Thứ Ba, 16 tháng 11, 2021

“ĐẢNG KHÔNG PHẢI LÀ MỘT TỔ CHỨC ĐỂ LÀM QUAN PHÁT TÀI “

 “ĐẢNG KHÔNG PHẢI LÀ MỘT TỔ CHỨC ĐỂ LÀM QUAN PHÁT TÀI “

( Bài đăng trên Kinh tế đô thị Cuối tuần, 6/12/2019)
Quốc Phong
Ngay từ năm 1947,thời gian được coi là giai đoạn cực kỳ gian khó của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp mà dân tộc ta bước vào , Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dành thời gian viết cuốn sách "Sửa đổi lối làm việc”. Người mong muốn mỗi cán bộ, đảng viên cần tìm thấy cái mạnh, yếu của mình để tự sửa mình và đã căn dặn rất kỹ một điều , đó là “Đảng không phải là một tổ chức để làm quan phát tài" (Hồ Chí Minh toàn tập - NXB Chính trị Quốc gia - Hà Nội 1995 , từ trang 232 -290).
Người lãnh đạo, theo tinh thần của bài viết mà mang tư tưởng cá nhân , thực dụng , chỉ lo vinh thân phì gia mà quên rèn luyện và làm gương cho đảng viên cấp dưới và quần chúng noi theo thì sẽ không thể nói được người khác. Từ đó, dân sẽ mất lòng tin vào người lãnh đạo và chế độ mà chúng ta dựng xây cũng vì thế mà khó trường tồn .
Và đến nay, dù đã 72 năm, lời căn dặn của Người vẫn mang tính thời sự rất lớn . Bởi khi một bộ phận không nhỏ là công bộc của dân, kể cả cán bộ cao cấp, một khi đã suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, tham nhũng , sa vào chủ nghĩa cá nhân, ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, vinh thân phì gia, vun vén cho bản thân và cho người thân trên mức bình thường... thì sẽ là tự làm bất lợi về uy tín của người lãnh đạo.
Trong lịch sử Đảng ta đã có biết bao tấm gương mẫu mực về đức tính liêm khiết, không màng chuyện vun vén, vụ lợi và tấm gương ấy nhiều không thể kể hết .
Cuộc sống giản dị, thanh liêm của Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng các bậc cách mạng tiền bối như Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng và nhiều bậc " khai quốc công thần " khác đã cho thấy điều đó.
Lúc ông Trường Chinh, nguyên Tổng bí thư Đảng ta (trong suốt 3 giai đoạn cách mạng khác nhau) ra đi đột ngột vì ngã cầu thang , gia đình ông đã lục tìm trong ngăn kéo bàn làm việc của vị cách mạng tiền bối ấy thì thấy có một cuốn sổ tiết kiệm có khoảng 3 ngàn đồng. Để dễ hình dung, tôi xin lấy ví dụ để so sánh cho dễ ,nó tương đương khoảng gần 8 tháng lương đại uý quân đội của tôi vừa chuyển ngành ngày đó (vào tháng 9/1988),tức là 390 đồng/ tháng( nay mức lương cấp bậc này khoảng 8 triệu đồng/ tháng ).
Đây là số tiền tiết kiệm do ông viết các cuốn sách và được các nhà xuất bản trả nhuận bút như biết bao tác giả khác . Ông cũng đã trích từ khoản này trả thù lao cho vị thư kí riêng của mình và những người giúp ông ra cuốn sách cũng như đã phụ giúp phu nhân ông chi tiêu thêm trong gia đình. Và đến lúc ông đi xa thì còn khoản tiền như thế . Ngoài ra , ông không còn khoản tiền gì khác.
Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng cũng vậy. Ông là người có 32 năm đảm đương cương vị Thủ tướng Chính phủ , thế mà ngày ông chuẩn bị đám cưới cho con trai ông là anh Phạm Sơn Dương, ông đã tâm sự với anh Trần Hà , người từng làm vụ trưởng vụ Tổng hợp Văn phòng Chính phủ suốt 20 năm rằng ông thấy hơi buồn cười vì hoá ra ngay trong nhà mình, muốn có chiếc nhẫn vàng độ 2 chỉ để tặng con dâu Minh Châu mà ông Phạm Văn Đồng cũng không hề có nổi .
Chuyện này chính anh Trần Hà đã kể trực tiếp cho chúng tôi nghe khi đến nhà thăm ông tại Khu tập thể Giảng Võ, Hà Nội.
Thật là cảm động đến trào nước mắt !
Xã hội mới hôm nay, theo tôi nghĩ , chúng ta cũng không nên máy móc đòi hỏi thế hệ lãnh đạo sau cũng buộc phải khắc khổ , thanh liêm tới mức như vậy. Làm cách mạng thì mục tiêu sâu xa cũng để mọi người trong gia đình mình được sống sung túc . Nếu lo cho con mình có cuộc sống tốt hơn thì cũng nên coi là lẽ thường.
Song cũng không nên vun vén cá nhân để rồi bị nhục nhã ê chề cả đời kiểu như mấy cựu bộ trưởng Thông tin Truyền thông khai báo nhận hối lộ trong vụ AVG vừa rồi . Chỉ vì tiền, vì nghĩ cho gia đình mà họ đã tạo dựng kịch bản mua bán doanh nghiệp gây thất thoát cho nhà nước đến 7 nghìn tỷ thì quá dã man, không thể chấp nhận dù số tiền họ tự khai báo chắc gì đã thành khẩn .
Và càng không nên lo của nả để lại cho cháu chắt đến nhiều đời tiêu không hết cũng là không nên chút nào .
Ngày xưa, theo sách vở ghi lại thì có nhiều câu chuyện nghe thật thấm thía trong công việc dạy con, cách để lại tài sản cho con thế nào là nên và không nên.
Theo Sử ký Mạnh Thường Quân, có chuyện ghi lại trong “Cổ học tinh hoa “do Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc và Từ An Trần Lê Nhân sưu tầm và viết lời bình thì có tích chuyện” Lời con can cha”. Chuyện nghe thật là chí lý. Chuyện rằng:
Điền Vân là con Điền Anh. Tuy Điền Vân còn ít tuổi nhưng cực kỳ khôn ngoan.Thấy cha mình làm quan lớn nhưng có tính vụ lợi riêng, Điền Vân không bằng lòng . Một hôm, Điền Vân hỏi cha :
-Con của con thì cha gọi là gì? Thưa cha ! -Cha nói” gọi là cháu” .
-Cháu của đứa cháu cha thì cha gọi là gì ?
-Thì ta gọi là chút.
-Chút của đứa chút thì cha gọi là gì ?
-Ai mà biết gọi là gì !- Điền Anh lúng túng vì đúng là ông không biết thật !
-Cha làm tướng ở nước Tề. Tới nay đã phò tá cho ba đời vua- Điền Vân nhỏ nhẹ - Cha dù có hàng ức, hàng vạn ( ý nói rất nhiều vàng bạc, ruộng đất... ) Sao môn hạ của cha con không thấy có một người nào là hiền tài ? Nay con thấy cha thì mặc áo toàn là gấm vóc mà sao người giỏi trong nước vẫn rách rưới. Tôi tớ cha thì thừa ăn mà người giỏi trong nước vẫn đói khát. Cha quên hết cả việc công ích hiện thời của dân, của nước, chỉ chăm chăm tích cóp của cải muốn để dành cho những kẻ sau này mà chính cha cũng không biết mình gọi chúng nó là gì .
Con trộm nghĩ như thế mà thấy thật là kỳ lạ !
Người đời sau đã bình rằng : Người ta ai chẳng vì con,vì cháu mà cố sức làm ăn để tích cóp tiền của cho con,cho cháu. Âu đó cũng là lẽ tự nhiên. Tuy vậy, nên như thế nào là vừa phải vì lẽ ngoài người thân, con,cháu mình thì còn nước non,còn người khác.
“ Đời cua cua máy, đời cáy cáy đào “ , việc gì ta lại đem sức ta làm trâu ngựa để lo cho đến đứa cháu cả chục đời mà ta cũng không biết gọi chúng là gì thì có nên không? Chi bằng ta hãy lo cho muôn người nếu như ta còn là công bộc của dân thì trước tiên phải có trách nhiệm lo cho muôn dân. Nếu như để nhiểu của nả cho con,cháu,chắt,chút ,chít, ... như thế, nó khác nào ta đổ xuống cái giếng không đáy !
Chuyện xưa, tân /cổ đủ cả mà tôi nhắc lại ở trên đây có lẽ đã thay cho lời kết của bài viết này. Phàm đã làm người lãnh đạo , là hiến thân phụng sự Tổ quốc thì nên cân nhắc lối sống bản thân sao cho cuối đời để lại tiếng thơm cho con cháu. Nếu giàu có , nếu nhà cao cửa rộng thì cũng nên bằng đồng tiền chính đáng mà có. Như thế cháu con chúng ta mới có thứ để tự hào về cha ông chúng.
QP.

BÀN VỀ CHÍNH DANH

 BÀN VỀ CHÍNH DANH

Lâu nay người Việt mình cứ quen mồm gọi chế độ cũ là Ngụy, chẳng qua bị nhồi lâu thành ra quen mồm, thấy cũng bình thường, kiểu như đương nhiên nó phải thế, chả thắc mắc gì.
Từ "ngụy" đó bắt đầu được sử gia nhà Nguyễn dùng để chỉ nhà Tây Sơn. Hình như trước đó chưa ai dùng? Đó là để chỉ cái sự không chính danh của Tây Sơn. Tương tự vậy, chế độ CS cũng gọi QG VN và VNCH là Ngụy quyền (không hiểu sao lại viết hoa?). Nhưng Đế quốc VN lại không bị gọi là Ngụy nhé! Chắc chắn có lý do của nó. Mình sẽ phân tích ở dưới.
Về tính chính danh của các chính quyền, thì thường có 2 loại, quân chủ và dân chủ.
1. Chính danh quân chủ
Kiểu chính danh này là phổ biến suốt thời kỳ phong kiến. Vua được coi là thiên tử, con vua đương nhiên được nối dõi làm vua. Nếu vua không có con đẻ thì con nuôi hoặc cháu vua (trong họ) sẽ được chọn. Kẻ được chọn đó được coi là có chính danh quân chủ.
Thời phong kiến, tội khi quân, giết vua, cướp ngôi vua là tội tày trời. Cướp ngôi sẽ không có chính danh, quan lại và dân chúng sẽ không theo.
Các triều đại phong kiến VN cũng hiếm có chuyện cướp ngôi vua trắng trợn, đều phải có lý do hợp lý và thường kẻ "cướp ngôi" đều đang là quan to đầu triều, lấy ngôi của ấu chúa, khi vua mới chết.
Nhà Đinh sang nhà Lê cũng phải dựa vào việc nhà Tống xâm lược, tình huống khẩn cấp, nên quan quân mới "thuyết phục" bà thái hậu đang nhiếp chính nhường ngôi cho Lê Hoàn đang là "phó vương".
Lý Công Uẩn cũng lên ngôi khi đang làm quan to, sau khi Lê Long Đĩnh chết.
Trần Cảnh lên ngôi với sự sắp đặt của Trần Thủ Độ là đại quan triều Lý, trong khi triều Lý đã mạt, Lý Chiêu Hoàng "nhường ngôi" cho chồng 1 cách êm thấm. Trần Cảnh cũng là con của Trần Thừa, 1 đại quan khác.
Hồ Quý Ly cũng là quan đầu triều phế cháu ngoại mình là vua Trần, lên ngôi vua. Sau đó sợ điều tiếng lại nhường ngôi cho con là Hồ Hán Thương, cũng là cháu ngoại vua Trần. Lấy cớ về việc cướp ngôi đó, nhà Minh sang chiếm nước ta. Nhà Hồ 1 phần vì thiếu chính danh mà để mất nước.
Lê Lợi, 1 địa chủ ở Thanh Hoa, dấy binh khởi nghĩa chống quân Minh dành thắng lợi, cũng phải dựng Trần Cảo (hậu duệ nhà Trần) lên làm minh chủ. Nhưng lúc sắp sửa lên ngôi vẫn phải chế ra lý do với nhà Minh là Trần Cảo (người được nhà Minh chấp thuận để khôi phục nhà Trần) đã chết, quý tộc nhà Trần không còn ai, để được lên ngôi vua 1 cách chính thống (được nhà Minh phong làm An Nam quốc vương).
Mạc Đăng Dung cũng là quan đầu triều Lê, ép vua nhường ngôi, nên cũng bị mất chính danh. Nhà Hồ và nhà Mạc không được coi là triều đại chính thống trong lịch sử phong kiến VN.
Nguyễn Kim, cũng 1 đại quan nhà Lê và con rể là Trịnh Kiểm lấy tiếng phù Lê diệt Mạc để trung hưng được nhà Lê, gọi là triều Lê Trung hưng. Kể từ Trịnh Tùng, con trai Trịnh Kiểm, họ Trịnh làm chúa, thay vua Lê cai trị đất nước. Vua Lê lúc đó giống như vua Hán thời Tam quốc, chả còn quyền hành thực tế, nhưng con cháu vẫn được nối ngôi. Chúa Trịnh không dám cướp ngôi, vì chả có lý do gì và sợ mất chính danh. Chúa Trịnh trị vì Đại Việt 200 năm như vậy.
Nguyễn Hoàng, con trai Nguyễn Kim, xin trấn thủ Thuận Hóa để ly khai chúa Trịnh. Kể từ con trai ông cũng làm chúa cai trị Đàng Trong. Chúa Nguyễn Phúc Chu, cháu 6 đời của Nguyễn Hoàng, muốn biến Đàng Trong thành 1 nước độc lập với Đàng Ngoài, xin vua Thanh phong vương nhưng không được. Vì nhà Thanh chỉ coi vua Lê là chính danh, coi Đàng Trong vẫn là đất của nhà Lê. Thế là chúa cũng đành chịu, tự phong vương và coi Đàng Trong là độc lập với Đàng Ngoài nhưng vẫn phải lấy tiếng phù Lê diệt Trịnh chứ không dám tự lên ngôi vua.
Đến khi anh em Tây Sơn khởi nghĩa chống chúa Nguyễn, cũng phải lấy tiếng là diệt quyền thần Trương Phúc Loan, kẻ lấn át chúa Nguyễn! Nhưng người chấm dứt chúa Nguyễn lại là Trịnh Sâm. Kẻ tận diệt chúa Nguyễn là anh em Tây Sơn, vốn xuất thân chỉ là thương gia nhỏ.
Sau khi Trịnh Sâm chết, Đàng Ngoài hỗn loạn, do Trịnh Sâm phế trưởng lập thứ (thiếu chính danh). Tây Sơn (chính xác là Nguyễn Huệ) nhân cơ hội mới ra Bắc diệt chúa Trịnh, nhưng vẫn không dám lật vua Lê. Cũng chỉ vì thiếu lý do và sợ không có chính danh. Nguyễn Huệ phải rút về Phú Xuân.
Sau đó, Nguyễn Huệ lại ra Bắc 2 lần để giết Nguyễn Hữu Chỉnh và Vũ Văn Nhậm với cái cớ là 2 người này chuyên quyền lấn át vua! Thực tế là do sợ 2 người đó muốn làm chúa, cướp mất công của mình. Vua Lê Chiêu Thống phải bỏ Thăng Long trốn đi. Nguyễn Huệ vẫn không dám cướp ngôi mà lập Lê Duy Cận, chú của Lê Chiêu Thống, làm giám quốc.
Cơ hội tiếm ngôi của Nguyễn Huệ chỉ có khi Lê Chiêu Thống cho người cầu viện nhà Thanh. Nguyễn Huệ lấy lý do chống giặc để tự lên ngôi với niên hiệu Quang Trung.
Nguyễn Huệ là kẻ tiếm ngôi duy nhất xuất thân trong giới bình dân, khi vua chính danh vẫn còn sống. Lê Lợi không bị coi là tiếm ngôi, dù bị tiếng ép chết Trần Cảo, cũng không phải xuất thân quan lại. Vì lúc đó nhà Minh đã chiếm được Đại Việt và cai trị trực tiếp, gây nhiều tội ác, lúc đó không còn nhà Trần nữa.
Nguyễn Ánh khi tiêu diệt nhà Tây Sơn, thì lấy cái chính danh là hậu duệ chúa Nguyễn, khôi phục lại nhà chúa. Vua Lê lúc đó đã chạy sang Tàu nên Nguyễn Ánh tự lên ngôi. Vì thế, Nguyễn Ánh không bị cái tiếng cướp ngôi vua. Vì dù sao Nguyễn Ánh vẫn có chính danh hơn là Nguyễn Huệ, Nguyễn Nhạc (đều tự lên ngôi).
Vì lẽ đó, nên dưới con mắt sử gia nhà Nguyễn, thì Tây Sơn là ngụy triều, do ép vua phải bôn tẩu, cầu viện, rồi tiếm ngôi.
Dưới con mắt sử gia CS thì Tây Sơn có chính danh là vì đã đánh đuổi được ngoại xâm. Nhưng việc quy kết quân Thanh là ngoại xâm mới là suy diễn cho tương lai. Chứ thực tế lúc đó quân Thanh chưa chiếm được Đại Việt, không hề đánh nhau với quân nhà Lê, chỉ đánh vài trận nhỏ với Tây Sơn, cũng chưa đặt quan lại cai trị trực tiếp (chưa sát nhập Đại Việt vào nhà Thanh) mới có ý đồ mà thôi. Lê Chiêu Thống vẫn làm vua.
Nói chung, việc Nguyễn Huệ đánh quân Thanh với hoàn cảnh hoàn toàn khác với Lê Lợi đánh quân Minh. Trong khi Lê Lợi vẫn phải dựng Trần Cảo lên để lấy tiếng khi phất cờ khởi nghĩa, thì Nguyễn Huệ đã tự xưng đế.
Mình phải tóm tắt lại các sự kiện thay đổi triều đại phong kiến VN trong gần 1000 năm, để mọi người thấy rằng cái tính chính danh quân chủ thời đó nó quan trọng thế nào. Điều này đặc biệt rõ ở thời chúa Trịnh, quyền lực như vậy mà vẫn không dám lật vua. Những kẻ "tiếm ngôi" đều phải xuất thân quan to, đầu triều và việc tiếm ngôi cũng phải hết sức khéo léo. Chỉ duy nhất Nguyễn Huệ là kẻ tiếm ngôi xuất thân bình dân và dùng bạo lực đánh vua. Các trường hợp khác đều phải tiếm ngôi khi vua đã chết.
Với 1 lịch sử như vậy, nên việc Việt Minh cướp chính quyền rồi ép vua Bảo Đại thoái vị, trao ấn kiếm là việc không đơn giản, dưới góc nhìn phong kiến. Đã cướp chính quyền rồi thì làm gì còn có chuyện vua Bảo Đại TỰ NGUYỆN trao ấn kiếm nữa?!
Đế quốc VN (nhiều người còn không biết đến cái quốc hiệu này) không bị coi là ngụy, là do vua Bảo Đại có chính danh. Vì thế chỉ bị gọi là chính quyền bù nhìn, nhưng không ngụy!
Phần 2 mình sẽ phân tích tiếp về chính danh dân chủ và so sánh tính chính danh của VNDCCH, QGVN và VNCH (2 nền cộng hòa).
2. Chính danh dân chủ
Kể từ khi bắt đầu có nền dân chủ ở phương Tây, thì khái niệm chính danh quân chủ dần trở nên lạc hậu. Vì sự nối ngôi của vị quân vương trở nên vô lý. Kẻ nối dõi không ai dám chắc sẽ trở thành vị minh quân, do chỉ là lựa chọn trong 1 nhóm nhỏ các con của vua và thường là con cả. Sự lựa chọn của vua cũng không chắc đã sáng suốt. Vận mệnh quốc gia trở nên may rủi khi phụ thuộc vào sự lựa chọn của 1 ông vua. Lãnh đạo quốc gia nếu được chọn trong quảng đại quần chúng thì cơ hội chọn được người giỏi sẽ lớn hơn nhiều. Sự lựa chọn công bằng nhất là từ đa số dân hoặc tối thiểu cũng từ 1 nhóm đại diện cho đa số, có thể là nhóm quý tộc.
Nền dân chủ đầu tiên là ở thành bang Athens vào khoảng năm 500 trước công nguyên. Đây là nền dân chủ trực tiếp, các công dân Athens đều được bầu cử và ứng cử, trừ các nô lệ. Nền dân chủ này sụp đổ vì những mặt trái của dân chủ trực tiếp.
Nền dân chủ chỉ thực sự hiệu quả từ khi nó được lặp lại ở nước Anh, bắt đầu từ thế kỷ 13, khi vua Anh buộc phải chia sẻ bớt quyền lực cho giới quý tộc và tăng lữ. Viện Quý tộc (Nguyên lão) và Viện thứ dân được lập ra để chia sẻ quyền lực với nhà vua.
Đến thế kỷ 17, hầu hết quyền lực của nước Anh rơi vào 2 viện, vua Anh chỉ còn quyền lực hình thức. Anh trở thành nước quân chủ lập hiến đầu tiên. Càng về sau này quyền lực của Viện thứ dân (Hạ viện) càng tăng, quyền lực của Viện Quý tộc (Thượng viện) càng giảm, cùng với sự phát triển về khoa học kỹ thuật và kinh tế của nước Anh.
Nền dân chủ ở Anh, cũng như các nước phương Tây khác, đều theo 1 quy trình là vua san sẻ quyền lực cho giới quý tộc, sau đó là giới nhà giàu, dân có đóng thuế. Dân nghèo, ít học và phụ nữ được quyền dân chủ sau cùng. Đến năm 1918 thì phụ nữ Anh trên 30 tuổi mới được đi bầu. Phụ nữ Pháp thì năm 1944 mới được quyền tương tự dù cách mạng Pháp xảy ra từ năm 1789 (năm vua Quang Trung lên ngôi và đánh thắng quân Thanh). Có nghĩa là 1 cuộc cách mạng đánh đổ nền quân chủ chuyên chế cũng không đồng nghĩa là sẽ có dân chủ, bình đẳng giữa tất cả mọi người, mọi giới tính.
Chính danh của Đế quốc VN
Quay lại nước VN. Ngày 9/3/1945, Nhật đảo chính Pháp. Người Nhật khuyến khích vua Bảo Đại ban bố 1 bản Tuyên cáo độc lập vào ngày 11/3, tuyên bố hủy bỏ các hiệp ước ký với người Pháp. Các điều ước về sự bảo hộ của Pháp với Bắc và Trung Kỳ đương nhiên bị hủy bỏ, do Pháp đã không còn năng lực bảo hộ. Nhưng điều khoản về việc chuyển giao vĩnh viễn Nam Kỳ cho người Pháp thì Bảo Đại không có quyền hủy bỏ.
Nước Đại Nam được đổi tên thành Đế quốc Việt Nam, với mô hình nửa quân chủ chuyên chế, nửa quân chủ lập hiến. Vua không còn nắm trọn quyền lực như quân chủ chuyên chế (phong kiến) mà quyền lực chủ yếu là ở Thủ tướng Trần Trọng Kim. Chính phủ Trần Trọng Kim cũng hoạt động theo kiểu CP của nhà nước dân chủ lập hiến, có lẽ copy mô hình của Nhật. Đây là điều chưa từng có ở giai đoạn trước đó. Cơ quan hành pháp thời trước là Viện Cơ mật với 4 vị đại thần điều hành dưới quyền lực tối cao của vua. Thời Pháp thuộc thì viên Khâm sứ điều hành.
Như vậy, có thể nói, chính vua Bảo Đại đã lật đổ chế độ phong kiến của chính mình lập nên 1 nền dân chủ sơ khai khi chuyển giao quyền lực cho Chính phủ và Thủ tướng. Lúc đó Đế quốc VN đang sửa soạn việc soạn thảo hiến pháp và lên kế hoạch thành lập quốc hội.
Trích hồi ký Trần Trọng Kim:
"Mỗi địa phương được quyền tự trị về phương diện cai trị và kinh tế. Các cơ quan hành chính các địa phương do chính phủ trung ương chọn người bản xứ cử ra và có các nhân vật hội nghị kiểm duyệt. Khi còn chờ có hiến pháp và sự tuyển cử phân minh, các cơ quan hành chính ở các địa phương hãy tạm cử những nhân vật xứng đáng ra xung chức địa phương tư vấn nghị viên. Chúng tôi cho chính sách địa phương tự trị như thế có nhiều điều tiện lợi và hợp với tình thế từng xứ về đường cai trị và đường kinh tế, mà không hại gì cho sự thống nhất của nước nhà."
Như vậy, dễ thấy là Đế quốc VN có chính danh quân chủ của vua Bảo Đại và đang có sự phôi thai của chính danh dân chủ.
Thực ra trước đó, thời Pháp thuộc, thì dân VN cũng đã được hưởng nền dân chủ sơ khai rồi. Đó là việc bầu cử các nghị viên ở Hội đồng tư vấn (Hội đồng dân biểu) cấp địa phương và cấp kỳ. Đây chính là 1 dạng sơ khai của Hội đồng nhân dân hay quốc hội ở cấp tỉnh và kỳ (bang). Những người được đi bầu và ứng cử ban đầu là những người giàu, công chức, dân có đóng thuế.
Tuy nhiên vai trò của các hội đồng này còn hạn chế, thiên về tư vấn, không có quyền quyết định. Nhưng đó chính là mô hình hạ viện, dân chủ sơ khai như ở các nước phương Tây. Nếu coi các đảng viên CS cũng tương tự người Pháp (giai cấp cai trị) thì lúc đó còn dân chủ hơn bây giờ. Vì người (có quốc tịch) Pháp chỉ cần chiếm khoảng 70% tổng số nghị viên, trong khi đảng viên bây giờ chiếm 95% đại biểu QH.
Chính danh của VNDCCH
Ngày 19/8/1945, Việt Minh cướp chính quyền ở HN, ngày 23/8 VM biểu tình thị uy (gần như cướp chính quyền) ở Huế. Dưới áp lực của VM, vua Bảo Đại tuyên bố thoái vị ngày 25/8, cũng ngày này, VM và các tổ chức khác cướp chính quyền ở SG (lãnh đạo cướp chính quyền ở Nam Kỳ không phải chỉ có VM). Ngày 2/9, nước VNDCCH ra đời, đánh dấu bởi sự kiện ông HCM đọc tuyên ngôn độc lập tại quảng trường Ba Đình, thành lập CP Lâm thời VNDCCH.
Bản chất CM tháng 8 là VM cướp chính quyền, việc vua Bảo Đại thoái vị đương nhiên không phải hoàn toàn tự nguyện cho dù trong chiếu Thoái vị có câu "Trẫm muốn được làm Dân một nước tự do, hơn làm Vua một nước bị trị".
Trước đó, CP TTK đã có 1 số cuộc gặp gỡ với đại diện của VM để thuyết phục họ gia nhập CP, nhưng VM từ chối, quyết tâm làm CM.
Như vậy, nói VM có chính danh (quân chủ) do được Bảo Đại trao ấn kiếm (tức nhường quyền lực) là mị dân.
Vì lẽ đó, VM mới tổ chức bầu cử phổ thông để dành lấy chính danh dân chủ. Nhưng cuộc bầu cử QH khóa 1 bị các đảng phái quốc gia như Việt Quốc, Việt Cách tẩy chay không tham gia. Bầu cử diễn ra chỉ gồm VM và các thành phần thân VM, không có đảng đối lập và do VM tổ chức (vừa đá bóng vừa thổi còi). Hơn nữa, lúc đó có 95% dân VN là mù chữ (số liệu của đảng), nên hầu hết người dân đi bầu phải có sự "trợ giúp" của cán bộ VM. Điều đó dẫn đến CT HCM trúng cử với tỷ lệ 98,4%! Tỷ lệ này không bao giờ có với bất kỳ cuộc bầu cử dân chủ nào trên thế giới. Vua Bảo Đại, lúc đó là cố vấn Vĩnh Thụy, không trực tiếp ứng cử, không vận động tranh cử, cũng chẳng bầu cử nhưng vẫn trúng cử đại biểu QH khóa 1!
Như trên đã viết, đến năm 1944, ở Pháp mới có phổ thông đầu phiếu, nhưng ở VN năm 1945 cũng có phổ thông đầu phiếu. Trong khi dân trí Pháp chắc hơn VN cỡ 100 năm có lẻ. Vì thế nên bầu cử phổ thông cho MỌI THÀNH PHẦN người dân năm 1946 chỉ mang tính mị dân, vì đa số dân có biết gì đâu mà bầu? Đến chữ còn chả biết thì bầu gì?
Như vậy, nói VNDCCH có chính danh dân chủ thì cũng không chính xác. Kể từ năm 1946 đến nay nước VN CS chưa từng có 1 cuộc bầu cử dân chủ thực sự nào, vì toàn là độc diễn, không có đối lập, vừa đá bóng vừa thổi còi với cánh tay nối dài là Mặt trận TQ (chính là hậu thân của Mặt trận Việt Minh rồi Mặt trận Liên Việt).
Chính danh của Quốc gia VN
VNDCCH chỉ mới cướp chính quyền được có gần 1 tháng ở SG, thì quân Anh đem theo quân Pháp quay lại giải giáp quân Nhật ở Đông Dương theo thỏa thuận của các nước đồng minh. Ngày 23/9, Pháp nổ súng chống lại Lâm ủy Nam Bộ, sau khoảng 1 tháng thì giành lại chính quyền ở các tỉnh Nam Bộ. Quân kháng chiến (VM và các phe phái không CS) rút vào rừng và nông thôn tổ chức kháng chiến.
Về lý thì quân đội đồng minh giải giáp Nhật mới là kẻ nắm chính quyền tại nơi giải giáp. Vì họ mới là những người khiến Nhật đầu hàng. Điều này diễn ra ở khắp các nước thuộc địa Nhật như Triều Tiên, Mãn Châu quốc, Ấn Độ, Myanmar...
Ở miền Bắc thì quân Tưởng có trách nhiệm giải giáp Nhật. Họ đem theo các thành viên đảng Việt Quốc, Việt Cách đang hoạt động ở TQ. 2 tướng của quân Tưởng là Tiêu Văn (có quen thân với ông HCM từ khi còn ở TQ), Lư Hán dàn xếp để VM chấp nhận 2 đảng này có 70 ghế ở QH mà không qua bầu cử. VM tổ chức tuần lễ vàng để có vàng đút lót 2 viên tướng này. Vì thế mà CP VNDCCH được quân Tưởng chấp nhận cho tồn tại với điều kiện là mở rộng thành phần cho phe QG. Lãnh tụ Nguyễn Hải Thần của Việt Cách được làm Phó CT Chính phủ. Lãnh tụ Việt Quốc là Nguyễn Tường Tam được làm Bộ trưởng Ngoại giao.
Ngày 28/2/1946, Pháp ký hiệp định Trùng Khánh với Tưởng, trao trả cho TQ thuộc địa Quảng châu loan và đường sắt Côn Minh. Đổi lại, Tưởng nhường cho Pháp quyền ra Bắc giải giáp Nhật.
Ngày 6/3/1946, đại diện của Pháp là Sainteny ký với CT HCM hiệp định Sơ bộ có nội dung đại khái là VN sẽ là 1 nước tự do (không phải là độc lập - DQC) trong LB Đông Dương thuộc Liên hiệp Pháp. Nam Kỳ sẽ sát nhập vào phần còn lại qua 1 cuộc trưng cầu dân ý và 1 số điều khoản cho phép quân Pháp ra Bắc giải giáp Nhật và lộ trình rút quân Pháp sau đó.
Phía VN CS cho rằng bản hiệp định này chính là sự công nhận của Pháp với CP VNDCCH. Nhưng cần hiểu rõ là Sainteny lúc đó chỉ có quyền hạn tương đương với Thống sứ Bắc Kỳ, mà ký Hiệp định với HCM. Có nghĩa là Pháp chỉ coi ông HCM ngang hàng với 1 Thống sứ lúc đó gọi là Ủy viên Cộng hòa, dưới Toàn quyền (lúc đó gọi là cao ủy). Hiệp định này lại bị phe Quốc gia cho là hiệp định bán nước của VM cho Pháp. Nhưng ý đồ của VM là lợi dụng việc quân Tưởng rút để đàn áp phe đối lập thân Tưởng và điều đó đã xảy ra khiến các thành viên đối lập trong CP phải bỏ trốn hoặc bị VM bắt/ám sát.
2 hội nghị tiếp theo là Hội nghị Đà Lạt và Fontainebleau bị đổ vỡ do VNDCCH đòi phải có độc lập và thống nhất (đòi Nam Kỳ), tất nhiên Pháp không chịu. Ông HCM phải ký với Bộ trường Bộ thuộc địa Pháp là Moutet bản Tạm ước 14/9 có nội dung gần giống với Hiệp định Sơ bộ 6/3, chủ yếu để câu giờ cho chiến tranh.
Ngày 19/12, VM nổ súng tấn công quân Pháp ở HN, do Pháp đòi giải giáp VM, chiến tranh nổ ra. Một năm sau, Pháp thấy không thể đàm phán hòa bình với VNDCCH nên đã nghĩ đến giải pháp khác để có 1 chính quyền của người bản xứ ở VN, do CP VNDCCH đã bỏ chạy vào chiến khu.
Cao ủy Pháp Bollaert và các phe nhóm Quốc gia không CS sang Hongkong thuyết phục cựu hoàng Bảo Đại quay lại chấp chính. Bởi vì trong giai đoạn đó, tính chính danh quân chủ đang là hợp lý nhất. Không thể có 1 cuộc bầu cử dân chủ trong hoàn cảnh chiến tranh và với dân trí 1 nước vừa thoát khỏi phong kiến. Trước đó De Gaulle đã tính đến giải pháp Duy Tân quay lại, nhưng ông này bị tai nạn máy bay chết.
Vua Bảo Đại là 1 người có học thức, hiền lành, không gây thù chuốc oán với phe nào, lại thoái vị dưới sức ép của VM. Vì thế khi ông quay lại làm Quốc trưởng QGVN thì vẫn có được chính danh quân chủ. Hơn nữa, QGVN có mô hình gần giống Đế quốc VN, tức là 1 chính thể nửa quân chủ chuyên chế nửa quân chủ lập hiến phôi thai, có chính phủ kiểu hiện đại nhưng chưa có quốc hội và hiến pháp. Tức là QGVN cũng có mầm mống của chính danh dân chủ.
Ngày 8/3/1949, với HĐ Elysee Bảo Đại ký với TT Pháp Aurion, như giữa 2 nguyên thủ, đánh dấu sự hình thành của QGVN, cùng với việc Nam Kỳ được sát nhập vào phần còn lại. Xem chi tiết ở stt về Quốc gia VN.
Đến đầu năm 1950, có hơn 20 nước phương Tây công nhận QGVN, cùng thời điểm đó VNDCCH mới được các nước XHCN công nhận, trước đó thì không được nước nào công nhận. Vì vậy, về sự công nhận quốc tế thì QGVN và VNDCCH là tương đương nhau.
Tại hội nghị San Francisco 1951, Thủ tướng Trần Văn Hữu của QGVN tuyên bố chủ quyền 2 quần đảo HS và TS. Lúc đó CP VNDCCH vẫn ở trên rừng.
Hiệp định Geneva chia VN bằng vĩ tuyến 17, phía Nam do QGVN quản lý, bao gồm cả HS và TS. Phía bắc do VNDCCH quản lý.
Chính danh của đệ nhất VNCH
Ngày 23/10/1955, Thủ tướng Ngô Đình Diệm của QGVN tổ chức bỏ phiếu phế truất Bảo Đại. Ông Diệm dành thắng lợi với số phiếu là 98,2%, vẫn kém ông Hồ 0,2%, nhưng bị cho là gian lận!
Ngày 26/10/1955 khai sinh nước VNCH theo thể chế CH với hiến ước tạm thời.
Tháng 3 năm 1956, VNCH tổ chức bầu cử quốc hội lập hiến và ban hành hiến pháp. Như vậy là VNCH là kế thừa của QG VN và có chính danh dân chủ do có bầu cử dân chủ, có hiến pháp và quốc hội.
Chính danh của đệ nhị VNCH
Tháng 9 và tháng 10/1967, sau gần 4 năm hỗn loạn sau đảo chính ông lật đổ đệ nhất CH, VNCH đã tổ chức bầu cử cả Tổng thống và QH lưỡng viện 1 cách dân chủ.
Như vậy đệ nhị VNCH kế thừa đệ nhất VNCH và có chính danh dân chủ. Tính chính danh này còn thể hiện ở việc VNCH đã tham gia nhiều tổ chức quốc tế, được hầu hết các nước phương Tây công nhận và là 1 bên ký HĐ Paris cùng với VNDCCH.
Vai trò của tính chính danh của chế độ cũ với việc đòi lại HS và TS với TQ
Mấy hôm trước, TQ đã có công hàm gửi LHQ tố cáo VN tranh chấp chủ quyền 2 quần đảo HS và TS. Trong đó, TQ đưa ra luận cứ mạnh mẽ nhất chính là công hàm Phạm Văn Đồng năm 1958, đã công nhận chủ quyền 2 quần đảo và hải phận 12 hải lý quanh đó là thuộc về TQ.
VN chỉ có thể từ chối sự hợp pháp của công hàm Phạm Văn Đồng bằng cách công nhận sự hợp pháp của QGVN. Vì lúc đó QGVN đang quản lý hợp pháp 2 quần đảo này và cũng đã tuyên bố chủ quyền trước đó.
VNCH là kế thừa hợp pháp của QGVN nên cũng nắm chủ quyền 2 quần đảo. CP Lâm thời CH MN VN nhận đầu hàng từ VNCH nên cũng kế thừa chủ quyền 2 quần đảo vào năm 1975. Năm 1976, CH XHCN VN được thành lập nhờ sự sát nhập của CH MN VN và VNDCCH, do đó cũng kế thừa chủ quyền 2 quần đảo.
Vì thế, CH XHCN VN chỉ có thể có căn cứ pháp lý để đòi lại HS TS từ TQ nếu công nhận tính hợp pháp của QG VN và VNCH. CP VN cần khẩn cấp công nhận chính thức 2 chế độ cũ, tuyệt đối không được dùng khái niệm Ngụy quyền. Vì điều đó phủ nhận tính chính danh của chế độ cũ, đồng nghĩa với VNDCCH đã có chủ quyền HS và TS, có nghĩa là công hàm PVĐ chính là văn bản bán nước.
Stt về tính pháp lý khi đòi HS và TS:
Công hàm của TQ về HS và TS
Stt về QG VN
Dương Quốc Chính

CHÌA KHÓA HỌC NÂNG CAO CON NGƯỜI LÀ: NÓI

 CHÌA KHÓA HỌC NÂNG CAO CON NGƯỜI LÀ: NÓI

( Nói là xương sống hạt nhân cơ bản của văn hóa con người)
Paul Nguyễn Hoàng Đức
*****
Vừa rồi Pháp là một trong vài chiếc nôi văn minh châu Âu và thế giới có tiến hành cải cách giáo dục với vài điều chính:
1- Không cho học sinh đem điện thoại đến trường: vì các em sẽ sao nhãng việc liên kết bạn bè, cá nhân và tập thể.
2- Dạy nói, hùng biện và đối thoại: để học trò học biết văn hóa đối thoại trao đổi lẫn nhau cũng như đưa ra thông điệp của mình.
3- Hát đồng ca: để tạo ra hiệu ứng tập thể và xã hội…
Ở đây, tôi xin bàn đến điểm chính là NÓI.
Nói tức là ngôn ngữ. Song song với nó cũng là chữ viết. Tóm lại: Nói là chữ viết không mực được thực hiện bằng miệng. Còn Chữ Viết là Nói bằng mực được thực hiện bằng tay (vì thế chúng ta sẽ không quá tách dời nói và viết).
Triết gia tổ phụ Aristote nói: “Trong việc học mọi ngành nghề, thì học chữ vẫn là lâu nhất!” Tại sao vậy? Vì học chữ tức là xây dựng chữ nghĩa, tư duy, lý thuyết và học thuyết để từ đó dẫn dắt những hành động chuyên ngành của mình. Vì công thức của mọi thành công ở đời mà người phương Tây rút ra là: 1- nắm vững lý thuyết, 2- thực hiện thành thục. Thời trước, các bác sĩ của Việt Nam muốn giỏi tay nghề, thì hiển nhiên phải giỏi tiếng Pháp. Xa hơn nữa các thầy thuốc Đông y giỏi thì phải thạo tiếng Tàu.
Triết gia tổ phụ Platon cũng nói: “Con người tư duy bằng ngôn ngữ, vì khi tư duy, người ta đặt câu hỏi rồi trả lời trong não, đều là ngôn ngữ cả”. Và Platon chính thức đặt ngôn ngữ lên cao nhất trong các môn khoa học. Ông nói: Chỉ có Biện chứng pháp (Biện là Nói. Biện Chứng pháp là cách Nói) mới bàn định được về thiện – ác, rồi đạo đức của con người. Trong khi đó, đạo đức với con người là cao nhất, thì biện chứng pháp cũng là cao nhất!
Người Việt cũng nghĩ nhiều về ngôn ngữ. Chẳng hạn coi thường đám ăn nói ú ớ bất tài “ăn không nên đọi, nói không nên lời”, rồi “Khôn ngoan đến cửa quan mới biết!” nghĩa là ra cửa quan là nơi công đường, người ta phải ăn nói, trình bày cho cho quan phủ có học nghe, nên lộ ra ngay tài ăn nói. Và: “Miệng kẻ sang có gang có thép, đồ kẻ khó vừa nhọ vừa thâm”, có nghĩa: với người có học, biết nói năng đàng hoàng đĩnh đạc, thì họ mang sức mạnh như gang thép, còn thứ vớ vẩn thì nhìn xấu xí… Người Việt cũng xác định: “Học ăn, học Nói” là tiêu chí đầu tiên của con người.
Triết gia Platon cũng khẳng định Biện chứng pháp là khoa học (dường như thuần khiết) duy nhất nhưng cao nhất của con người. Trong tất cả các môn khoa học, thì ngay cả việc chứng minh các phát minh hay công thức, người ta đều phải Nói, phải dựa trên logic – cũng tức là nói để biện giải hay minh định có lý: tại sao lại là như vậy.
Việc người Pháp đề cao dạy trẻ con Nói và đối thoại, nghĩa là trau dồi cho các trò kỹ năng trực tiếp làm người. Ở đó các trò xây dựng văn hóa đối thoại, nhường và nghe nhau nói để tìm ra cái Lý của mọi việc. Trong khi đó người châu Á xưa nay chẳng bao giờ dạy người ta ăn nói, trình bày hay đối thoại. Đối thoại nghĩa là phải: có người nói, có người nghe. Á Đông thường để các cụ già nói trước, cha chú rồi thủ trưởng thường cậy tuổi, cậy quyền ăn nói hiếp đáp kẻ dưới, chẳng hạn thường bảo “ngươi tuổi gì mà nói” hay “còn chưa đến lượt ngươi”… Còn nhiều loại chém gió huyên thuyên bát sát, tranh nói cả buổi mà chẳng có ý tưởng nào. Người Việt cũng có một thói xấu là: “Được ăn, được nói, được gói mang về”. Cái gì cũng chia đều, khi gặp mặt nhau, không chỉ tranh ăn, còn tranh nói… coi như tôi có suất được nói giống mọi người được ăn, thế là trong đầu chẳng có ý tưởng gì cũng nói lấy được. Nói để che lấp cái khôn ngoan của người khác bằng sự huyên thuyên của mình. Vì thế người Pháp dạy các trò nói và văn hóa đối thoại là hết sức cần thiết. Ở đó trẻ em vừa xây dựng lý trí khả lý, lại vừa làm quen với chia sẻ cộng đồng, đó cũng là óc dân chủ biết tôn trọng ý kiến của người khác.
Người Việt rất đề cao ngôn ngữ trong câu ca dao:
Trăm năm bia đá thì mòn
Nghìn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ
Còn người Ả Rập thì xác tín mạnh mẽ qua châm ngôn: “Mực của học giả còn quí hơn máu kẻ tử đạo”. Việt Nam chúng ta hiện nay, hình như chưa có bộ môn dạy trẻ con Nói, hùng biện… cũng có nghĩa chúng ta chưa dạy học trò làm người căn bản cũng như người vươn đến đỉnh cao. Từ triết lý của các triết gia cũng như Pháp là quốc gia văn minh, tôi viết bài này để nhắc nhở rằng: Chúng ta còn chưa dạy môn khoa học đích thực cao nhất là Nói – Hùng biện – cũng là Biện chứng pháp cho học trò. Nếu không biết nói năng chững chạc, đĩnh đạc, thì các thảo dân của chúng ta sao có thể gột bỏ những xó máy cóc cáy để trở thành ông chủ - công dân lập hiến tầm cao?!
Paul Đức 18/10/2021

BỘ TRƯỞNG NGUYỄN ĐÌNH LỘC

 BỘ TRƯỞNG NGUYỄN ĐÌNH LỘC

Kế hoạch hôm nay đi thăm cựu Bộ trưởng Nguyễn Đình Lộc không thực hiện được. Tôi ngồi nhà viết tản mạn vài câu chuyện vặt về Ông. Xin post lên đây, ai thích thì đọc nhé.
1/ Một Bộ trưởng khác người
Đầu năm 1993 chúng tôi trở về nước từ Liên Xô (cũ). Lúc này Thầy Lộc đã về làm Bộ trưởng Bộ Tư pháp được hai năm. Về cái sự làm Bộ trưởng của Thầy Lộc cũng khá thú vị. Tôi có cái may mắn được chứng kiến “hiện tượng lạ” của Ngành Tư pháp suốt 20 năm: Hai đời bộ trưởng liền nhau không là “trung ủy”. Mặc dầu vậy, tôi và hầu hết mọi người trong giới luật gia Việt Nam rất mừng vì Đảng và Nhà nước ta đã chọn đúng hiền tài để góp phần đắc lực cho sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền trong thời kỳ đổi mới. Tôi nghe kể rằng trước khi được “đưa về” làm Bộ trưởng Tư pháp, Thầy Lộc vẫn chưa biết gì cả. Trong một lần Thầy giảng bài ở đâu đó, có người hỏi: Có phải Thầy sắp về làm Bộ trưởng Tư pháp không? Thầy trả lời rằng không biết!. Về sau, trong một lần mấy người ngồi uống bia hơi với Bộ trưởng Lộc, vui mồm hỏi rằng “Anh lên bộ trưởng có phải mất gì không?”. Trả lời: Nói thật là tớ chẳng mất một điếu thuốc!. Sau này có lãnh đạo nghe được câu nói đó đã rất khó chịu với Bộ trưởng Lộc. Thì ra ở đời còn có một thứ “bất công” khác mà chỉ người trong cuộc mới biết: Cùng chức bộ trưởng như nhau nhưng có người phải mất tiền, có người “không mất một điếu thuốc” là sao?. Nếu như ở thời buổi hiện nay thì “hiện tượng” này chỉ có thể xảy ra đối với các “hoàng tử đỏ” - những người đem lại “hồng phúc cho dân tộc” mà thôi. Không chỉ có thế, khi hết nhiệm kỳ thứ nhất có kẻ rắp tâm chiếm bằng được chiếc ghế Bộ trưởng của Ông,mọi việc tưởng chừng như đã an bài và kẻ đó đã mở tiệc ăn mừng, cắt đặt nhân sự ... vậy mà đến “phút tám chín” cấp trên vẫn quyết Ông Nguyễn Đình Lộc làm tiếp nhiệm kỳ Bộ trưởng thứ hai. Thế là “Kẻ đảo chính” mất cả chì lẫn chài, ra đi trong nhục nhã.
2/ Một Bộ trưởng khắt khe, cần mẫn trong công việc
Không chỉ tôi mà hầu hết anh em cấp vụ dưới thời Bộ trưởng Lộc đều có chung nhận xét rằng làm việc với Ông rất mệt nhưng trưởng thành lên rất nhanh, đặc biệt là trong lĩnh vực xây dựng pháp luật. Không chỉ là người có trí tuệ uyên bác mà còn là một cây viết luật rất chuyên nghiệp nên ông đòi hỏi mọi người rất khắt khe. Có một lần, từ cuộc họp Chính phủ về, Ông cho gọi một vị Vụ trưởng lên làm việc ngay giữa ban trưa. Ông mang cái Dự thảo nghị định ra cùng trao đổi với vị Vụ trưởng về một vài chỗ câu , từ còn “chưa ổn” rồi Ông cầm bút để chỉnh sửa. Vị Vụ trưởng phần muốn để cho Ông có thời gian nghỉ trưa, phần cho rằng đó là việc của chính mình nên buột miệng: Thôi ! Anh nghỉ đi ! Việc này là của em. Ông dừng bút, nhìn vị Vụ trưởng rồi nói:
Việc của cậu nhưng tớ là người chịu trách nhiệm trực tiếp trước Chính phủ và Thủ tướng nha!. Nói xong Ông vừa cười vừa viết tiếp.
Một lần, sau buổi họp giao ban cấp vụ kết thúc lúc 5 giờ chiều, Ông vội vàng ôm áo, xách cặp chạy ra xe đang nổ máy chờ sẵn. Thấy tôi Ông bảo: - Tớ đi Quảng Bình đây!. Bác định đi cả đêm sao? - Tôi hỏi. Ông trả lời tỉnh bơ: - Vào Thanh Hoá ăn tối rồi đi luôn để kịp sáng mai làm việc.
3/ Bộ trưởng phát biểu không cần giấy
Để ý qua các cuộc họp giao ban khi đến phần kết luận của Bộ trưởng chẳng bao giờ thấy Ông cầm đến giấy tờ, sổ sách gì cả. Mọi người bảo Ông là “nói vo”. Ông nói vo nhưng rành rọt từng vấn đề, từng ý tứ và không bao giờ Ông quên những điều mình đã kết luận. Việc thể hiện thành giấy trắng, mực đen là việc của Thư ký.
Ngay cả Hội nghị tổng kết công tác của Ngành Tư pháp, khi phát biểu kết luận Ông cũng chẳng mấy khi nhìn vào Bản đánh máy đã được Tổ thư ký chuẩn bị công phu. Ông cứ đứng vậy, mắt nhìn thẳng xuống Hội trường, miệng nói mà như đọc. Đôi khi cần nhấn mạnh vấn đề nào đó trong Kết luận của mình thì Ông dừng lại vài giây rồi nói: “Chỗ này tôi xin nhấn mạnh một chút...” hoặc “Chỗ này tôi xin mở rộng ý một chút...” rồi Ông lại tiếp tục nói rành rọt, suôn sẻ như đọc. Một lần trong Hội nghị tổng kết ngành, khi giải đáp những vướng mắc của các địa phương, sau khi nêu một câu hỏi của địa phương nào đó, Ông dừng lại một chút rồi nói: “Vấn đề này tôi còn nhớ trong Hội nghị lần trước tôi đã giải đáp như thế này ...”. Lúc ấy, ngồi cạnh tôi là một vị Giám đốc Sở bèn lắc đầu “ Chịu Cụ thôi ! Nhớ dai thế !”.
4/ Bộ trưởng ham đọc sách
Còn nhớ hồi đầu 1993, tôi và Lê Mạnh Luân (sau này là Phó Ban Nội chính Trung ương, Đại sứ Việt Nam tại Taskent) vừa từ Liên Xô (cũ ) về nước đến thăm Thầy tại Bộ Tư pháp. Khi đến cổng Bộ mới nhớ ra và hỏi nhau có quà gì tặng Thầy không?. Luân mở cặp ra thì có chiếc cà vạt, tôi thì có quyển sách. Hai thằng cười bảo: Đúng “gu” của Thầy rồi. Khi gặp thầy, sau “màn chào hỏi” và chúc mừng thì Bộ trưởng hỏi độp ngay một câu: Các cậu vừa bên đó về có mang theo được nhiều sách không? Tôi vội vàng mở cặp lấy ra quyển sách tiếng Nga nói về Stalin để giới thiệu với Thầy. Ông cầm xem tên và bìa quyển sách rồi bảo: Cho tớ mượn nhé! Chiều mai tớ đi Pháp, lên máy bay tớ đọc. Ông còn nói thêm: Tớ mượn thôi! Tớ không xin đâu!.
Sau này tôi có lệ cứ chừng 27 - 28 Tết âm lịch là đến chúc Tết Thầy và kèm theo quà là một quyển sách và một chai rượu vang để Thầy thư giãn trong những ngày nghỉ Tết. Sách thì tôi nhờ Nhà văn Đoàn Tử Huyến, bạn thân của tôi chọn cho trong số những quyển sách văn học nổi tiếng nhất thế giới của năm đó. Nếu là Tác phẩm đoạt Giải Nobel thì càng tốt. Có lần tôi mang tặng Ông mấy tập “Lịch sử Trung Quốc 5000 năm”. Đó là những tập sách kể về lịch sử Trung Quốc thông qua các câu chuyện lịch sử nổi tiếng có thật. Ông xem lướt qua rồi hỏi tôi: - Thất đã đi Trung Quốc chưa nhỉ?. Tôi nói vui rằng đi chính thức theo Đoàn công tác thì chưa nhưng đi du lịch sang vùng giáp biên ngồi nhậu với mấy ông Tầu trong chợ thì nhiều rồi.
Ông trầm ngâm một lúc rồi bảo tôi: Vậy là tốt! Mình không thể học theo cách của Trung Quốc được đâu! Họ là đất nước một tỷ tư dân cơ mà!. Sau này tôi hiểu thâm ý của Ông mà không tiện nói ra đây. Nhưng qua đợt dịch Covid 19 cùng với cách xử lý của Chính quyền
Trung Quốc tôi càng hiểu sâu thêm cái ý của Ông.
5/ Niềm vui nhân đôi
Đó là khoảng cuối năm 1999. Chỉ nhớ hồi ấy xảy ra một trận lụt rất lớn ở Thừa Thiên - Huế và Đà Nẵng. Sau lụt thì phong trào ủng hộ đồng bào vùng lũ lụt rầm rộ khắp cả nước. Một hôm, tôi được Văn phòng báo cho biết là có khách nước ngoài xin gặp. Theo quy định của Bộ thì tiếp khách nước ngoài phải có ít nhất hai người. Tôi cùng cô Thu Hằng (chuyên viên) xuống tiếp. Khách là ông Phạm Bá Ngà, Việt kiều ở Pháp về cùng Đoàn cứu trợ của “Hội hạt gạo Việt Nam”. Nhân thể ông Ngà muốn nhận một đứa trẻ Việt Nam làm con nuôi nên Ông muốn nhờ Bộ Tư pháp hỗ trợ. Tôi thấy việc ông Ngà trình bày là phù hợp với pháp luật nên hứa là sẽ có công văn cho địa phương. Kết thúc tiếp khách Ô Ngà tặng tôi một túi quà. Tôi nói với Ông: Tôi là công chức nhà nước, lại là công chức Bộ Tư pháp trong khi Pháp lệnh cán bộ công chức (hồi ấy chưa có Luật) không cho phép chúng tôi nhận quà biếu. Ô Ngà nói: Đây là quà của Ông tặng tôi với tư cách cá nhân. Tôi bảo: Nhưng lúc này tôi đang thi hành công vụ nên không thể nói là cá nhân được. Ông ấy lại bảo tôi là hãy bước ra bên ngoài cổng Bộ (25A Cát Linh) để nhận quà với tư cách cá nhân. Tôi bảo: Bây giờ đang trong giờ hành chính, tôi không thể ra ngoài cổng nếu không phải là thi hành công vụ. Ông Ngà đuối lý đứng thẫn thờ rồi Ông nói thật rằng: Khi ông ở Pháp về, nhiều bạn bè khuyên Ông rằng về Việt Nam đến bất kỳ cơ quan hành chính nào cũng phải có quà thì mới được việc; nay tôi không nhận quà thì có nghĩa là tôi sẽ không giải quyết việc cho Ông. Tôi thấy Ông tội nghiệp quá nên bảo Ông mở túi quà ra để tôi chọn một món quà nhỏ nhất. Ông Ngà mở túi ra tôi thấy có một gói kẹo. Tôi bảo tôi xin gói kẹo này và đem cho cô Thu Hằng mang lên chia cho mọi người. Thế là vui vẻ hai bên chủ - khách. Khi cô Hằng mang gói kẹo lên Vụ mở ra thì hoá ra không phải là kẹo mà là một hộp xì gà. Thế là mỗi anh em nam giới được chia một điếu. Chừng dăm ngày sau, buổi sáng đến Cơ quan, tôi gặp Bộ trưởng Lộc tại sảnh. Ông bảo tôi ghé qua phòng Ông ở tầng hai có chút việc. Tôi theo Ông vào phòng, sau khi Ông tự tay rót trà mà chị phục vụ đã pha sẵn, đưa tận tay cho tôi. Tôi thấy cử chỉ của Ông hơi “lạ” nhưng không dám hỏi. Sau khi tôi nhấp ngụm trà, Ông cất giọng: Vừa rồi Thất có tiếp Ông Phạm Bá Ngà phải không? Tôi trả lời là có tiếp và nhân đó báo cáo Ông về công việc của Ông Ngà nhưng Bộ trưởng cắt ngang lời tôi và bảo: Tôi biết rồi! Ông Ngà đã nói với tôi. Nhưng hôm nay tôi gọi Thất vào đây là để cám ơn Thất vì đã xử sự rất tốt nên Bộ trưởng cũng được thơm lây. Ông ấy (tức Ông Ngà) đã cám ơn tôi vì có những cấp dưới tuyệt vời. Nói ra những lời ấy tôi thấy nét mặt của Bộ trưởng rất xúc động. Tôi hiểu Ông đang mơ gì về một nền công vụ./.
Trần Thất
Nguyên Vụ trưởng, Bộ Tư pháp