmer tập kết” mà Hà Nội giao cho Pol Pot, Ieng Sary đầu thập niên 1970s. Rất nhiều người trong số họ đã cố gắng đào thoát sang Việt Nam trước khi Khmer Đỏ lên cầm quyền nhưng đã bị trả lại cho Khmer Đỏ.


Chúng ta đổ xương máu để “rèn” Khmer Đỏ thành một con dao găm. Để rồi Bắc Kinh là người đã nắm đằng cán để thúc lưỡi dao ấy vào sườn phía Tây Nam của Tổ Quốc. 


Năm 1990, khi Lê Đức Anh muốn “giải pháp đỏ” thì Bắc Kinh đã chuẩn bị chơi quân cờ khác. Cộng sản Bắc Kinh sử dụng các quân cờ vì nó sử dụng được chứ không vì nó xanh hay đỏ. 


Ngày 14-11-1991, khi chiếc Boeing đưa Sihanouk từ Bắc Kinh về lại Phnom Penh, xuất hiện cùng ông ở cầu thang máy bay là Hun Sen. Năm 1998, khi đã thiết lập được những mối quan hệ vững chắc với Phnom Penh, Bắc Kinh cắt hầu bao, Khmer Đỏ mới thực sự tan rã. 


Cho dù, trong các cuộc can thiệp quân sự ra nước ngoài trên thế giới từ nửa cuối thế kỷ 20 đến nay, CPC là một điển hình thành công. Chính quyền do Việt Nam dựng lên vẫn tồn tại sau 35 năm rút quân. Nhưng, ai thực sự đắc lợi từ chính quyền ấy mới là điều rất cần suy nghĩ.


Trở lại với câu chuyện Hoàng Văn Hoan trong đoạn kết của cuộc chiến tranh Biên giới Việt - Trung.  


Ngày 29-3-1990, trong một hội nghị quốc tế kỷ niệm “100 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh”, Phu nhân Đại tướng Võ Nguyên Giáp nói với con trai Hoàng Văn Hoan, ông Hoàng Nhật Tân, “Mình nghe nói Trung ương đã quyết định để Tân sang Trung Quốc thăm cụ Hoan”. Và khi ông Tân đến chào Thứ trưởng Ngoại giao Đinh Nho Liêm thì ông Liêm rất niềm nở và nói là “sẽ cử cán bộ đến nhà bàn việc gia đình sang Bắc Kinh thăm ông cụ”.


Ngày 31-3-1990, hai cán bộ ngoại giao đến nhà chính thức thông báo “việc sang Bắc Kinh thăm ông cụ đã được Trung ương chuẩn y”. Cả Bộ Ngoại giao Việt Nam và Sứ quán Trung Quốc nhanh chóng làm thủ tục để phu nhân, con trai và cháu nội Hoàng Văn Hoan đi Trung Quốc hai tuần sau đó. Họ được đón tiếp nồng hậu tại Cửa khẩu. Ngày 17-4-1990, đích thân Bí thư Khu Tự trị Quảng Tây tiễn 3 mẹ con lên một khoang tàu sang trọng chạy đến Bắc Kinh.


Sau một thời gian bố trí cho gia đình thăm thú Trung Quốc và trị bệnh cho bà Hoàng Văn Hoan, chiều 4-7-1990, Giang Trạch Dân tới Ngọc Tuyền Sơn thăm Hoàng Văn Hoan và gia đình. Ngày 7-7-1990, “Hoàng Lão” được mời vào Trung Nam Hải hội kiến với “đồng chí Giang Trạch Dân”, ông Hoàng Nhật Tân và “đích tôn”, Hoàng Thái, cũng được đưa vào để tối ấy Giang Trạch Dân đãi tiệc.


Ngày 12-8-1990, hai ngày sau khi về tới Hà Nội, ông Hoàng Nhật Tân viết thư cho TBT Nguyễn Văn Linh, hôm sau, TBT Nguyễn Văn Linh cho xe Lada tới tận nhà đón ông lên Văn phòng gặp. Tinh thần “cuộc hội đàm” giữa Giang Trạch Dân và Hoàng Văn Hoan đã được Hoàng Nhật Tân chuyển về Hà Nội. Ông Tân sau đó còn tiếp xúc với Nguyễn Cơ Thạch, Đỗ Mười, Phạm Văn Đồng… 


Ngày 3-9-1990, TBT Nguyễn Văn Linh đi Trung Quốc, một cuộc gặp cấp cao diễn ra bí mật, về sau được biết với tên gọi, “Hội nghị Thành Đô”.


Chúng ta không biết hết những con đường dẫn đến bình thường hóa quan hệ Việt - Trung, nhưng, con đường Hoàng Văn Hoan là rất trực tiếp.  


Rồi ai “định luận”.

Bài diễn văn của ông Jensen Huang - CEO công ty bán dẫn Nvidia tại lễ Mãn khóa Đại học quốc gia Đài Loan.

 Bài diễn văn của ông Jensen Huang - CEO công ty bán dẫn Nvidia tại lễ Mãn khóa Đại học quốc gia Đài Loan.  

*****

Đây là bài diễn văn truyền cảm hứng và đánh thức, kêu gọi, với các minh triết tích lũy từ hoạt động của chính mình của CEO NVIDIA Jensen Huang, Hoàng Nhân Huân. Ông là người Mỹ gốc Đài Loan, một trong những sáng lập viên Công ty NVIDIA - một trong 5 công ty lớn nhứt tại Mỹ. 


Bài được Tiến sĩ Nguyễn Xuân Xanh chuyển ngữ và có cả phần nói đầu. 


Đây là bài diễn văn truyền cảm hứng và đánh thức, kêu gọi, với các minh triết tích lũy từ hoạt động của chính mình của CEO NVIDIA Jensen Huang. Jen-Hsun "Jensen" Huang (tiếng việt: Hoàng Nhân Huân) sinh ngày 17 tháng 2 năm 1963, là một doanh nhân người Mỹ gốc Đài Loan. Ông là người đồng sáng lập công ty xử lý đồ họa Nvidia vào năm 1993 và đã giữ chức chủ tịch và CEO của nó kể từ khi thành lập.


Ông có nhiều bài nói chuyện trước sinh viên ở Mỹ rất đáng nghe. Có thể nói, ông là một trí thức công chúng. Nhưng bài nói chuyện này khái quát những cột mốc quan trọng trong hành trình của ông dẫn từ thất bại đến thành công, có sức truyền cảm hứng mạnh mẽ, và truyền đạt nhiều bài học quý báu của bản thân đáng tham khảo cho các thế hệ sau.


Triết lý của ông trước thất bại: khiêm tốn thừa nhận, kêu cầu sự giúp đỡ, và đứng dậy, can đảm làm lại cái mới, tiếp tục đổi mới sáng tạo. Đó cũng chính là triết lý nền tảng của Thung lũng Silicon. Và cần tỉnh táo trong thành công cám dỗ, để thực hiện đúng tầm nhìn của mình.


Bạn nhớ chú ý lời kêu gọi Hãy chạy. Đừng đi. Hãy nhớ rằng, hoặc bạn đang chạy để kiếm thức ăn, hoặc bạn đang chạy trốn khỏi cái trở thành thức ăn. Hết sức thôi thúc trong thời đại đầy giông bão này.


*****


Kính thưa quý vị, các giảng viên đáng kính, các vị khách quý, các bậc phụ huynh đáng tự hào, và trên hết là khóa tốt nghiệp năm 2023 của Đại học Quốc gia Đài Loan (NTU). Hôm nay là một ngày rất đặc biệt đối với bạn, và, một giấc mơ đã trở thành sự thật đối với bố mẹ bạn.


Đó chắc chắn là một ngày của niềm tự hào và niềm vui. Vì vậy, cha mẹ của bạn, những người đã hy sinh để nhìn thấy bạn vào ngày này. Bố mẹ tôi ở đây, và anh/em trai tôi cũng vậy. Hãy cho tất cả cha mẹ và ông bà của chúng ta thấy, nhiều người trong số họ đang ở đây, lòng biết ơn của chúng ta.


Tôi đến NTU lần đầu tiên cách đây hơn một thập kỷ. Tiến sĩ Chen mời tôi đến thăm phòng thí nghiệm vật lý tính toán của ông. Như tôi còn nhớ, con trai của ông, sống ở Thung lũng Silicon, đã biết về phát minh CUDA của NVIDIA và khuyên cha mình sử dụng nó cho các mô phỏng vật lý lượng tử của mình.


Khi tôi đến, anh ấy mở cửa cho tôi xem những gì anh ấy đã làm. Thẻ chơi game NVIDIA GeForce lấp đầy căn phòng, được cắm vào bo mạch chủ PC đang mở và nằm trên giá kim loại ở lối đi là những chiếc quạt nền đang dao động (oscillating platform fans).


Tiến sĩ Chen đã tự chế tạo một siêu máy tính, theo cách thức của Đài Loan, từ card đồ họa chơi game. Anh ấy đã bắt đầu từ đây, một ví dụ ban đầu về cuộc hành trình của NVIDIA.

Anh ấy rất tự hào và nói với tôi, anh Huang, nhờ công việc của anh mà tôi có thể làm công việc của đời mình.


Anh ấy rất tự hào và nói với tôi, anh Huang, nhờ công việc của anh mà tôi có thể làm công việc của đời mình. Những lời đó khiến tôi xúc động cho đến tận ngày nay, và hoàn toàn thấu hiểu được mục đích của công ty chúng tôi, đó là giúp cho những Einstein và Da Vinci của thời đại chúng ta thực hiện công việc để đời của họ.


Tôi rất vui mừng được trở lại NTU, và có lời phát biểu trong lễ tốt nghiệp của bạn. Thế giới đơn giản hơn khi tôi tốt nghiệp Đại học Bang Oregon. TV vẫn chưa phẳng. Không có truyền hình cáp và MTV.


Và những từ “di động” và “điện thoại” không đi chung nhau. Đó là năm 1984. IBM PC-AT và Apple Macintosh đã phát động cuộc cách mạng PC, và bắt đầu ngành công nghiệp chip và phần mềm mà chúng ta biết ngày nay. Bạn bước vào một thế giới phức tạp hơn nhiều, với những thay đổi và thách thức về địa chính trị, xã hội và môi trường.


Được bao quanh bởi công nghệ, giờ đây chúng ta được kết nối vĩnh viễn và đắm chìm vào một thế giới kỹ thuật số song song với thế giới thực của chúng ta. Ô tô đang bắt đầu tự lái.


AI (TRÍ TUỆ NHÂN TẠO) SẼ TẠO RA NHỮNG VIỆC LÀM MỚI CHƯA TỪNG TỒN TẠI TRƯỚC ĐÂY


Bốn mươi năm sau khi ngành công nghiệp máy tính tạo ra PC gia đình, chúng ta đã phát minh ra trí tuệ nhân tạo. Giống như phần mềm biết lái ô tô tự động, hoặc nghiên cứu hình ảnh tia X, phần mềm AI đã mở ra cơ hội cho máy tính tự động hóa các tác vụ cho các ngành công nghiệp trị giá hàng nghìn tỷ đô la lớn nhất thế giới. Chăm sóc sức khỏe, dịch vụ tài chính, giao thông vận tải và sản xuất. AI đã mở ra những cơ hội to lớn. Các công ty nhanh nhẹn sẽ tận dụng AI và nâng cao vị thế của họ. Các công ty ít làm như vậy, sẽ bị tàn lụi. Các doanh nhân, nhiều người trong số họ ở đây ngày hôm nay, sẽ thành lập các công ty mới. Và giống như mọi kỷ nguyên máy tính trước đây, họ sẽ tạo ra những ngành công nghiệp mới.


AI sẽ tạo ra những công việc mới chưa từng tồn tại trước đây, như kỹ thuật dữ liệu, kỹ thuật nhanh chóng, vận hành nhà máy AI và kỹ sư an toàn AI. Đó là những công việc chưa từng có trước đây. Nhiệm vụ được tự động hóa sẽ làm cho một số công việc trở nên lỗi thời. Và chắc chắn, AI sẽ thay đổi mọi công việc. Nâng cao hiệu suất của các lập trình viên, nhà thiết kế, nghệ sĩ, nhà tiếp thị và nhà hoạch định sản xuất.


Giống như mọi thế hệ trước bạn đã nắm bắt công nghệ để thành công, mọi công ty, và chính bạn, phải học cách tận dụng lợi thế của AI. Và làm những điều tuyệt vời với một phi công phụ lái AI bên cạnh bạn.


Trong khi một số người lo lắng rằng AI có thể cướp đi công việc của họ, thì ai đó rành rọt về AI sẽ làm điều đó. Chúng ta đang ở giai đoạn đầu của kỷ nguyên công nghệ trọng đại, như PC, internet, di động và đám mây. Nhưng AI còn cơ bản hơn nhiều vì mọi lớp điện toán đã được tái phát minh, từ cách chúng ta viết phần mềm đến cách xử lý phần mềm.


AI đã tái phát minh điện toán từ đầu. Theo mỗi một cách, đây là sự tái sinh của ngành công nghiệp máy tính. Và đó là một cơ hội vàng cho các công ty của Đài Loan.


Bạn là nền tảng và những viên đá nền của ngành công nghiệp máy tính. Trong thập kỷ tới, ngành công nghiệp của chúng ta sẽ thay thế hơn một nghìn tỷ đô la máy tính truyền thống trên thế giới bằng máy tính AI mới được tăng tốc.


CÂU CHUYỆN ĐẦU TIÊN CỦA NVIDIA: ĐỐI MẶT VỚI SAI LẦM VÀ KÊU CỨU


Hành trình của tôi bắt đầu trước bạn 40 năm. Năm 1984 là một năm hoàn hảo để tốt nghiệp. Tôi dự đoán rằng năm 2023 cũng sẽ như vậy.


Tôi có thể nói gì với bạn khi bạn bắt đầu cuộc hành trình của mình? Hôm nay là ngày thành công nhất trong cuộc đời bạn cho đến nay. Bạn sắp tốt nghiệp Đại học Quốc gia Đài Loan. Tôi cũng đã thành công – cho đến khi bắt đầu với NVIDIA.


Tại NVIDIA, tôi đã trải qua những thất bại. Những thất bại to lớn. Tất cả thật nhục nhã và xấu hổ. Nhiều người gần như tiên đoán ngày tận thế của chúng tôi. Để tôi kể cho bạn nghe ba câu chuyện về NVIDIA đã tạo nên chúng tôi ngày nay.


Chúng tôi thành lập NVIDIA để tạo ra điện toán tăng tốc. Ứng dụng đầu tiên của chúng tôi là đồ họa 3D để chơi game trên PC.


Chúng tôi đã phát minh ra một phương pháp 3D độc đáo được gọi là ánh xạ kết cấu chuyển tiếp và các đường cong (forward texture mapping and curves). Cách tiếp cận của chúng tôi có chi phí thấp hơn đáng kể. Chúng tôi đã giành được hợp đồng với công ty SEGA để xây dựng bảng điều khiển trò chơi của họ, điều này đã thu hút các trò chơi cho nền tảng của chúng tôi và tài trợ cho công ty của chúng tôi.


Sau một năm phát triển, chúng tôi nhận ra kiến trúc của mình là một chiến lược sai lầm. Kém cõi về mặt kỹ thuật. Và Microsoft chuẩn bị công bố Windows 95 Direct 3D dựa trên ánh xạ kết cấu nghịch đảo và hình tam giác (inverse texture mapping and triangles).


Nhiều công ty đã làm việc trên chip 3D để hỗ trợ tiêu chuẩn này. Nếu chúng tôi hoàn thành bảng điều khiển trò chơi của SEGA, chúng tôi sẽ tạo ra công nghệ kém hơn, không tương thích với Windows và bị tụt lại quá xa để bắt kịp.


Nhưng chúng tôi sẽ hết tiền nếu không hoàn thành hợp đồng. Thế này hay thế kia, chúng tôi sẽ bị loại ra khỏi kinh doanh. Tôi đã liên hệ với Giám đốc điều hành của SEGA và giải thích rằng phát minh của chúng tôi là một cách tiếp cận sai lầm.


Và rằng, SEGA nên tìm một đối tác khác, rằng chúng tôi không thể hoàn thành hợp đồng và bảng điều khiển. Chúng tôi đã phải dừng lại. Nhưng tôi cần Sega thanh toán toàn bộ cho chúng tôi. Hoặc NVIDIA sẽ ngừng hoạt động.


Tôi ngượng ngùng hỏi. (Shoichiro) Irimajiri-san, Giám đốc điều hành của SEGA, đã đồng ý giúp, một hành động rất đáng khen của anh ấy, khiến tôi rất đỗi ngạc nhiên.


Sự hiểu biết và rộng lượng của anh ấy đã cho chúng tôi sáu tháng để tồn tại. Cùng với đó, chúng tôi đã xây dựng RIVA 128 – ngay khi chúng tôi hết tiền. RIVA 128 đã gây sốc cho thị trường 3D non trẻ, đưa chúng tôi lên bản đồ và cứu lấy công ty.


Nhu cầu mạnh mẽ đối với con chip của chúng tôi đã đưa tôi trở lại Đài Loan, sau khi rời Đài Loan lúc 4 tuổi, để gặp Morris Chang tại TSMC và bắt đầu mối quan hệ hợp tác đã kéo dài 25 năm. Đối mặt với sai lầm của chúng tôi, và sự khiêm nhường kêu gọi giúp đỡ, những điều đó đã cứu lấy NVIDIA.


Những đặc điểm này là những cái khó nhất đối với những người thông minh và thành công nhất như các bạn.


CÂU CHUYỆN THỨ HAI CỦA NVIDIA: CHỊU ĐỰNG ĐAU ĐỚN VÀ KHỔ SỞ LÀ CẦN THIẾT ĐỂ THỰC HIỆN ƯỚC MƠ CỦA BẠN


Vào năm 2007, chúng tôi đã công bố Điện toán tăng tốc GPU CUDA. Khát vọng của chúng tôi là CUDA trở thành một mô hình lập trình thúc đẩy các ứng dụng trong điện toán khoa học và mô phỏng vật lý cho đến xử lý hình ảnh. Tạo ra một mô hình điện toán mới là vô cùng khó khăn và hiếm khi được thực hiện trong lịch sử.


Mô hình điện toán CPU đã trở thành tiêu chuẩn trong 60 năm kể từ Hệ thống 360 của IBM ra đời. CUDA cần các nhà phát triển viết ứng dụng và chứng minh lợi ích của GPU.


Các nhà phát triển cần một cơ sở lớn được cài đặt. Một cơ sở lớn được cài đặt CUDA cần khách hàng mua các ứng dụng mới. Để giải quyết vấn đề con gà hay quả trứng, chúng tôi đã sử dụng GeForce, GPU chơi game của chúng tôi, vốn đã có một thị trường game thủ lớn, để xây dựng cơ sở được cài đặt.


Nhưng chi phí gia tăng của CUDA rất cao. Lợi nhuận của NVIDIA đã giảm mạnh trong nhiều năm. Giá trị vốn hóa thị trường của chúng tôi dao động trên 1 tỷ đô la.


Chúng tôi đã trải qua nhiều năm với thành quả kém cỏi. Các cổ đông của chúng tôi đã hoài nghi về CUDA. Và muốn chúng tôi tập trung vào việc cải thiện lợi nhuận hơn. Nhưng chúng tôi đã trì chí.


Chúng tôi tin rằng thời điểm của máy tính tăng tốc sẽ đến. Chúng tôi đã tạo ra một hội nghị có tên GTC và quảng bá CUDA không mệt mỏi trên toàn thế giới. Sau đó, các ứng dụng đã đến.


Xử lý địa chấn, tái tạo CT, động lực học phân tử, vật lý hạt, động lực học chất lỏng, và xử lý hình ảnh. Hết lĩnh vực khoa học này đến lĩnh vực khoa học khác đã kéo đến.


Chúng tôi đã làm việc với từng nhà phát triển để viết thuật toán của họ và đạt được tốc độ đáng kinh ngạc. Sau đó, vào năm 2012, các nhà nghiên cứu AI đã phát hiện ra CUDA.


AlexNet nổi tiếng được huấn luyện trên GeForce GTX 580 đã bắt đầu trở thành Big Bang của AI. May mắn thay, chúng tôi đã nhận ra tiềm năng của deep learning như một cách tiếp cận phần mềm mới toàn diện. Và biến mọi khía cạnh của công ty chúng tôi để thúc đẩy lĩnh vực mới này.


Chúng tôi đã mạo hiểm mọi thứ để theo đuổi deep learning. Một thập kỷ sau, cuộc cách mạng AI bắt đầu. Và NVIDIA là cỗ máy của các nhà phát triển AI trên toàn thế giới.


Chúng tôi đã phát minh ra CUDA và đi tiên phong trong lĩnh vực điện toán tăng tốc và AI. Nhưng cuộc hành trình đã rèn luyện tính cách doanh nghiệp của chúng tôi để chịu đựng nỗi đau, và chịu đựng là luôn cần thiết để hiện thực hóa tầm nhìn.


CÂU CHUYỆN THỨ BA CỦA NVIDIA: RÚT LUI CHIẾN LƯỢC


Một câu chuyện nữa. Năm 2010, Google nhắm đến việc phát triển Android thành một máy tính di động với đồ họa xuất sắc.


Ngành công nghiệp điện thoại có các công ty chip với sự tinh thông về modem. Chuyên môn về điện toán và đồ họa của NVIDIA khiến chúng tôi trở thành một đối tác lý tưởng để giúp xây dựng Android. Vì vậy, chúng tôi đã tham gia vào thị trường chip di động.


Chúng tôi đã thành công ngay lập tức. Và kinh doanh của chúng tôi và giá cổ phiếu tăng mạnh. Cuộc cạnh tranh nhanh chóng bùng nổ. Các nhà sản xuất chip modem đang học cách chế tạo chip máy tính. Và chúng tôi đang học cách chế tạo modem. Thị trường điện thoại rất lớn. Chúng tôi có thể chiến đấu để chia sẻ thị phần. Nhưng thay vào đó, chúng tôi đã đưa ra một quyết định khó khăn và hy sinh thị trường.


Sứ mệnh của NVIDIA là xây dựng những chiếc máy tính để giải quyết những vấn đề mà máy tính thông thường không làm được. Chúng tôi nên cống hiến hết mình để hiện thực hóa tầm nhìn của mình và đóng góp một cách độc đáo.


Cuộc rút lui chiến lược của chúng tôi đã được đền đáp. Bằng cách rời khỏi thị trường điện thoại, chúng tôi đã mở mang đầu óc để phát minh ra một thị trường mới. Chúng tôi đã tưởng tượng việc tạo ra một loại máy tính mới cho máy tính robot, với bộ xử lý mạng thần kinh, các kiến trúc an `chạy thuật toán AI.


Vào thời điểm đó, đây là một thị trường zero tỷ đô la. Rút lui khỏi thị trường điện thoại khổng lồ để tạo ra thị trường người máy trị giá 0 tỷ đô la. Giờ đây chúng tôi có hàng tỷ đô la trong kinh doanh ô tô và người máy, và bắt đầu một ngành công nghiệp mới. Rút lui không phải đến dễ dàng với những người thông minh và thành công nhất như bạn.


Vậy mà, rút lui chiến lược, hy sinh, quyết định từ bỏ, đó có phải là cốt lõi, rất cốt lõi của sự thành công hay không?


Khóa 2023, bạn sắp bước vào một thế giới chứng kiến sự thay đổi lớn. Và giống như tôi với cuộc cách mạng PC và chip, bạn mới bắt đầu ở vạch xuất phát của AI. Mọi ngành công nghiệp sẽ được cách mạng hóa, và tái sinh.


Sẵn sàng cho những ý tưởng mới. Những ý tưởng của bạn. Trong 40 năm, chúng ta đã tạo ra PC, internet, di động, đám mây, và bây giờ là kỷ nguyên AI.


Bạn sẽ tạo ra cái gì? Dù nó là gì, hãy chạy theo nó như chúng tôi đã làm. Hãy chạy. Đừng đi. Hãy nhớ rằng, hoặc bạn đang chạy để kiếm thức ăn, hoặc bạn đang chạy trốn khỏi cái trở thành thức ăn.


Tôi hy vọng phần đó có thể được dịch sang tiếng Trung để mọi người có thể hiểu được.


HOẶC BẠN CHẠY ĐỂ KIẾM THỨC ĂN, HOẶC BẠN CHẠY TRỐN KHỎI CÁI TRỞ THÀNH THỨC ĂN


Và đôi khi, bạn không thể biết cái nào. Dù thế nào, bạn hãy chạy. Và đối với hành trình của bạn, hãy mang theo một số bài học của tôi. Rằng bạn sẽ có sự khiêm tốn để đối mặt với thất bại, thừa nhận sai lầm và kêu cầu sự giúp đỡ.


Bạn sẽ chịu đựng đau đớn và khổ sở cần thiết để thực hiện ước mơ của mình. Và bạn sẽ hy sinh để cống hiến hết mình cho một cuộc sống có mục đích và thực hiện công việc của cuộc đời mình.


Khóa 2023, tôi gửi lời chúc mừng chân thành đến từng bạn. Chúc thành công!”


*****

💥 Tính đến thời điểm tháng 5/2023, giá trị thị trường công ty bán dẫn Nvidia đã tăng hơn 160%, trở thành một trong 5 công ty lớn nhất tại Mỹ và chỉ chịu xếp sau “tứ đại gia” Apple, Microsoft, Alphabet cùng Amazon.


Nvidia từng được biết đến là nhà sản xuất chip dùng trong lĩnh vực trò chơi điện tử, song đã chuyển trọng tâm sang thị trường trung tâm dữ liệu trong vài năm trở lại đây.


Là công ty sản xuất chip máy tính đắt gia nhất thế giới (tính theo giá cổ phiếu trên thị trường - Mkt Cap) khoảng 1.100 tỷ USD, gấp 7,5 lần so với hãng Intel (160 tỷ USD). Đến hết năm tài chính kết thúc vào ngày 29/1, mảng kinh doanh chip trung tâm dữ liệu chiếm hơn 50% doanh thu công ty.


Trong khi đó, chatbot đình đám ChatGPT đưa trí tuệ nhân tạo (AI) tạo sinh lên một tầm cao mới vào năm nay. Công nghệ này sử dụng lượng lớn dữ liệu sẵn có để tạo ra những nội dung mới trên nhiều chủ đề, từ làm thơ cho đến lập trình máy tính.

Hoàng Ngọc Hiến, bạn tôi

Hoàng Ngọc Hiến, bạn tôi


NGUYỄN ĐĂNG MẠNH


Lời giới thiệu của chủ blog (nơi tôi trích bài này):


**“**Thầy Hoàng Ngọc Hiến đã mất lúc 23h ngày 24.1.2011″ Từ nửa đêm qua cho đến sáng hôm nay tôi nhận được rất nhiều tin nhắn như vậy từ những người đã học với ông và những người chưa từng học với ông một giờ nào, cho thấy hầu hết anh em nhà văn thế hệ sau ông đều coi ông như người thầy,” một nhà sư phạm đúng nghĩa, một kho tri thức”.


Tôi cũng vậy, dù không được học ông một giờ nào, nhưng cũng như với Hoàng Phủ Ngọc Tường, với ông tôi cũng luôn coi là người thầy. Cứ một lần ngồi với ông bao giờ tôi cũng học khôn từ ông một điều gì đó. Giờ ông đã về trời, văn hoá Việt từ nay có một khoảng trống lớn không có gì và không ai có thể bù đắp nổi. Tôi định viết về ông đôi dòng, nhưng suốt đêm qua ngồi thừ không sao viết được. Có lẽ vì tôi không xứng là bạn ông, ngay cả học trò của ông cũng không xứng. Người viết về ông hay nhất, đúng nhất chắc chắn đó là Nguyễn Đăng Mạnh, người bạn chí thiết của ông, cũng là một nhà văn hoá đáng nể. Vì thế tôi post lên những gì Nguyễn Đăng Mạnh viết vể ông, như một nén hương thành kính, cầu cho ông được bình an nơi chín suối.


Sau đây là bài viết của bác Nguyễn Đăng Mạnh:


*****


Hoàng Ngọc Hiến là một trong hai người bạn đồng tuế thân nhất của tôi (người thứ hai là Phạm Luận, cán bộ giảng dạy ở Đại học Việt Bắc). Có thể gọi là tri âm tri kỉ, hiểu nhau từ cái hay đến cái dở, chỗ mạnh và chỗ yếu, hoàn toàn tin cậy nhau, luôn quan tâm bảo vệ nhau.


Tôi với Hoàng Ngọc Hiến như có duyên trời xe kết vậy.


Anh ở tận Nghệ Tĩnh, tôi ở Việt Bắc. Thế mà tình cờ gặp nhau. Tôi cùng gia đình tản cư từ Bắc Ninh lên Thái Nguyên hồi kháng chiến chống Pháp, anh thì chạy cải cách ruộng đất cũng vọt lên đấy. Anh có một người học trò tên là Lới, trong đoàn uỷ cải cách ruộng đất, báo cho biết phải chạy ngay lên Việt Bắc vì lý lịch xấu, có thể nguy. Và anh ta lấy quyền đoàn uỷ viên giải quyết ngay cho Hiến (Trong cải cách, bố Hoàng Ngọc Hiến bị quy địa chủ và bị tù). Lên Thái Nguyên, anh dạy văn ở trường Lương Ngọc Quyến. Còn tôi lúc đó là cán bộ Sở giáo dục Việt Bắc thường đến Lương Ngọc Quyến là trường trọng điểm của Sở, để kiểm tra, theo dõi về chuyên môn.


Dạy ở Lương Ngọc Quyến ít lâu, anh được gọi về trường Đại học Hà Nội. Thầy Nguyễn Lương Ngọc cho Hiến có hiểu biết về triết học, bố trí làm trợ lý cho Trần Đức Thảo. Trần Đức Thảo thấy Hiến là đảng viên, không nhận. Vì thế Hiến phải chuyển sang làm trợ lý cho Hoàng Xuân Nhị dạy văn học Nga Xô viết.


Từ Đại học Sư phạm Hà Nội, Hiến được cử sang Liên Xô làm nghiên cứu sinh. Tôi thì chả đi đâu cả, chỉ quanh quẩn ở trong nước. Nhưng rồi tình cờ tôi và Hiến lại gặp nhau ở Đại học Sư phạm Vinh. Tôi thì bị điều từ Hà Nội vào. Hiến lẽ ra được ở Hà Nội, vì Đại học Hà Nội cử đi học, nay đỗ phó Tiến sĩ trở về, phải được ở Hà Nội. Nhưng Đỗ Đức Uyên bí thư đảng uỷ và Hoàng Dung bí thư liên chi cho Hiến mắc chủ nghĩa xét lại Khrútxốp, không nhận lại nữa, tống anh vào Vinh.


Từ Vinh, tôi được chuyển ra Hà Nội trước. Hiến ra sau. Nhưng rồi lại gặp nhau ở trường Viết văn Nguyễn Du. Anh phụ trách trường này, còn tôi được mời đến dạy. Rồi nhờ có Phan Ngọc Thu, một học trò cũ của tôi, lúc đầu ở Đại học Sư phạm Huế, sau ở Đại học Đà Nẵng, tổ chức đào tạo giáo viên cấp II lên trình độ đại học và bồi dưỡng giáo viên chuyên văn, thường mời tôi và Hiến vào giúp. Thế là lại gặp nhau luôn, khi ở Huế, khi ở Đà Nẵng, khi ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long. Tôi thích đi, Hiến cũng thế. Tôi là thằng ham chơi, vui đâu chầu đấy, Hiến cũng vậy, cứ ới là đi, để tán chuyện, để đánh chén. Ngoài ra tôi hay mời anh đến làm phản biện cho nghiên cứu sinh của mình. Mời là anh đến ngay…


Tuy nhiên tôi và Hiến có những chỗ không giống nhau. Anh dạy văn học nước ngoài, thích lý luận, thiên về tư duy trừu tượng, say mê triết học Đông Tây. Tôi chỉ dạy văn học Việt Nam và thiên về nghiên cứu văn học sử và phê bình văn học. Hiến rất thích nhận xét khái quát, đúc thành những mệnh đề chắc nịch, tuy có phần cực đoan, chẳng hạn:


– Đặc điểm người Nghệ Tĩnh: “Cái gì cũng biết, trừ hạnh phúc.”


– Phân loại cán bộ giảng dạy đại học: “Có hai loại động vật và thực vật. Loại động vật, suốt ngày lăng xăng, chạy từ đề tài này sang đề tài khác, không nghiên cứu được cái gì nên hồn, dù thông minh, cũng chỉ có những ý kiến loe loé thế thôi, chẳng làm nên sự nghiệp gì. Loại thực vật, ngồi yên kiên trì suy nghĩ, như cái cây cắm rễ xuống đất thật sâu, có thế mới làm khoa học được.”


– ý kiến sinh viên nhận xét thầy: “Nói chung chê thì đúng, khen thì thường sai…”


Hiến cái gì cũng muốn giải thích, cũng tìm quy luật. Thí dụ: Anh nói: “Lê Hoài Nam nếu cao hơn 5 phân, số phận khác hẳn“. Lê Hoài Nam là chủ nhiệm khoa Văn Đại học Sư phạm Vinh, sau là bí thư đảng uỷ trường và Hiệu trưởng Đại học Sư phạm Quy Nhơn. Anh người thấp lùn, hơi dị dạng. Hiến cho rằng vì đặc điểm cơ thể như vậy nên Lê Hoài Nam rất ngại xuất hiện ở chỗ đông người, nơi thành phố lớn, nên cứ lùi dần, lùi dần vào nơi hẻo lánh: Vinh, rồi Quy Nhơn.


Có lần tôi nhận xét, các danh nhân thế giới thường là người ở các tỉnh nhỏ, nhưng về Thủ đô thì thành danh nhân. Danh nhân người gốc ở Thủ đô rất ít. Như Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi, Quang Trung, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Hồ Chí Minh, như Marx, Tolstoi, Lomonosov, Napoléon… Hiến giải thích luôn: “Vì ở Thủ đô lắm cái hấp dẫn làm cho con người ở đây phung phí hết tinh lực, người các địa phương tinh lực không mất, về Thủ đô được phát huy lên“.


Vì sao Hồ Chí minh chết đúng vào ngày Tuyên ngôn độc lập 2.9? Hiến giải thích: “Vì ông cố tình chết vào ngày ấy. Ông Hồ là đáo để lắm. Chỉ cần dứt đứt các giây dợ ở ống thở ôxy là chết chứ gì“.


Hiến thường có những nhận xét rất gọn và rất ác về người này người khác trong giới đại học. Hồi ở Đại học Sư phạm Vinh, tôi với Hiến thường đạp xe đi về cùng đường với nhau (Hà Nội – Vinh hay Hà Nội – Thanh Hoá) dọc đường, thường “luận anh hùng” trong thiên hạ. Thường tôi hỏi, Hiến trả lời. Thí dụ:


– NĐN (một giáo sư tiến sĩ được đánh giá rất cao ở Đại học Sư phạm Hà Nội) chỉ là một giáo viên cấp III giỏi.


– *Không nên đánh giá ĐVK *(giáo sư tiến sĩ của Đại học tổng hợp Hà Nội) là giỏi hay dốt. Anh ta là người không có trí khôn.


– HL (cán bộ dạy sử của Đại học Sư phạm Vinh) kết tinh mọi cặn bã của dân Nghệ Tĩnh.


– Có một giáo sư văn học, trước khi dự lớp, anh đánh giá là một con sư tử (về chuyên môn, khoa học), khi dự lớp về, anh nói: chỉ là một giáo viên phổ thông.


*– *Một vị giáo sư văn học khác, anh cho chẳng hiểu văn là gì cả.


– Anh nhận xét ĐT, một cây bút phê bình khá tài hoa ở hải ngoại, chỉ là một ông chánh tổng Annam ở Paris.


– PTL (giáo sư trường Đại học Sư phạm Hà Nội). Hiến nói: “Một điều nhục nhã của mình là đồng hương với PTL. Thậm chí chỉ quen biết PTL thôi cũng đã là một sai lầm, một sai lầm không thể sửa chữa được“.


Hiến có những nhận xét rất cảm tính, nghĩa là chưa có căn cứ đầy đủ. Nhưng anh rất tin ở trực cảm của mình.


Trường Đại học Sư phạm Vinh có chủ trương cán bộ giảng dạy phải theo sát thực tế phổ thông. Ai đã đi hướng dẫn thực tập sư phạm thì không nói làm gì, những những người không hướng dẫn thực tập cũng phải về ở một đoàn thực tập nào đấy khoảng một tuần lễ, gọi là tham quan thực tập. Hiến cũng phải về một đoàn, anh chọn một đoàn ở gần chỗ khoa Văn sơ tán, do LBH phụ trách. Đêm ấy, LBH và Hiến cùng ngủ trong một căn phòng kê hai cái giường song song. LBH hỏi Hiến một cách trịnh trọng: “*Anh là người sâu sắc, từ ngày anh về trường này, anh nhận xét tôi là người thế nào?”. *Hiến trả lời luôn: “Cậu là người thiếu nhân cách“. LBH ắng đi một lúc vì nhận xét quá bất ngờ của Hiến. Nhưng rồi gặng hỏi Hiến: “Anh cho dẫn chứng?“. Hiến bí không tìm ra dẫn chứng. Mãi sau cũng cố đưa ra một ví dụ: “Chẳng hạn, cậu không biết tiếng Pháp mà cứ làm như biết“.


Trong quan hệ hàng ngày với tập thể cán bộ, sinh viên, Hiến rất hồn nhiên, chân thật, dễ tính, nên được anh em mến. Nhưng hình như anh có máu phiến loạn, thích gây sự với lãnh đạo. Hồi những năm 60 của thế kỷ trước, tôi nhớ Phạm Văn Đồng có viết một bài về việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. Bài ấy, người khác có thể coi là thường, không hay hoặc chưa đúng chỗ này chỗ khác. Nhưng Hoàng ngọc Hiến thì phải nói: “Phạm Văn Đồng viết bài ấy là thiếu văn hoá“. Ở Đại học Sư phạm Vinh, Hiến bị lãnh đạo quy tội thiếu quan điểm giáo dục, vì không chịu đi thực tế, luôn luôn bỏ ra Hà Nội, lẩn tránh việc hướng dẫn sinh viên thực tập sư phạm. Hôm ấy, chi bộ họp kiểm thảo Hiến về khuyết điểm này, có Lê Hoài Nam là đảng uỷ viên của trường xuống dự. Hiến nói: “Tôi cho rằng không đi thực tế mà nắm được thực tế mới giỏi. Tôi kém, nên còn phải đi thực tế một lần. Anh Lê Hoài Nam không đi lần nào mà nắm được thực tế mới giỏi chứ!” Những câu nói như thế, tôi chắc Hiến đều có nghiền ngẫm cẩn thận. Phóng ra những đòn như thế, Hiến bao giờ cũng chuẩn bị rất chu đáo. Tôi biết rõ điều này. Vì cùng được mời đi nói chuyện với anh nhiều lần, tôi thấy anh bao giờ cũng chuẩn bị bài bản rất cẩn thận.


Trở lại tính thích gây sự của Hiến đối với lãnh đạo. Như đã nói, Hiến ít ở khoa (Đại học sư phạm Vinh), hay ra Hà Nội. Có lần anh vắng mặt đúng vào dịp công đoàn khoa văn xếp loại cán bộ theo ba mức A, B, C. Tiêu chuẩn cũng nhẹ nhàng thôi. Loại A chỉ là không có khuyết điểm gì đáng kể thôi. Hầu như cả khoa không có trường hợp nào phải xếp loại B cả. Tổ công đoàn, được sự chỉ đạo của chi bộ Đảng, lập kế hoạch: khi Hiến ở Hà Nội vào thì họp xếp loại. Chủ trương của Chi bộ là phải, nhân cuộc xếp loại này, nghiêm khắc kiểm điểm Hiến về tư tưởng. Trình tự cuộc xếp loại được dự kiến như sau: người được xếp loại tự xếp loại trước. Anh em trong tổ có ý kiến sau. Người ta đoán chắc Hiến sẽ tự nhận loại A. Lúc đó anh tổ trưởng sẽ điều khiển tổ viên phân tích thiếu sót của Hiến, đại khái như sau: Anh Hiến chỉ đáng xếp loại B thôi, vì khuyết điểm này, khuyết điểm khác… Nhưng gần đây anh đã tỏ ra có tiến bộ, thí dụ như gánh nước uống cho anh em tập tự vệ, vậy ta chiếu cố xếp lên loại A… Nhưng, bất ngờ, Hiến chỉ tự xếp loại B. Bài bản đã dự kiến thế là bị phá sản. Tuy thế, tổ trưởng là tay khá thông minh, anh ta vẫn tìm được cách thực hiện phương án cũ: “*Đúng, anh Hiến tự xếp mình loại B là đúng *(Phân tích khuyết điểm của Hiến một chập). Nhưng vì gần đây có một vài tiến bộ nên ta chiếu cố xếp lên loại A”. Hiến nhất định không nghe, chỉ nhận loại B thôi. Anh nói: “Đối với tôi A hay B cũng thế thôi. Và tôi chẳng tiến bộ gì cả. Còn nếu các anh muốn tìm chỗ tiến bộ thật sự của tôi thì tôi xin mách: tôi rất tiến bộ về chuyên môn, soạn bài rất kỹ”. Mà đúng như vậy thật. Tôi đã dự giờ Hiến dạy một lần. Anh soạn bài rất nghiêm túc. Anh muốn ý tưởng của mình phải được trình bầy thật sáng rõ, rành mạch, gây ấn tượng và có sức thuyết phục.


Hoàng Ngọc Hiến có một phản ứng khá dữ dội, chung quanh vụ “hiện thực phải đạo” (Hoàng Ngọc Hiến viết bài Về một đặc điểm của văn học nghệ thuật ở ta trong giai đoạn vừa qua đăng Văn nghệ số 23 (9.6.1979) có luận điểm nổi tiếng “hiện thực phải đạo“). Hồi ấy anh còn ở Triệu Việt Vương. Tôi đến anh một buổi chiều. Anh kể một câu chuyện vừa xẩy ra với anh: sau bài “hiện thực phải đạo”, anh bị đánh rất mạnh. Trên tạp chí cộng sản, Hà Xuân Trường có bài đả Hiến. Hiến viết bài tranh luận lại. Tạp chí cộng sản không đăng, cho người đến mời anh lại toà soạn để nói chuyện. Tay phái viên đến mời anh, nói xong, lấy cái điếu cầy định làm một hơi. Hiến quát ngay: “*Thôi, không hút. Đi ngay, không hút sách gì cả!”. *Đến toà soạn tạp chí, mấy biên tập viên đã chờ sẵn: “Nào mời anh lên gác. Chuyện văn chương phải nói nơi kín đáo“. Hiến lại bác lại ngay: “Chuyện văn chương không việc gì phải kín đáo!”. Hiến giải thích với tôi: “Ấy đối với bọn này cứ phải tấn công như thế, tấn công ngay từ thằng đến mời”. Ban biên tập tạp chí Cộng sản giải thích với Hiến: “Hiện nay bọn Tàu đang gây sự ở biên giới. Tạp chí phải dành giấy để đăng bài phê phán chủ nghĩa bá quyền Bắc Kinh, không đăng bài của anh được”. Hiến phản ứng ngay: “Tại sao ta thừa giấy để đánh bọn cường bạo nước ngoài, lại thiếu giấy để đánh bọn cường bạo trong nước!”.


Năm 1980, người ta tổ chức một cuộc hội nghị khoa học đặt ở Viện bảo tàng cách mạng xế xế Nhà hát lớn Hà Nội. Hội nghị toàn quốc, rất đông. Tôi có gặp một số bạn quen ở Vinh, Huế ra họp. Hoàng Ngọc Hiến hôm ấy nói buông mà rất rành mạch, hấp dẫn. anh nhắc lại cái câu đã nói ở trụ sở tạp chí cộng sản: “Tại sao ta thừa giấy để đánh bọn cường bạo nước ngoài, mà lại thiếu giấy để đánh bọn cường bạo trong nước!”. Đến giờ nghỉ. Mọi người, hoặc tản ra dạo chơi ngoài vườn hoa, hoặc ngồi trò chuyện với nhau trong hội trường. Tôi cũng ngồi lại trong hội trường nói chuyện với mấy anh bạn cũ ở Vinh, ở Huế. Hiến cũng ở lại hội trường, nhưng ngồi một mình cách vài hàng ghế, trước mặt chúng tôi. Hà Xuân Trường lững thững từ hàng ghế đầu đi xuống chỗ Hiến, vỗ vai anh thân mật. Hiến gạt phắt tay Trường ra: “*Tôi không phải hạng người cho anh vỗ vai nhé!”. *Trông Hiến lúc ấy rất dữ. Hà Xuân Trường sững người và hơi ngượng. Anh phân bua với chúng tôi: “Đấy, các anh xem, anh Hiến anh ấy như thế đấy!”.


Buổi trưa hôm ấy, Hiến rủ tôi về nhà ăn cơm. Trong bữa cơm, Hiến hỏi tôi: “*Sao, cậu thấy mình nói có được không?”. *Tôi khen: “Khá *lắm!”. *Chị Tố Nga, vợ Hiến, mách luôn: “*Lẩm bẩm suốt đêm làm gì mà không khá!”. *Thì ra Hiến không phải chỉ chuẩn bị ý, mà còn luyện nói nữa. Hiến thế mà cũng là một tay đấu khẩu khá nhanh trí và đáo để.


Cũng vào khoảng trước sau năm 1980, khoa Văn Đại học Sư phạm Hà Nội có tổ chức một cuộc hội thảo khoa học, đề tài: giáo dục tư tưởng qua giảng dạy văn học. Hiến lúc đó vẫn còn ở Đại học Sư phạm Vinh. Anh ra dự hội nghị. Không biết bản báo cáo viết của anh gửi ra như thế nào, nhưng anh trình bầy miệng thì khá gai góc, và hình như anh lại cố tình diễn đạt cho thật ấn tượng về cái ý rất gai góc của mình. Anh cứ thủng thẳng nói đi nói lại: “Những gì chi bộ Đảng, đoàn thanh niên, đài phát thanh, báo Đảng đã nói hay viết, thì trong lớp ta không nói. Ta chỉ nói những điều chi bộ Đảng, đoàn thanh niên, đài phát thanh, báo Đảng không nói, không viết“. Ý kiến của Hoàng Ngọc Hiến đã gây chấn động hội nghị. Những người lãnh đạo hội nghị rất lo ngại (lãnh đạo hội nghị là Nguyễn Văn Hạnh quyền chủ nhiệm khoa và Trần Thanh Đạm phó chủ nhiệm khoa). Đạm thấy nhất thiết phải uốn nắn lại. Anh động viên Đỗ Hữu Châu, Nguyễn Thị Hoàng lúc đó là đảng viên dự bị hay cảm tình đảng gì đó lên phê phán Hiến. Tôi không nhớ ý kiến của cô Hoàng thế nào, chỉ nhớ một câu mỉa mai của Châu: “Đứa trẻ con ngồi trên vai bố, cứ tưởng mình cao hơn bố“. Hoàng Ngọc Hiến giơ tay xin phát biểu. Anh cố tình tự khoe: “Tôi đã góp phần làm cho hội nghị thành công. Vì một hội nghị khoa học có tranh luận học thuật thì mới là một hội nghị có kết quả. Tôi đã gây được cuộc tranh luận cho hội nghị. Ngoài ra tôi rất sướng vì đã được ngồi trên vai anh Đỗ Hữu Châu”.


Sau hội nghị này, Trần Thanh Đạm gửi giấy cho chi bộ Đảng của khoa Văn Đại học Sư phạm Vinh phản ánh về sự “lệch lạc tư tưởng” của Hiến. Ít ngày sau, tôi đến chơi Hiến – Anh vẫn ở Triệu Việt Vương. Một căn phòng rất hẹp, chỉ độ 16 mét vuông. Kê được hai cái ghế salon và một cái bàn nước nhỏ. Tôi và Hiến ngồi ở salon. Chị Tố Nga, vợ Hiến giải chiếu ngồi trên nền nhà. Chị cứ chỉ tay vào mặt Hiến mà nói đi nói lại xa xả: *“Tôi không thấy có ai ngu như anh Hiến!”. *Nói mãi chán, chị bỏ ra đi. Hiến thủng thẳng nói với tôi: “*Hắn nói thế mà đúng. Như ta vẫn nói đế quốc Mỹ là ngu ấy mà!”. *Té ra, anh lại ngẫm nghĩ về lời nói của vợ, như một đối tượng nghiên cứu.


Chị Tố Nga, vợ Hiến, là một người cũng khá đặc biệt: chuyên môn mạt sát chồng trước mặt khách khứa bạn bè, thậm chí trước cả học trò của chồng. Nhưng đám học trò của anh đã có kinh nghiệm: bà ấy nói thầy Hiến thì được, chứ người khác tưởng bở, cũng phụ hoạ theo, nói theo, là chết với bà ấy. Còn Hoàng Ngọc Hiến thì coi thường, bỏ ngoài tai, xem như nói ai đó, chẳng dính dáng gì đến mình.


Hoàng Ngọc Hiến, tư duy khoa học thì tỏ ra sâu sắc, nhưng trong đời sống thực tế, nhiều khi rất nhẹ dạ, cả tin. Vào khoảng 1987, Hội văn nghệ Quảng Nam- Đà Nẵng có mời tôi và Hiến vào nói chuyện với giới văn nghệ trong ấy. Chúng tôi ở với nhau độ một tuần lễ, sau đó, Hiến vào Sài Gòn, tôi ra Hà Nội. Ít ngày sau, tôi đang ngồi ở nhà (tại Đồng Xa) thì thấy Hiến đạp xe tới. Lúc đó mới độ 8 giờ sáng. Tôi hỏi ra bao giờ. Anh nói ra sáng nay, tàu 7 giờ sáng tới Hà Nội. Tôi ngạc nhiên: vừa về Hà Nội đã vội đến tôi làm gì! Hoá ra anh vừa tham gia một đảng gọi là đảng “Nhân dân hành động” và ra Hà Nội để phát triển Đảng. Người đầu tiên anh định kết nạp là tôi. Anh nói, không sợ gì cả. Tay thủ lĩnh là một tay tiến sỹ ở Mỹ về. Rất trí thức. Đảng này đã thống nhất với cộng sản chuẩn bị ra đa đảng. Trong đảng này có một uỷ viên bộ chính trị và một thiếu tá công an cộng sản. Đảng phát triển chủ yếu vào trí thức. Anh lại hỏi, thằng Thanh nhà ông vào Sài Gòn đã có việc làm và nhà cửa gì chưa, để anh lo giải quyết cho. Tôi không tin, từ chối: “Cậu định làm chính trị à? Không sợ công an à?” Hiến có vẻ xem thường, cho tôi là thằng nhát. Ít lâu sau tôi được biết đảng này phát triển mạnh ở vùng Vĩnh Long, vừa bị bắt một loạt. Tôi vào Cần Thơ, Dạ Ngân bảo thế.


Một thời gian sau, tôi gặp lại Hiến ở trụ sở văn nghệ. Tôi hỏi Hiến: “*Biết gì chưa?” *Hiến: “*Biết rồi! Biết rồi!” *Tôi lại hỏi: “*Có sao không?” *Hiến: “Không sao, không sao – Nhưng này, đừng nói với ai nhé!”


Dương Thu Hương khi biết chuyện này, nói với tôi: “Ông Hiến mà là đàn bà thì chửa hoang hàng tỉ lần“.


Tôi cho rằng Hoàng Ngọc Hiến có số “quý nhân phù trợ”. Nghĩa là luôn gặp may. Tôi ví anh với nhân vật Pie Bêdukhốp trong Chiến tranh và hoà bình của L.Tolstoi. Người to lớn, ra trận cứ trương ngực ra mà đi giữa chiến trường, nhưng tên đạn cứ tránh không dính. Đấu súng tuy không biết bắn súng, mà lại thắng một tay thiện xạ… Hiến cũng thế. Ăn nói táo tợn với người có chức có quyền, hành động nhiều khi dại dột. Nhưng chẳng sao cả. Vẫn đi Pháp, đi Mỹ đều đều. Anh kể tôi nghe cái vụ “phải đạo” của anh hồi 1980, anh có một cú thoát hiểm rất ngoạn mục. Người ta tổ chức hẳn một cuộc hội nghị để đánh anh. Lê Đức Thọ trực tiếp chỉ đạo. Loại có vấn đề như tôi, không được mời. Hơn 50 người được mời có chọn lọc để nhằm phê phán Hiến. Hiến là người thứ 50 (avant dernier) được phép phát biểu. Người cuối cùng là Chế Lan Viên (thứ 51). Người ta bố trí một tay sắc sảo như thế để có thể đập tan ý kiến của Hiến và hội nghị kết thúc luôn. Giờ nghỉ, Lê Đức Thọ trò chuyện với Hiến mới biết Hiến là người đồng hương với mình. Cùng quê Đức Thọ, Hà Tĩnh (Lê Đức Thọ ở Nam Định, nhưng quê gốc ở Đức Thọ, Hà Tĩnh), anh em Lê Đức Thọ đều lấy biệt danh có chữ Đức hoặc chữ Thọ: Đinh Đức Thiện, Mai Chí Thọ, Lê Đức Thọ. Thế là Hiến gặp may. Vì tình đồng hương, Lê Đức Thọ đã cứu anh. Ai đó trong hội nghị nói Hiến chịu ảnh hưởng tư tưởng mỹ học của Kant. Thọ dõng dạc khẳng định trước hội nghị: “Hoàng Ngọc Hiến chẳng kăng kiếc gì hết, Hoàng Ngọc Hiến là Mác Lênin”. Tình thế thành ra đảo ngược. Chế Lan Viên chót đánh Hiến, thấy thế, đâm hoảng, bèn lảng qua chỗ Hiến đang ngồi với Lê Đức Thọ, nói khẽ với anh: “*Lúc nãy tôi có nói điều gì quá, anh bỏ qua đi cho nhé!”. *Sau này, Chế Lan Viên còn nhờ tôi nhắn lại với Hiến hai lần như thế. Lại còn nói phách “Tôi có trọng anh Hiến thì tôi mới tranh luận với anh ấy chứ!”.


Có lẽ vì hay gặp may mà Hiến luôn luôn lạc quan.


Lại vẫn cái vụ “hiện thực phải đạo”. Tôi nhớ giáp Tết âm lịch năm ấy, Khái Vinh có mời tôi, Hiến và Xuân Diệu ăn thịt chó ở Hàng Lược. Lúc đó, dân Nhật Tân đã lục tục đem đào tới bán. Khái Vinh nói, anh Hiến là người có tài mà khổ, bị đánh dữ quá! Xuân Diệu nói: “Con người ta có trải qua đau khổ thì mới nên người”. Nhưng Hiến lại phát biểu một cách đắc ý: “Những điều tôi được nhiều hơn những điều tôi mất”. Và anh dẫn chứng: “Đứa con gái tôi vào Sài Gòn, giáp Tết bị mắc kẹt ở đấy không ra được vì giao thông khó khăn. Có một anh phi công cho lên ngồi ghế phụ, bay ra không mất tiền, vì biết là con ông “hiện thực phải đạo”. Cũng con bé ấy học đến lớp cuối cấp, sắp thi đại học, rất cần có người luyện cho môn toán. Rất may, có một cô giáo tự nguyện đến luyện giúp miễn phí vì biết là con ông “hiện thực phải đạo”. Đó là chưa kể nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát đến tận nhà Hiến tặng hoa. Và bài “hiện thực phải đạo” đã làm cho anh nổi tiếng một thời và được nể trọng trong giới trí thức cấp tiến.


Đúng là Hoàng Ngọc Hiến có quý nhân phù trợ thật.


Hồi Hiến sang Mỹ, có một bọn Việt kiều chống cộng quá khích định hành hung anh. May sao lại có một thượng nghị sĩ Mỹ phái một vệ sĩ của ông ta tới bảo vệ – Mới đây Hiến kể với tôi như vậy.



Tôi rất tin cậy Hoàng Ngọc Hiến. Nên chịu ảnh hưởng Hiến về nhiều mặt, đặc biệt là trong việc dùng thuốc. Thuốc huyết áp, thuốc bổ, thuốc loãng xương… Tất nhiên tôi có chịu ảnh hưởng anh cả về tư duy khoa học. Hiến có tài liệu nào anh cho là hay hoặc nghĩ ra điều gì có vẻ tâm đắc, đều trao đổi với tôi. Trò chuyện với Hiến bao giờ cũng có ích, dù ít dù nhiều, đối với cái nghĩ của mình. “Dữ quân nhất dạ thoại, thắng độc thập niên thư”. Người xưa nói thế, vận dụng vào trường hợp Hoàng Ngọc Hiến e có hơi quá. Nhưng quả là trò chuyện với Hiến bao giờ cũng thu lượm được một cái gì đó có ích. Hiến rất ghét giáo điều và nghĩ cái gì thì nghĩ đến nơi đến chốn. Tôi cho rằng, mấy phát biểu sau đây của Hiến là những ý kiến nghe được:


Nghiên cứu khoa học, quan trọng nhất là nghĩ bằng cái đầu của mình và viết bằng lời văn của mình. Đọc người khác rất cần, song phải thấm thế nào đó để trở thành của mình, để khi nghĩ là nghĩ bằng cái đầu của mình và viết bằng lời văn của mình.


Quán tính của con người là thường quy những điều chưa biết vào cái sơ đồ có sẵn, sơ đồ biết rồi. Do lười nghĩ. Quán tính rất mạnh, lay chuyển được quán tính, được cách nghĩ là khoa học.


Khoa học trước hết là đặt vấn đề đích đáng. Tìm ra cái mới hoàn toàn rất khó. Thường chỉ chỉnh lại một tý. Vấn đề đặt ra đúng, nhưng chưa đúng hẳn. Chỉnh lại một tý như chỉnh ti vi cho hình nét hơn, âm rõ hơn. Thí dụ, nói Đam Săn anh hùng dũng cảm là đúng. Nhưng thực ra tính cách Đam Săn phong phú hơn: hồn nhiên, trung thực, lãng mạn, ngỗ nghịch… đặc biệt là một cá tính tự do.


Nói Số đỏ đả kích những ông chủ bà chủ của xã hội cũ là đúng, nhưng đâu chỉ có thế. Số đỏ là cả một xã hội hài hước gồm đủ hạng người, ai cũng buồn cười, một xã hội ngớ ngẩn, nhí nhố, lố bịch… , kể cả bình dân.


*Hiến khẳng định vai trò *quan trọng của cảm hứng và trực giác. Tôi cho rất đúng. Anh nói, cảm hứng lay động toàn bộ năng lực tinh thần của người nghiên cứu. Trong giây phút ấy, con người, cùng một lúc, có vô số liên tưởng, kể cả liên tưởng vô thức. Do đó rất sáng suốt. Nhưng phải băn khoăn nhức nhối về nhân sinh, về văn học mới có cảm hứng dẫn tới tìm tòi phát hiện. Cảm hứng làm cho câu, chữ có hồn. Cảm hứng phát huy trực giác, khiến cảm nhận được cái mới. Mọi tìm tòi đều bắt đầu bằng trực giác. Sau đó mới dùng suy lý lôgic chỉnh lại (vì thế Hiến rất phục những phán đoán trực giác của ai đó, chỉ ra chính xác bản chất một đối tượng nào đấy, không cần lý lẽ chứng minh gì hết).


Phân tích tác phẩm gay nhất là đọc hết cuốn sách mà chẳng thấy có ý gì cả. ý là một ý nghĩa mới đích đáng trả lời một câu hỏi ta đang tìm tòi, đang suy nghĩ để giải đáp. Tác phẩm chẳng giải đáp được một câu hỏi nào cần thiết, là vô nghĩa.


Phân tích tác phẩm là phân tích chi tiết. Phải chọn chi tiét có vấn đề. Phân tích một chi tiết mà mở ra cả một vấn đề về đạo lý, về triết lý. Phân tích một chi tiết như thế có sức thuyết phục và sang trọng hơn là phân tích tràn lan.


Cuối cùng phải tìm từ, tìm chữ đích đáng để diễn đạt. Một bài viết hay là có được một hai từ đích đáng kết tinh được cái hiểu, cái ý của mình. Đó là cái thần của bài viết.


Hiến nghĩ thế nên rất chăm chỉ học chữ, học từ. Có khi học ở dân gian. Thí dụ, anh rất khoái vì học được chữ “bõ hờn” của một ông người Mường tên là Cò Lửa, chủ nhà chúng tôi ở nhờ hồi kháng chiến chống Mỹ tại Thạch Thành, Thanh Hoá. Phần nhiều học ở sách vở. Thí dụ chữ “hương nguyện“, “phường hương nguyện” anh học được của Mạnh Tử khi nghiên cứu triết học cổ phương Đông. Có lẽ tương đương với chữ philistin chăng?


Có những chữ thông thường nhưng anh đem đến cho nó một nghĩa mới nào đấy. Như “kể lại nội dung” và “viết nội dung”. (Bài “Kể lại nội dung và viết nội dung” (Văn học gần …và xa. NXB giáo dục 2003). Hay như chữ “trí thức bình dân” trong bài anh giới thiệu Tuyển tập Nguyễn đăng Mạnh (NXB Giáo dục 2006)… Có thể gọi trường hợp này là sáng tạo từ mới.


Gần đây Hoàng Ngọc Hiến say mê đọc Nho, Phật, Đạo qua sách của Francois Julien. Anh lấy làm khoái chí học được ở F. Julien, sự phân biệt giữa tư duy Đông và Tây. Tây là *chân lý *(Vérité). Đông là *dịch lý *(transformation). Một đằng cứ cãi nhau về chân lý, về đúng hay sai. Một đằng chủ trương “cùng” hay “thông”. Đúng sai không quan trọng, quan trọng là không bế tắc, là thông, là được việc, là có hiệu quả thực tế…



Như đã nói, Hoàng Ngọc Hiến sống rất hồn nhiên, tự nhiên.


Hồi chống Mỹ, sơ tán ở Thạch Thành, Thanh Hoá, không mấy khi có được miếng thịt mà ăn. Hôm ấy, anh em kiếm được một đĩa thịt. Hiến vừa ăn, vừa xụt xịt mũi, vừa gật gù: “Ăn thịt ngon thật!”.


Tối tối, anh rất chịu khó cùng với tôi xách đèn đi bắt ốc sên về cải thiện, tin rằng ba con ốc sên bằng một quả trứng vịt (Hồi ấy có kẻ phao lên như vậy).


Hiến hay nghĩ ra những chuyện kỳ cục và buồn cười để đùa vui. Thí dụ như chuyện phân loại cán bộ khoa văn trường Đại học Sư phạm Vinh thành ăn cướp và ăn cắp. Hình như tư duy khoa học mãi, nghĩ mãi những điều có nghĩa lý, người ta phải thư giãn đầu óc bằng những chuyện vô nghĩa lý.


Hiến đúng là vui đâu chầu đấy.


Có một lần Ngô Thảo nhân quen một Việt kiều về nước, mời tôi, Hiến và Hoàng Cầm đến đánh chén ở một nhà hàng. Xe đón tôi trước, đón Hiến sau. Trên xe, tôi gọi điện cho Hiến chuẩn bị ra ngõ để đón xe. Chị Tố Nga, vợ Hiến, cầm máy trả lời: “Lão ấy mời đi họp thì đến chậm, nhưng mời đi ăn thì đúng giờ lắm!”.


Một lần khác, mới năm ngoái đấy thôi, anh Vũ Văn Viết ở Việt Trì mời chúng tôi lên dự lễ khai trương ngôi trường phổ thông dân lập do anh vừa xây dựng. Anh cần nhiều người ở Hà Nội lên dự cho thật long trọng. Nhưng hôm ấy nhiều người trong danh sách mời không đi được vì bận việc hay đang đi công tác xa. Ngồi trên xe thấy vắng vẻ quá, tôi nẩy ra ý mời Hiến, tuy Hiến chẳng quen biết gì Vũ Văn Viết cả. Và Viết cũng không mời Hiến. Tôi gọi điện. Hiến nhận lời ngay, và lập tức đáp xe ôm đến chỗ hẹn.


Cái giống nghệ sĩ thật sự bao giờ cũng rất tự nhiên – nói như Lưu Công Nhân, “tự nhiên như ruồi”. Họ rất khó tính trong sáng tạo, nhưng rất dễ tính trong sinh hoạt đời thường. Khoa học cũng là một hoạt động sáng tạo, nhà khoa học cũng là một loại nghệ sĩ, nhất là khoa học về văn chương. Vì thế Hoàng Ngọc Hiến cũng rất hồn nhiên, tự nhiên, “tự nhiên như ruồi“. Hiến là dân Nghệ Tĩnh nhưng lại chê dân Nghệ “cái gì cũng biết, trừ hạnh phúc“. Nhưng chính Hiến cũng rất Nghệ. Một tay đầy nghị lực. Tập thể dục rất kiên trì. Nghiện cả thuốc lá, thuốc lào mà bỏ hẳn (Bỏ mà vẫn cho hút thuốc lá là thích nhất. Anh nói “Khi nào sắp chết sẽ hút lại”). Gần 80 tuổi vẫn cả ngày ôm cái máy vi tính để lấy thông tin và luyện ngoại ngữ. Rồi đọc sách, dịch sách, viết sách… Tôi là dân Bắc Kỳ, kém xa Hiến về mặt này.


Hiến đích thực là dân Nghệ, đúng thế, nhưng là một tay Nghệ “cái gì cũng biết, kể cả hạnh phúc“. Vì tôi biết chưa bao giờ anh từ chối một lạc thú trần thế, trần tục nào.


(Rút từ hồi kí của Nguyễn Đăng Mạnh)


Ảnh: GS Nguyễn Đăng Mạnh (áo đen) và nhà phê bình Hoàng Ngọc Hiến. Ảnh sưu tầm trên mạng.


https://cuchuoisaigon2012.wordpress.com/2011/01/25/th%E1%BA%A7y-hi%E1%BA%BFn-da-ra-di/