Thứ Ba, 21 tháng 4, 2020

DÂN CHỦ: VẤN ĐỀ CỦA DÂN TỘC VÀ THỜI ĐẠI


DÂN CHỦ: VẤN ĐỀ CỦA DÂN TỘC VÀ THỜI ĐẠI
Trần Khuê - Nguyễn Thị Thanh Xuân

Người ta hay nhầm yếu tố dân chủ với thể chế dân chủ. Trong những xã hội phát triển thấp kém như xã hội nô lệ, xã hội phong kiến, những người lao động bị bóc lột, bị chà đạp, họ bị tước hết quyền làm người, quyền sống. <!--more-->Tuy nhiên, người ta cũng hiểu rằng sống trong xã hội nô lệ thì khổ thật, vì người nô lệ chỉ được coi là công cụ biết nói nhưng vẫn sướng hơn thời nguyên thủy. Chế độ phong kiến thì chuyên quyền độc đoán, tô tức nặng nề, bị đánh đập chém giết tàn bạo nhưng rõ ràng con người vẫn sướng hơn ở chế độ nô lệ.
Sống trong những xã hội có giai cấp, người lao động vẫn tiếp tục đau khổ nhưng rõ ràng mức đau khổ giảm dần. Cho nên trước đây người ta hay ngoái lại quá khứ, mơ ước sống đời Nghiêu Thuấn mà quên mất rằng đó là thời kỳ thị tộc, làm không đủ ăn, đói đến mức có khi phải ăn thịt lẫn nhau. Đúng là những mơ ước hão huyền.
Tức nước thì vỡ bờ. Khi bị áp bức bóc lột quá đáng thì người ta phải chống, nên chủ nô hay chúa đất cũng phải nới tay, trả cho người lao động những quyền tối thiểu. Điều này có lợi cho người lao động, đồng thời cũng lợi cho cả chủ nô và chúa đất. Khi nào được dễ chịu, người ta cảm thấy đã được ít nhiều chủ động trong cuộc sống, thế là coi như đã được hưởng dân chủ.
Trở lại nghĩa gốc của từ dân chủ ở tiếng Hy Lạp "đê-môt" là nhân dân, "kratôt" là sức mạnh, thế lực. Sức mạnh, thế lực của nhân dân.
Nhưng tất cả những quyền đó phải đợi đến sau cách mạng tư sản mới được thể chế hóa thành một chế độ dân chủ hẳn hoi. Chế độ dân chủ tư sản với nhiều điều hạn chế, tuy chưa làm chúng ta hài lòng nhưng vẫn phải xác nhận rằng nó tốt đẹp, tiến một bước rất cơ bản so với chế độ phong kiến độc tài chuyên chế. Nhắc lại sơ qua như thế để thấy rằng không nên khinh thường, bỉ báng dân chủ tư sản và rõ ràng với tư cách của những người hiểu biết không thể bỉ báng những thành tựu của nhân loại. Ngay xã hội tư bản nào mà giai cấp thống trị còn luyến tiếc thiết chế phong kiến cũng không dám tuyên bố mình là nước quân chủ mà phải thêm hai chữ lập hiến. Có thể cứ giữ lại quốc vương hoặc nữ hoàng nhưng quyền lực thì không được ra khỏi hiến pháp đã qui định. Vua hay nữ hoàng cũng không có quyền vi phạm hiến pháp. Cùng là chế độ tư bản cả thôi, nhưng chế độ cộng hòa cao hơn và tốt hơn chế độ quân chủ lập hiến. Ít nhất là nó cũng không phải nuôi nợ cái đám hoàng tộc vô tích sự, lắm chuyện. Xem như thế mới thấy hiến pháp quan trọng như thế nào vì nó là thước đo trình độ tiến bộ của từng xã hội.
Bác Hồ và Đảng ta ý thức được tầm quan trọng của hiến pháp cho nên ngay sau khi giành được chính quyền và tuyên ngôn độc lập, đã khẩn trương tổ chức Tổng tuyển cử, bầu ra Quốc hội và thông qua Hiến pháp Dân chủ Cộng hòa. Trên thế giới này không biết có nước nào như Việt Nam, như Nam Bộ, đồng bào ta đi bỏ phiếu dưới làn đạn quân thù, có những nơi máu đổ ngay trên hòm phiếu. Lòng khát khao dân chủ tự do của toàn dân ta cao như thế đó và sẵn sàng trả giá đắt như thế đó. Chớ quên rằng 30 năm đổ xương máu, 30 năm mặt đối mặt với kẻ thù của đồng bào Nam bộ, của toàn thể nhân dân Việt Nam chính là để bảo vệ bản Hiến pháp này, bảo vệ những quyền tự do thiêng liêng đã được ghi trên Hiến pháp. Hồ Chí Minh thực sự là vĩ đại, xứng đáng tiêu biểu cho DẤN TỘC và ĐẢNG LAO ĐỘNG vì Người là cha đẻ của Nhà nước Dân chủ đầu tiên ở Việt Nam và ở Đông Nam Á này. Trong lịch sử nước nhà có 4 mốc quan trọng nhất :
Mốc quan trọng thứ nhất : đó là thời điểm Đức Tổ Hùng Vương tạo lập nên nhà nước Văn Lang - nhà nước đầu tiên ở Việt Nam. Chính nhờ có nhà nước Văn Lang với đầy đủ thiết chế kỷ cương, luật pháp mà ta rèn luyện được bản lĩnh Việt, đủ nội lực đề kháng để chống lại mọi cuộc xâm lăng quân sự và văn hóa bất kể từ phương nào tới. Chỉ cần nhớ rằng khi tộc Hán vốn là một dân tộc phát triển sớm và cực kỳ hùng mạnh, vượt Dương Tử Giang tràn xuống phương Nam (dấu tích đường xuống là Hán Khẩu hiện nay) thì Bách Việt rơi vào tình trạng hoảng loạn như thế nào. Có những tộc thì chạy sang các đảo phía Đông, có những tộc chạy xuống tận vùng đa đảo phương Nam (Mã Lai, Nam Dương v.v.) tộc nào không chạy kịp thì bị đồng hóa (Mân Việt, Dương Việt v.v.), chỉ còn Lạc Việt là trụ lại được và trụ vững mấy nghìn năm liền.
Xem qua thế đủ hiểu nghị lực sống và bản lĩnh Lạc Việt ra sao. Không phải ngẫu nhiên mà chúng ta có quyền kiêu hãnh nhìn ra thế giới với tư thế con Hồng, cháu Lạc !
- Mốc quan trọng thứ hai : đó là cái năm 939 Ngô Quyền cắm cọc trên sông Bạch Đằng đánh tan đạo quân Nam Hán do tướng Hoằng Thao chỉ huy đưa nước nhà thoát ách nô lệ ngàn năm Bắc thuộc xây nền móng cho một nhà nước độc lập, mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc, tạo ra một tiền đề trong tâm linh người Việt : bất chấp thời gian, bất chấp kẻ thù hùng mạnh, hãy vùng lên thẳng lưng mà làm người (do không nhận thức được tầm quan trọng của mốc lịch sử này nên Ban đổi tên đường ở TPHCM mới đặt Ngô Quyền vào con đường nhỏ, chưa kể lại còn đặt các cụ tổ Lạc Long Quân, Ấu Cơ vào đường nhỏ hơn cả đường Ngô Quyền).
- Mốc quan trọng thứ ba : Chỉ cần nhớ rằng ở thế kỷ XV vương triều Đại Minh là một vương triều chính thống cai trị một lãnh thổ rộng lớn và phát triển rực rỡ về nhiều phương diện. Thế mà bọn Trần Thiêm Bình thất thế còn ngu xuẩn rước lũ voi Minh về giày mả tổ khiến chúng đặt lên đầu lên cổ dân ta một ách thống trị tàn bạo chưa từng thấy : "Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn; Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ" (Bình Ngô đại cáo).
Thử hỏi nếu không có đầy đủ lòng tin vào ý chí quật khởi và tiềm năng văn hiến của dân tộc thì Lê Lợi, Nguyễn Trãi và những anh hùng đương thời có đủ gan phát động cuộc khởi nghĩa rồi cùng với nghĩa quân 10 năm trường nằm gai nếm mật, rồi tiến tới chém tướng Liễu Thăng và bắt sống toàn bộ đại quân của thiên triều phải hàng phục, đến nỗi khi được tha chết vẫn còn chưa hết sợ hãi :
Mã Kỳ, Phương Chính cấp cho 500 chiếc thuyền ra đến bể còn hồn bay phách lạc
Vương Thông, Mã Anh cấp cho vài ngàn cỗ ngựa về đến nước còn tim đập chân run
(Bình Ngô đại cáo)
Do đó nhà chí sĩ anh hùng Phan Bội Châu khi viết Việt Nam vong quốc sử đã đánh giá rất cao công cuộc khôi phục nước nhà của Bình Định Vương Lê Lợi và nghĩa quân Lam Sơn, nhằm khơi dậy ý chí quật khởi và niềm tin vào tiền đồ đất nước của 20 triệu đồng bào đang đắm chìm trong nô lệ, đau khổ.
- Mốc quan trọng thứ tư :
Đó là thời điểm Hồ Chí Minh cùng với 5000 đảng viên cộng sản lãnh đạo toàn dân giành lại nền độc lập cho đất nước sau 80 năm nô lệ và tiến hành hai cuộc kháng chiến thần thánh, đánh thắng hai đế quốc to, khẳng định vị thế vẻ vang của Việt Nam trên trường quốc tế. Về mốc lịch sử quan trọng này, chúng ta và con cháu sau này còn phải nghiên cứu dài dài mới hiểu hết tầm quan trọng của nó đối với dân tộc và thời đại. Ở đây, chúng tôi chỉ xin nêu một điểm khác biệt để tham khảo chung và để thấy bước phát triển quan trọng của 4000 năm dựng nước :
Đức tổ Hùng Vương có công lớn khai sáng nên nhà nước đầu tiên và đó là nhà nước của giai cấp quí tộc.
Còn Đức thánh Hồ Chí Minh khai sáng ra một nhà nước của nhân dân, do nhân dân làm chủ và có một hiến pháp dân chủ sánh ngang được với mọi bản hiến pháp trên thế giới. Nói thật rõ ràng điều này để mọi người cùng nhận thức ra con đường phát triển tất yếu của dân tộc, không ai được phép đảo ngược.
Cứ mở Hiến pháp năm 1946 sẽ rõ :
Chương I chỉ gồm 3 điều, 9 dòng mà đã nêu bật được toàn bộ tinh thần của thời đại Hồ Chí Minh :Điều thứ 1 : Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hòa. Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo.
Điều thứ 2 : Đất nước Việt Nam là một khối thống nhất. Trung, Nam, Bắc không thể phân chia.
Điều thứ 3 : Cờ của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa nền đỏ, giữa có sao vàng 5 cánh.
Quốc ca là bài Tiến quân ca.
Thủ đô đặt ở Hà Nội.
Những dòng chữ thiêng liêng như thế mà người ta dám vi phạm thì to gan thật.
Chúng tôi không muốn nói chuyện thay đổi quốc ca nữa. Đấy chỉ là một trò hão huyền không đáng nói đến, chỉ cần khẳng định rằng : bài TIẾN QUẤN CA thiêng liêng này không thể thay đổi, không được quyền thay đổi và vĩnh viễn không cần thay đổi.
Về quốc hiệu, chúng ta đã chót thay, cũng vẫn nên bàn bạc lại một cách nghiêm chỉnh. Nếu cơ sở kinh tế xã hội đã phát triển mà không thay cho phù hợp thì hoàn toàn không đúng. Ngay hiến pháp và các nghị quyết của Đảng gần đây nhất vẫn ghi nhận rằng Việt Nam đang quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Còn về cơ sở kinh tế, chúng ta đang cố gắng trở lại với Lênin, nghĩa là làm NEP, làm chủ nghĩa tư bản nhà nước. Và tất nhiên chúng ta phải chấp nhận sự bóc lột có giới hạn, chấp nhận khoảng cách giàu nghèo với quyền điều tiết một cách hợp lý của chúng ta. Chưa đáng thay mà lại thay, theo ý một vài đồng chí nào đó. Đúng là một chuyên vô duyên. Riêng chúng tôi, chúng tôi vẫn tin rằng Đảng ta vẫn phát huy được truyền thống dũng cảm : có sai thì sửa.
Một vấn đề nghiêm trọng khác đòi hỏi tất cả phải thảo luận một cách nghiêm túc là : "Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam". Dòng chữ đơn giản này đã thể hiện cái cốt lõi của tinh thần dân chủ. Và chính do Bác Hồ và Đảng ta đã thực thi mấy chục năm qua nên mới có thành tựu vĩ đại như ngày nay. Có những điều gần đây người ta hay nhấn mạnh là nghĩa vụ. Trước kia, đó là quyền cả đấy thôi. Làm gì có cái gọi là "nghĩa vụ quân sự". Chỉ có cái quyền là "quyền đi bộ đội Cụ Hồ". Đến nỗi không đủ cân thì giắt đá, giắt gạch vào người cho đủ cân để thực hiện cái quyền này. Người ta có quyền đóng thuế nông nghiệp, có quyền đi dân công Điện Biên Phủ. Trong vùng tạm chiếm miền Bắc và nhất là ở miền Nam thời chống Mỹ, người ta có quyền nuôi và cất giấu cán bộ, người ta có quyền đi B để sát cánh cùng đồng bào miền Nam chiến đấu, có quyền chịu tra tấn đánh đập và quyền chết để bảo vệ cán bộ Mặt trận giải phóng. Ai dám cưỡng bách người ta làm những chuyện đó ? Ai dám ngăn cản không cho người ta thực hiện những quyền đó. Sau hàng trăm năm nô lệ, người ta mới được hưởng cái quyền vùng dậy, quyền chết cho độc lập tự do, chết cho Dân Tộc và Tổ Quốc trường tồn. Lần giở lịch sử lại một chút, nhớ lại thời Cụ Hồ và chính phủ lâm thời. Cụ Hồ vừa mới từ Tân Trào về Hà Nội, cũng chưa kịp đi thăm đồng bào Trung Bộ hay Nam Bộ, nghĩa là cũng chưa có đủ thì giờ để giáo dục thuyết phục hoặc dân vận gì cả. Nhưng thử hỏi ai dám ngăn cản cái quyền ông bà Trịnh Văn Bô mang 1547 lượng vàng ra ủng hộ chính phủ Cụ Hồ, ông bà Huỳnh Thiện Lộc ở Nam Bộ cũng hiến hàng ngàn mẫu ruộng cho cách mạng và mang hàng ngàn lượng vàng để ủng hộ chính phủ Cụ Hồ. Cụ Hồ và Chính phủ lâm thời chỉ với hai bàn tay trắng thế mà chỉ trong có 1 tuần lễ vàng mà đã có khả năng tống khứ 15 vạn quân Tưởng về và đủ tiền mua vũ khí trang bị cho những đơn vị vệ quốc đoàn đầu tiên. Chưa kể hàng triệu thị dân tiểu tư sản tự đốt phá nhà mình để đi theo kháng chiến. Những người như Trịnh Văn Bô, Nguyễn Thiện Lộc, Nguyễn Thị Năm ....... và những nhà tư sản dân tộc, những địa chủ kháng chiến, họ có tiếc công tiếc của gì đâu. Đúng như Cụ Hồ đã nói : "Thấy người ta nói đấu tranh giai cấp thì mình cũng đấu tranh giai cấp". Thử hỏi trên đất Việt mình có giai cấp nào không mong cho Tổ quốc được độc lập tự do. Có người dân Việt nào dù ở Paris hay Luân Đôn, dù ở Úc Đại Lợi hay Canađa, California lại không nhớ đến Đức tổ Hùng Vương, lại không muốn thực hiện quyền đóng góp của mình để cho Việt Nam được rạng mặt rạng mày với thế giới (tất nhiên thời nào cũng phải trừ ra cái lũ phản bội Tổ quốc bán hồn cho quỉ).
Công bằng mà đánh giá, Bác Hồ của chúng ta là người ý thức đầy đủ nhất, rõ nhất, cao nhất về quyền lợi của nhân dân. Đừng nói đến những lý tưởng xa vời vợi, Người bỏ cả cuộc đời của mình ra đấu tranh trước hết vì quyền dân chủ của nhân dân (chúng tôi nói của nhân dân vì hiện nay có nhiều người lãnh đạo nghĩ rằng họ làm chủ chứ không phải dân làm chủ, nhưng họ lại luôn miệng nói đến dân chủ. Trong từ dân chủ của họ không có nội hàm nhân dân. Bảo họ giả dối là đúng, bảo họ tuy đi theo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh nhưng ý thức hệ thì phi dân chủ cũng chẳng sai).
Không phải ngẫu nhiên khi Hồ Chí Minh chỉ đạo làm Hiến pháp năm 1946, Người đã đặt ngay nghĩa vụ và quyền lợi công dân ở chương thứ hai. Nghĩa vụ chỉ ghi sơ sài có 2 điều (điều 4 và 5) quyền lợi thì ghi tới 11 điều (từ điều 6 đến điều thứ 16) và có mấy quyền quan trọng nhất thì được ghi ngay ở điều thứ 10 (trong tổng số 70 điều).
Điều thứ 10 : Công dân Việt Nam có quyền :
- Tự do ngôn luận
- Tự do xuất bản
- Tự do tổ chức và hội họp
- Tự do tín ngưỡng
- Tự do cư trú, đi lại trong nước và ra nước ngoài.
Sở dĩ chúng tôi nhắc lại nguyên văn điều 10 này là vì trong đó có một điều cốt tử mà thiếu nó thì không đảm bảo được bất cứ quyền dân chủ nào : quyền tự do ngôn luận.
Nhân dân thấy bọn tham nhũng hằng ngày hằng giờ ăn cắp, ăn trộm, ăn cướp công khai hoặc bí mật, hô hoán lên liền bị bịt miệng lại (các ông các bà dám buộc tội, dám tố cáo giám đốc, tổng giám đốc, thống đốc, chủ tịch ủy ban, bí thư đảng ủy ....... không sợ bị địch lợi dụng hay sao ? Không biết làm như thế là chống lại sự lãnh đạo của Đảng à ?). Thế là kẻ cướp lại nhởn nhơ, người lương thiện thì phải vào tù hoặc phải trốn biệt xứ, phóng viên báo đài nào can đảm phanh phui sự việc liền bị mất việc hoặc bị trù dập khốn khổ không ngóc đầu lên được. Ngay từ đầu bọn tham nhũng còn ít, mới ló đầu ra, nhân dân bảo bắt đi thì không bắt, bất đắc dĩ phải bắt, bảo xử đi thì lại không xử hoặc xử thật nhẹ, bảo bỏ tù đi thì cho án treo hoặc thả cho chúng chạy trốn. Còn nếu có buộc phải giam giữ thì lại cho sống như ông hoàng, thậm chí còn được gắn huân chương (xin miễn nói tên cụ thể để đỡ xấu mặt người ngớ ngẩn). Dư luận vẫn nhức nhối về các vụ Trần Xuân Hoa, Nguyễn Văn Quang .... và gần đây nhất là vụ đám con cái Trần Đàm (Tân Trường Sanh) bỏ trốn ra nước ngoài.
Chưa có ai chịu trách nhiệm, chưa chịu sát cánh với Interpol để bắt bằng được và dẫn độ chúng về. Trong xã, trong phường, trong cơ quan, trong xí nghiệp quốc doanh, trong công ty quốc doanh, "ai ăn, ai không ăn", người ta đâu có nhầm, sao người ta lại không biết. Vạch mặt ra đến đâu bắt ngay đến đấy, chặn ngay đến đấy thì làm gì tham nhũng có thể sinh sôi nảy nở đến nỗi thành phổ biến, thành quốc nạn. Rồi lại đổ quanh đổ quẩn tại cơ chế, tại kinh tế thị trường, tại thiếu tu dưỡng đạo đức, tại "buông lỏng" lãnh đạo .... Không phải thế đâu. Tại cái gốc của nó là thiếu tự do ngôn luận, tự do báo chí. Đến quyền to và mặt dày mày dạn như các tổng thống Mỹ Giônxơn, Níchxơn mà còn phải sợ dư luận trong nước và quốc tế. Bọn tham nhũng, bọn ô dù ở ta ba đầu sáu tay thế nào mà dám nhởn nhơ trước công luận ?
Điều nguy nhất đối với chế độ dân chủ của chúng ta là những người được tin cậy giao cho làm hiến pháp, làm luật thì lại tìm cách bóp nhỏ dần dần các quyền dân chủ tự do rồi rút dần các nội hàm và thêm vào những từ vô nghĩa đến nỗi nhiều quyền tự do chân chính chỉ còn là những xác không hồn. Nói có sách, mách có chứng :
Cũng là quyền tự do ngôn luận, ở Hiến pháp năm 1959 chạy tụt xuống điều thứ 25 "Công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hòa có các quyền tự do ngôn luận, báo chí hội họp, lập hội và biểu tình. Nhà nước bảo đảm những điều kiện vật chất cần thiết để công dân được hưởng các quyền đó". Đến Hiến pháp năm 1980 thì chạy tụt xuống điều thứ 67 kèm theo một ràng buộc mới :
"Công dân có các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp, tự do lập hội, tự do biểu tình phù hợp với lợi ích của CNXH và của nhân dân.
Nhà nước tạo điều kiện vật chất cần thiết để công dân sử dụng các quyền đó.
Không ai được lợi dụng các quyền tự do dân chủ để xâm phạm lợi ích của nhà nước và của nhân dân".
Đến Hiến pháp năm 1992 cũng vẫn quyền tự do ấy lại tụt xuống đến điều 69 với một ràng buộc chặt chẽ nhưng không kém phần vô nghĩa :
"Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; có quyền được thông tin; có quyền hội họp, lập hội, biểu tình theo qui định của pháp luật".
Chúng tôi nói vô nghĩa là vì nó thừa. Chịu khó đếm cụm từ "theo qui định của pháp luật" hoặc "theo luật định" lặp đi lặp lại khoảng dưới 100 lần, đủ thấy tâm thế và tâm lý của người làm luật như thế nào. Hiến pháp là luật mẹ, tất nhiên là đẻ ra một loạt luật con và tất nhiên từ công dân cho đến chủ tịch nước, từ đảng viên thường cho đến tổng bí thư, có ai đủ lương tri mà lại không tuân theo pháp luật mà phải ghi vào Hiến pháp những từ thừa thãi như thế.
Không nghi ngờ gì nữa, ngay bản thân những người ghi vào luật là "phù hợp với lợi ích của CNXH" thì bản thân họ cũng chẳng hiểu thế nào là chủ nghĩa xã hội, thế nào là lợi ích của CNXH và chính những người tương tự như họ ở Liên Xô và Đông Ấu trước đây đã gây tai họa cho xã hội và chế độ.
Bản Hiến pháp tuy chỉ mỏng vài ba chục trang nhưng lại là thành tựu vĩ đại của một quá trình đấu tranh đầy gian khổ và vẻ vang của toàn dân, lẽ nào có thể soạn thảo tùy tiện. Đọc kỹ 3 bản Hiến pháp sửa đổi (1959-1980-1992), chúng tôi mới thấy càng sửa đổi người ta càng đi quá xa nội dung súc tích và đúng đắn của bản Hiến pháp đầu tiên (1946).
Trong bản Hiến pháp sửa đổi năm 1959 (lúc đó Bác Hồ còn), điều 4 được ghi là :
a. Tất cả quyền lực trong nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đều thuộc về nhân dân. Nhân dân sử dụng quyền lực của mình thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân, Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp và cơ quan nhà nước khác đều thực hành nguyên tắc tập trung dân chủ".
Thế là tuy có chút hơi xa những vẫn tiếp cận nội dung Điều 1 của bản Hiến pháp 1946.
Đến bản Hiến pháp năm 1980 (11 năm sau khi Bác Hồ mất) thì vẫn Điều 4 lại được ghi là :
"Đảng cộng sản Việt Nam, đội tiên phong và bộ tham mưu chiến lược của giai cấp công nhân Việt Nam được vũ trang bằng học thuyết Mác-Lênin là lực lượng duy nhất lãnh đạo nhà nước, lãnh đạo xã hội; là nhân tố chủ yếu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Đảng tồn tại và phấn đấu vì lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam.
Các tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp".
Vẫn điều 4 ấy ở bản Hiến pháp sửa đổi năm 1992 lại được ghi là :
Đảng cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội.
Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ và pháp luật".


Ở điểm này, ta khác hẳn giai cấp tư sản phương Tây. Cũng là cầm quyền lãnh đạo nhưng giai cấp tư sản lại chơi trò giấu mặt, bày ra đảng này đảng khác để tranh luận rất gay gắt, thậm chí còn túm ngực nhau đấm nhau, ném giày vào mặt nhau, làm bộ ta đây "tự do dân chủ". Tiếng rằng đủ các thứ đảng nào là : cộng hòa, dân chủ, tự do, xã hội, Thiên chúa giáo, đảng xanh, đảng vàng, đảng một dân tộc v.v. kỳ thực vẫn là đại diện cho các ông chủ đấy thôi. Thử hỏi có đảng nào dám bỏ phiếu khác ý của ông chủ của các Tờrơt, Xanhđica, công ty xuyên quốc gia .... nghĩa là đào này kép khác vào ra chiêng trống cũng vẫn là "đào kép mới" mà thôi. Tóm lại là vẫn giai cấp tư sản độc quyền lãnh đạo xã hội.
Còn ta thì cứ nói trắng ra là Đảng của giai cấp công nhân giữ độc quyền lãnh đạo xã hội, không cần giấu giếm úp mở. Đây là vấn đề thuộc về qui luật đáp ứng nhu cầu của lịch sử, chứ không phải vấn đề muốn hay không muốn, ưng hay không ưng.
Chỉ có điều đã ghi vào Hiến pháp thì phải thận trọng. Tại sao lúc thì không ghi (hiến pháp 1946, hiến pháp 1959), lúc thì lại ghi là "lực lượng lãnh đạo duy nhất" (1980), đến hiến pháp sửa đổi năm 1992 thì lại bỏ đi 2 chữ "duy nhất". Thế nghĩa là thế nào ?


Thực tế thì bảy chục năm qua ai dám tranh quyền lãnh đạo của Đảng cộng sản ? Toàn là độc quyền, toàn là duy nhất cả thôi. Ghi không cẩn thận, người ta thấy Dân tự nhiên mất hết quyền.
Sẽ có ý kiến cãi là Hiến pháp chẳng ghi "quyền làm chủ tập thể" đấy thôi.
Thưa rằng, chẳng ai hiểu hình thù "quyền làm chủ tập thể" như thế nào.
Thực tế cuộc sống cũng đã xác định rằng không làm gì có cái quyền mơ hồ vớ vẩn như thế. Do đó, Hiến pháp năm 1980 ghi và Hiến pháp năm 1992 bỏ đi là đúng.
Chu nghĩa ghi trong Hiến pháp không cân nhắc cẩn thận khiến cho người ta hiểu tiền hậu bất nhất. "Tổ chức Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp" tức là Đảng là một bộ phận bình đẳng với các tổ chức khác, lúc thì làm cho người ta hiểu Đảng là một bộ phận siêu quyền lực, trên cả Hiến pháp (lực lượng lãnh đạo duy nhất lãnh đạo nhà nước, lãnh đạo xã hội). Điều này gây một sự ngô nhận rất lớn đối với các đảng viên kém lý luận, hiểu lơ mơ về quyền lực của Đảng và quyền lực của Quốc hội. Những đảng viên tiêu cực, thoái hóa biến chất sở dĩ có thể múa may quay nồm, tác oai tác quái trong một thời gian dài chính là do sự sơ hở này.
Nếu chúng tôi không nhớ nhầm, đồng chí Phạm Văn Đồng từng lo lắng: hiện nay ngưòi ta có thể ngưỡng mộ Việt Nam như đứng trước một bức tượng danh nhân, nhưng ngày mai người ta có thể đi qua Việt Nam không thèm để ý như đi qua một túp lều nát. Chúng ta ý thức được và chúng ta cũng có đủ cơ sở để tự hào và tin tưởng : với tiềm lực và nội lực sẵn có, Việt Nam không cam tâm chịu thua kém bất cứ nước nào trong khu vực và cũng không chịu hổ thẹn khi "sánh vai với các cường quốc năm châu" (|Hồ Chí Minh).
Nhìn về lịch sử nước nhà từ những triều đại tồn tại được hàng trăm năm (Lý 247 năm, Trần 175 năm, Lê 300 năm, Nguyễn (cả nhà chúa lẫn nhà vua là 363 năm) đến những triều đại chỉ tồn tại dăm bảy năm như nhà Hồ 4 năm, Tây Sơn 7 năm v.v. chúng ta đều đã rút ra những bài học lịch sử : vì sao hưng thịnh, vì sao suy vong. Đến năm 2000, chế độ Dân chủ của ta đứng vững được 55 năm. Chúng ta định đứng vững trong bao lâu nữa mà lại không bàn một cách nghiêm chỉnh. Trong khi nhìn ra thế giới, một nhà nước vĩ đại và ưu việt như nhà nước Xô Viết mà tồn tại được có 70 năm. Đau xót biết chừng nào !
Hẳn mọi người sẽ hỏi : vậy thì phải giải quyết như thế nào ?
- TẦT CẢ PHẢI LÀ THỰC CHẦT.
Vừa qua, nếu chúng ta đánh giặc GIẢ, chúng ta có thắng được không ?
Thế thì, chúng ta làm kinh tế GIẢ, dân chủ GIẢ, đánh tham nhũng một cách giả dối vờ vịt mà chúng ta lại hy vọng giải quyết được quốc nạn. Thật là những hy vọng hão huyền !
Năm 1945, 90% nhân dân thất học và mù chữ lại đang đói dài ra, thế là nghèo nàn chứ gì ? Thế là dân trí thấp chứ gì ? Thấp mà người ta lại phân biệt nổi Việt Minh với Việt Quốc, Việt Cách, người ta lại phân biệt được Hồ Chí Minh với Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh .... Ai yêu nước, ai không yêu nước ? Ai yêu nước nhiều, ai yêu nước ít ? Ai tốt ai xấu ? Ai đúng ai sai ? Ai vì quyền lợi của dân tộc, ai vì quyền lợi của bản thân và phe phái mình ? Dân ta biết cả và không nhầm đâu !


Ngay từ năm 1946, Hồ Chí Minh và những đồng chí của Người, và cả với những ai mà Người đã tinh tường lựa chọn đều lọt vào cặp "mắt xanh" của Nhân Dân. Vì thế mà Nhân Dân đã dồn phiếu cho họ, chọn lựa họ là Đội Tiên Phong của mình : "Nó lú nhưng chú nó khôn" bất cứ đối với cộng đồng nào chớ có chỉ nhìn vào bộ phận trung bình hoặc bộ phận lạc hậu, phải nhìn vào bộ phận tiên tiến của nó. Chính Bác Hồ của chúng ta với con mắt thấu suốt lịch sử và nhìn rộng thấy bốn cõi lại dự báo được tương lai. Người yêu Nhân Dân và tin Nhân Dân, Người lôi bằng được bộ phận tiên tiến của Nhân Dân đi trước để cho tất cả tiếp bước theo sau. Người lôi được cả những phần tử tuyệt đẹp đang sống ở phương trời Tây, trong đó có Phạm Ngọc Lễ mà sau này Người đổi tên cho là thành Trần Đại Nghĩa. Cái ông kỹ sư này đi du học không để mưu vinh thân phì gia mà mày mò bằng được học cách chế chất nổ (cái mà bọn thực dân Pháp dứt khoát không dạy cho du học sinh thuộc địa) để cho Nhân Dân dùng vào việc đại nghĩa sau này. Chúng tôi gọi người trí thức Nam Bộ này cũng như bao nhiêu trí thức chân chính khác ở mọi miền là tuyệt đẹp chính vì bất kỳ sống ở đâu, trong hoàn cảnh nào cũng đêm ngày khóc ra máu, lo lắng cho vận mệnh của dân tộc và đất nước.
Cụ Hồ lôi cuốn trí thức là lôi cuốn THẬT, thế nhưng có những người tự nhận là học trò trung thành của Cụ lại lôi cuốn GIẢ. Cho nên khi Đại hội VII ghi được vào Nghị quyết của mình : thành lập một liên minh mới gồm công nhân, nông dân và trí thức, thì đúng là một bước tiến lớn về nhận thức của Đảng ta. Tiếc rằng có nhiều đảng viên không thấm nhuần và không chịu thực thi điểm trọng yếu mang tầm chiến lược của Đảng ta trong giai đoạn cách mạng mới. Miệng cứ nói là phải TẬP TRUNG DẤN CHỦ nhưng Trung ương bảo điều đúng có chịu nghe đâu. Nhiều nơi lại lấy vải thưa che mắt Trung ương bằng cách chọn dùng loại trí thức gọi dạ bảo vâng, hoặc dán vào trán họ vài học hàm học vị, rồi báo cáo với Trung ương rằng địa phương chúng tôi đang tích cực sử dụng trí thức theo đúng nghị quyết của Đảng. Dùng trí thức mà thiếu "tuệ nhãn" Hồ Chí Minh, thiếu tinh thần bao dung Hồ Chí Minh, dùng một cách tạp nham thì đúng là lợi bất cập hại. Ngay cách đây vài ngàn năm, người cầm quyền sáng suốt đã biết nói rằng : Ta thông minh là nhờ có dân thông minh (Dư thông minh tại ngã dân thông minh).
Vậy, ai hay nhận định dân trí ta hiện nay thấp kém tưởng cũng nên nghĩ lại. Bố mẹ thì học có chừng nhưng con người ta, cháu người ta học cấp ba với đại học, thậm chí trên đại học mà cứ bảo họ thấp là thấp cái gì. Cả một vùng đồng bằng sông Cửu Long 18 tỉnh trước kia muốn học trung học phải lên tận Sài Gòn thế mà vừa qua có ai ngờ riêng tỉnh Long An nhỏ bé đã có tới 15 trường Trung học phổ thông. Trước kia cả tỉnh mới có một vài trường tiểu học cơ bản, bây giờ có xã nào còn chưa có trường tiểu học. Lại phải điều tra thống kê cho chính xác và đừng quên phương pháp so sánh trước khi nhận định. Cũng phải thống nhất với nhau thế nào là dân trí. Theo chúng tôi hiểu, muốn biết trình độ dân trí thì phải nhìn vào tổng thể về trình độ học vấn của nhân dân nhưng trước hết vẫn là phải thấy trình độ hiểu biết của nhân dân và bộ phận hiểu biết trong nhân dân, tức là tầng lớp trí thức của nhân dân. Đấu về mặt văn hóa với quốc tế thì chúng ta phải đưa Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Nguyễn Đình Chiểu, Hồ Chí Minh ra. Đấu về mặt trí tuệ quân sự, ta phải đưa Trần Hưng Đạo, Quang Trung, Võ Nguyên Giáp ra. Đưa người làng nhàng ra thế nào được. Và bất cứ lĩnh vực nào, thời nào cũng thế thôi, thiên hạ đâu có căn cứ vào lớp làng nhàng mà đánh giá một cộng đồng được.
Dân làm Chủ thì cụ thể làm chủ như thế nào (tất nhiên cái chuyện làm chủ tập thể thì coi như đã vào kho lưu trữ rồi). Chắc nhiều người sẽ nói : ta có đủ cả Quốc hội và các Hội đồng nhân dân. Đúng, nếu chúng ta tổ chức một Quốc hội thật sự có quyền lực thì dân ta thực sự làm chủ đất nước và làm chủ được vận mệnh của mình. Như trong bài "Chỉnh đốn để tồn tại và phát triển", chúng tôi đã nói : Vào giai đoạn cách mạng mới mà bầu cử quốc hội theo kiểu cũ là không ổn, gây cản trở cho sự phát triển đất nước, làm suy yếu Chế Độ tốt đẹp của chúng ta.
Chúng ta sống trong một xã hội ưu việt nhưng lại cảm thấy như là rất nhiều thứ chúng ta tạo ra đều trở thành vô hình hoặc nói đúng hơn là nó thoắt hiện, thoắt biến, nghĩa là nó "tàng hình" theo nhu cầu và quyền lực của bản thân nó chứ không hề xuất phát từ quyền lợi của nhân dân hay đất nước. Còn nói là vì nhân dân vì đất nước thì chỉ là nói phiệu đấy thôi. Họ chỉ vì quyền lợi của bản thân họ và gia đình họ. Chúng tôi nói như thế là dựa trên cơ sở thực tế chứ không hề nói oan cho họ.
Bọn ăn cắp, bọn tham nhũng, bọn lừa đảo, bọn buôn gian bán lận ...., tất cả thông đồng với nhau chiếm đoạt tài sản XHCN. Một tỷ, tức là 1.000 triệu đồng thì phải có người đứng ra chặn ngay chứ. Hoặc không ngăn chặn ngay được thì phải hô hoán lên cho mọi người biết chứ. Thế mà các cấp ủy viên, các ủy viên chấp hành công đoàn, các ủy viên chấp hành đoàn thanh niên đều cứ im như thóc. Do đó, mới có chuyện hôm nay ăn cắp dăm ba quả trứng rồi ngày kia là ăn trộm cả con bò. Các vị đại biểu Hội đồng nhân dân và các đại biểu Quốc hội cũng im lặng một cách đáng sợ. Đáng sợ hơn nữa là sự im lặng của các nhà trí thức (trong đó có cả những người vừa lĩnh xong giải thưởng Hồ Chí Minh), các nhà văn nghệ sĩ, các nhà khoa học cấp quốc gia và quốc tế (chúng tôi không kể đến những kẻ được gọi là trí thức hoặc những kẻ vừa được dán nhãn những học hàm học vị "lên đời"). Chẳng lẽ tất cả đều đang lo "tu thân", "tề gia" và lo "độc thiện kỳ thân" hoặc mải lo giữ gìn "chữ tâm" của mình đến nỗi không còn nghe hoặc thấy gì nữa, lại khuyên bảo nhau "thận ngôn" và "kiệm ngôn", "nói thì ăn cái giải gì ? nói làm gì cho phí lời ?".
Ầy thế mà khi có những người còn nghĩ đến trách nhiệm của mình trước vận mệnh của Dân Tộc, của Đất Nước, của Chế Độ thì họ lại lập tức lên tiếng mỉa mai, chê cười, xúm nhau vào đánh đến bại hoại gân cốt thậm chí còn hỏi chính quyền sao hữu thế, không bắt cổ chúng đi (chính tai chúng tôi đã nghe thấy họ hỏi nhau rằng : thế nào, bọn tác giả viết "chỉnh đốn để tồn tại và phát triển" đã bị bắt chưa ?). Có mấy nhà văn viết được vài ba tác phẩm kha khá phản ánh được hiện thực xã hội thì lập tức mấy vị chuyên gia điểm sách và mấy tay "phê bình" nửa mùa xúm vào phang tới tấp (chuyện này chúng tôi sẽ viết kỹ hơn ở mục văn học nghệ thuật hiện nay).
Chúng tôi thực sự tự hào và khâm phục những người dũng cảm và khí phách tuyệt vời như ông Nguyễn Tăng Thắng và những chiến hữu của ông. Dư luận nhân dân bàn tán : thế mới đáng mặt đảng viên cộng sản chứ. Có những người lại nói : thôi cứ gọi là cộng sản cho gọn, nói rườm rà làm gì, "đảng viên nhan nhản, cộng sản khó tìm".
Như thế là cuộc đời vẫn đáng yêu và đáng hy vọng lắm chứ ! Cụ Nguyễn Trãi nói có sai đâu :
" Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau
Nhưng hào kiệt thời nào chẳng có".
(Bình Ngô đại cáo)
Có bao giờ mà đất nước này thiếu đi những anh hùng hào kiệt và những con người bình thường mà vĩ đại. Vấn đề là có chịu bỏ công ra mà tìm, mở mắt ra mà nhìn để thấy được những gì là tinh hoa là tốt đẹp trong đời. Tốt đến như thế, đẹp đến như thế, khí phách hào hùng đến như thế mà vẫn có những kẻ nhắm tịt mắt lại, dài mồm bĩu môi chê trách :
"Mấy cái ông Thắng, ông Chiến không yên phận mà lo cho vợ cho con, còn khỏe kiện cáo, khiếu tố, lên đồn xuống phủ. Đến đại biểu hội đồng nhân dân, đại biểu quốc hội người ta còn chẳng có ý kiến, chỉ là một đảng viên thường, bày trò chỉ thêm rách việc, vừa gây mất đoàn kết nội bộ, vừa làm mất mặt tỉnh ủy và ủy ban Bình Thuận, lại mất mặt cả Tổng cục Lâm nghiệp".
Thế hóa ra theo những kẻ này là cứ giữ đoàn kết và ổn định còn mặc cho bọn lâm tặc hoành hành mới giữ đúng tư cách công dân và đảng viên chăng ?
Đến tận bây giờ nhân dân thắc mắc chưa thấy Ban thi đua Trung ương đề xuất với Quốc hội và Chính phủ phong anh hùng cho ông Nguyễn Tăng Thắng và truy tặng danh hiệu liệt sĩ cho ông Nguyễn Văn Chiến cũng là do mồm mép của bọn tệ hại này.
Chúng tôi cũng thông cảm với đoàn đại biểu quốc hội Bình Thuận. Cũng không thiếu đại biểu tâm huyết có tấm lòng với Dân với Nước muốn thực sự xứng đáng với trọng trách của mình. Nhưng tại sao trong các kỳ họp quốc hội không thể nói lên được những bức xúc và nguyện vọng của nhân dân, cam phận ú ớ như bao nhiêu người khác.
Xét cho cùng lỗi chủ yếu không phải do họ. Nó do cái cơ chế của chúng ta. Muốn sửa tình trạng này phải sửa cơ chế bầu cử và làm việc của Quốc hội.
Hiện nay, mỗi đại biểu Quốc hội thường là phải kiêm nhiệm một vài chức vụ ở địa phương mình; nghĩa là hầu hết họ ở trong bộ máy hành pháp. Họ thật là vất vả khi lại được giao thêm công việc ở cơ quan lập pháp. Cho dù họ có là những người đủ trình độ tri thức và tinh thần trách nhiệm, họ cũng không bao giờ đủ thì giờ và điều kiện để học tập nghiên cứu thấu đáo về luật pháp. Thế mà họ phải giơ tay biểu quyết từng điều luật một của tất cả mọi thứ luật : hình sự, dân sự, giáo dục, báo chí, đầu tư trong nước, đầu tư nước ngoài, thuế khóa, đất đai ... Một luật còn khó rành 6 câu huống hồ đủ các thứ luật. Rõ ràng họ bị quá tải. Còn những người rành luật thực sự liệu có phát ngôn được không ? Người ta có dự kiến cho họ phát biểu không ? Và nếu họ được phát biểu thì ý kiến của họ có được đa số không rành luật chấp nhận không ? Còn nguyện vọng của dân ư ? Đảng đoàn đã cho ông hay bà phát biểu chưa ? Liệu các vị định "kích động" nhân dân để gây khó khăn cho địa phương và Trung ương hay sao ?
Hiện nay, ta có một lối ngụy biện rất lạ khiến cho những kẻ cơ hội núp vào đó mà hoành hành ngang ngược. Khi điều gì có lợi cho bản thân họ hay đơn vị cơ quan, hay địa phương của họ, bất chấp lợi ích chung, họ thi hành bằng được với chiêu bài "phải có quan điểm quần chúng", cho dù việc đó có trái với lệnh của Trung ương hoặc vi phạm pháp luật (Rừng Tánh Linh - Bình Thuận cũng như bao nhiêu rừng ở những nơi khác bị chặt trụi liên tục hàng chục năm trời chính là do "quan điểm quần chúng" kiểu này).
Ngược lại, khi việc gì có lợi ích chung mà không có lợi riêng cho họ, họ gạt phắt với chiêu bài "không thể theo đuôi quần chúng" và họ đả kích những người làm đúng với nguyện vọng của dân và lợi ích chung của đất nước là "bọn mị dân", bọn lôi kéo quần chúng chống Đảng (chống Đảng ở đây có nghĩa là chống lại nghị quyết sai của đảng ủy, huyện ủy hay tỉnh ủy địa phương đó. Nhẹ thì khai trừ, nặng thì ghép tội và bỏ tù, nhóm các ông Tăng Thắng là một ví dụ điển hình - vừa bị khai trừ Đảng vừa phải trốn biệt xứ).
Nhân đây chúng tôi cũng muốn nói thêm một chuyện mà ai cũng thấy vô lý nhưng cứ chấp nhận, không bao giờ dám nói ra : tại sao lại coi nghị quyết Đảng như một thứ linh thiêng không bao giờ được động đến. Vậy thì nó có khác gì các chiếu chỉ của nhà vua phong kiến. Đành rằng vua chúa đúng hay sai, người ta cũng phải chịu, nhưng nghị quyết của một Đảng cộng sản tức là của những người cách mạng nhất trong những người cách mạng mà sai hoặc có những điểm sai thì có gì mà không được phép góp ý, phê bình để sửa đổi cho phù hợp với lợi ích của đời sống nhân dân.
Đặc biệt giới lý luận của Đảng quên mất rằng cái nghị quyết lớn nhất của những người cộng sản trên thế giới này vạch hướng đi cho hàng trăm năm sau tức là "TUYÊN NGÔN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN" thì hai người sáng tạo ra nó vẫn phải dặn dò các đồng chí của mình và các thế hệ cộng sản đến sau rằng có những điều không thích hợp thì phải viết lại. Thế mà những đảng viên làm lý luận ở nước ta không những không bao giờ dám bàn nhau chuyện viết lại mà đến chuyện nhắc lại lời dặn "phải viết lại" của Mác và Ắnghen cũng không dám vì coi như là một điều cấm kỵ. Nói thẳng thì họ buồn, nhưng thực sự họ đã suy nghĩ nghiên cứu, thảo nghị quyết, viết sách lý luận bằng một nếp nghĩ và một nếp cảm rất "pháp tiên vương", rất "án khoa nhi hành". Theo Mác, theo Ắnghen, theo Lênin mà theo kiểu từng chữ từng câu cũng còn không ổn, đã là chống lại các ông một cách không tự giác. Huống chi lại theo Stalin cùng với biết bao đồ đệ giáo điều của ông ở cả phương Tây lẫn phương Đông.
Ở Việt Nam ta lại còn một hiện tượng rất lạ : Trung ương ra nghị quyết đã đành, nhưng cấp ủy nào cũng ra nghị quyết. Có những nghị quyết của cấp ủy địa phương chống lại nghị quyết Trung ương nhưng cũng không cho ai nói động đến. Nguyễn Tăng Thắng vừa chống lại nghị quyết phá rừng của Bình Thuận thì lập tức nhận được nghị quyết khai trừ khỏi Đảng ngay. Mà nào có riêng gì Bình Thuận hay Thái Bình, nơi nào cũng đều có những nghị quyết hoặc công khai, hoặc bí mật, hoặc ghi thành văn bản, hoặc chỉ nói mồm, cứ lẳng lặng chống lại Trung ương, chống lại luật pháp một cách thường xuyên liên tục.
Gần đây, việc chống lại nghị quyết, chống lại lệnh của Trung ương xem ra ngày càng công khai và trắng trợn hơn. Thủ tướng Phan Văn Khải thay mặt Chính phủ (đồng thời cũng là thay mặt Bộ Chính trị) ra lệnh phải kích cầu, nghĩa là phải tìm mọi biện pháp tăng đầu tư và tăng sức mua để đẩy mạnh sự phát triển của nền kinh tế đất nước. Thế mà ông Thủ tướng nói chưa dứt lời, lệnh ký chưa ráo mực, ông Bộ trưởng Bộ Điện lực hạ lệnh tăng giá điện, ông Tổng cục trưởng Tổng cục Bưu điện hạ lệnh tăng giá cước điện thoại. Ông Tổng cục trưởng Tổng cục xăng dầu tăng ngay giá xăng dầu. Mấy ông chủ hãng gas tư nhân học tập quốc doanh tăng giá gas ngay. Tăng giá là một cách giảm sức mua và chống kích cầu một cách hữu hiệu nhất.
Đáng sợ nhất là Tổng cục thuế tăng thuế một cách toàn diện, vừa tăng thuế cũ vừa ban hành sắc thuế mới đến mức hàng trăm chủ doanh nghiệp tư nhân lao đao bỏ cuộc, hàng ngàn hộ kinh doanh tiểu thương dẹp sạp bỏ chợ (đấy là con số của một vài chợ ở TPHCM chứ chưa phải là con số thống kê của toàn thành phố hoặc toàn quốc). Chắc nhiều người lãnh đạo của Tổng cục thuế không để ý đến một nguyên tắc đơn giản là : đánh thuế nhẹ thì thu được nhiều, đánh thuế nặng thì thu được ít hoặc không thu được gì. Hẳn đ/c Tổng cục trưởng Tổng cục thuế không hiểu rằng tình hình đánh thuế và thu thuế như hiện nay đang làm lâm nguy CHẾ ĐỘ.
Nhân dân ta đi theo Cụ Hồ và Đảng Cộng sản để lật đổ những chế độ đã đặt hàng trăm thứ thuế vô lý lên đầu lên cổ nhân dân ta, chẳng lẽ lại chấp nhận ba ông Tổng cục và ba ông phòng thuế hiện nay ? (Ai thắc mắc là chúng tôi nói đúng hay sai, xin mời tham khảo báo chí hiện nay và riêng Tổng cục trưởng Tổng cục thuế thì xin mời tham khảo hay nói đúng hơn là đọc lại tác phẩm viết bằng huyết lệ của nhà chí sĩ yêu nước Phan Bội Châu mà đ/c cũng như chúng tôi đều đã học).
Theo chúng tôi hiểu, vừa qua, nông dân Thái Bình tức giận nổi dậy không phải chỉ vì đóng tới ba chục khoản. Ba chục khoản chứ sáu chục khoản cũng chẳng nghĩa lý gì. Khi đất nước cần, người ta "đóng" cả sinh mạng của bản thân và con cái mình, người ta còn chẳng tiếc, xá gì tiền bạc. Nhưng đóng để xây dựng, phát triển đất nước thì được, chứ đóng để cho bọn cường hào tham nhũng bỏ túi thì ai chịu, ai nghe !
Chúng tôi xin nhắc lại, nhân dân Thái Bình và một vài vùng khác nổi dậy không nhằm chống Đảng, chống Chế Độ mà là để chống lại bọn cường hào tham nhũng đang hoành hành vượt qua cả kỷ cương phép nước. Chúng tôi xin hỏi : bao giờ thì chúng ta chấm dứt cái trò trống đánh xuôi kèn thổi ngược, gây mất ổn định ở nông thôn cũng như thành thị ở cấp địa phương cũng như cấp trung ương, chính phủ. Chẳng lẽ chúng tôi lại dám khinh thường mấy ông này mà bảo rằng các ông không hiểu nổi thế nào là cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà nước. Các ông hiểu mà các ông dám làm sai, quả là các ông to gan thật !
Cũng nói thêm một chút về ông chủ nhiệm Ủy ban vật giá của chính phủ. Ông này lại không chịu hiểu rằng khi giá gas tăng có nghĩa là động đến đời sống, động đến miếng ăn hàng ngày của hàng chục triệu nhân dân và công nhân viên chức ở đô thị. Thế mà khi báo phỏng vấn ông, ông lại thản nhiên trả lời một câu xanh rờn :
- Chúng tôi không quản lý giá gas.
Giá gas nội địa hiện nay ngoài việc được đánh thêm 20% thuế nhập khẩu đã là một điều vô lý, nay họ lại bảo nhau tăng giá cho bằng với giá gas của khu vực. Hóa ra, mấy ông Tổng cục thuế, ủy ban vật giá ... lại nằm chiêm bao thấy rằng lương công nhân viên nước ta đã bằng lương của các nước Singapore và Thái Lan. Và mức thu nhập quốc dân của ta đã ngang bằng thế giới rồi. Các cụ xưa dạy không sai : đúng là "người làm sao chiêm bao làm vậy".
Chúng tôi châm biếm tí chút, các đồng chí cũng đừng giận, vì Mác đã nhận xét : "Bao giờ nhân loại cũng tiễn đưa quá khứ một cách vui vẻ". Đó là lý do cắt nghĩa tại sao ở nước ta : giai thoại, tân giai thoại, tiếu lâm, tân tiếu lâm và đủ các thứ ca dao hò vè lại được xuất bản miệng một cách "ngoài luồng" mạnh mẽ đến như thế.
Chúng ta đang ở trong một tình trạng vừa buồn cười lại vừa đau lòng. Do thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ một cách nghiêm túc trong 30 năm kháng chiến nên ta đã lập được bao thành tựu vĩ đại. Trong thời kỳ làm kinh tế thị trường, nhiều người dám cả gan không tôn trọng nguyên tắc này nữa, tạo nên tình trạng hỗn loạn, mất ổn định ngay trong nội bộ chúng ta.
Kẻ thì dân chủ quá trớn. Anh được quyền bàn bạc thảo luận nhưng khi đã thành nghị quyết, thành lệnh, thành luật, anh không chấp hành sao được ? Anh là địa phương mà dám không phục tùng Trung ương ? Anh là Bộ trưởng, Thứ trưởng, Tổng cục trưởng mà lại dám không phục tùng lệnh Thủ tướng. Các anh nhận thức như thế nào mà trên cương vị của mình, đáng lẽ phải làm gương, anh lại dám vi phạm Hiến pháp và những đạo luật do Quốc hội ban hành ?
Thế là chỉ muốn hưởng dân chủ mà không hiểu thế nào là tập trung. Hữu ý hoặc vô tình, anh đã chống lại sự lãnh đạo của Đảng, chống lại sự quản lý của Nhà nước, tóm lại là anh chống lại Nhân Dân. Các anh lại ngu xuẩn hơn cả bọn phong kiến, đế quốc đến như thế à ? Đúng là các anh không hiểu Nhân Dân Việt Nam ta là như thế nào : toàn là những "chuyên gia khởi nghĩa" nổi tiếng trên hành tinh này đấy ! Tối dạ đến như ngài Bộ trưởng Mắc Namara mà gần đây còn mở mắt ra được mà sám hối rằng : chúng tôi không hiểu lịch sử Việt Nam và văn hóa Việt Nam. Chúng tôi đã sai lầm một cách khủng khiếp.
Học lịch sử dân tộc, học truyền thống văn hóa dân tộc quan trọng đến như thế, thế mà Bộ giáo dục ta trong nhiều năm dám bỏ môn thi lịch sử. Không thi thì trẻ con học làm gì ? Cũng là một sai lầm khủng khiếp !
Kẻ thì tập trung cũng quá trớn chẳng kém. Mồm thì nói "tập trung dân chủ", tay thì viết "tập trung dân chủ", thế mà hoa chân múa tay úm ba la thế nào mà dân chủ biến mất, nhìn lại túi dân thấy rỗng không. Nhìn vào kho tàng công quĩ cũng thấy rỗng không. Tài thật, tài đến thế là cùng! Dân uất ức, Dân khiếu, Dân tố, Dân chống lại liền được "tập trung" tức khắc. Ngày xưa, chống vua, chống triều đình là tội đại nghịch. Nay, đã được chụp cái mũ chống Đảng, chống Nhà nước XHCN thì coi như tiêu đời rồi. Mất dân chủ là mất của cải, mất danh dự, mất sinh mạng chính trị, nghĩa là mất hết. Hẳn có người sẽ vặn:
 - Các vị cứ hay nói quá đáng ! Đảng, Chính phủ tôn trọng quyền khiếu tố của Nhân Dân. Quốc hội còn có hẳn pháp lệnh qui định quyền khiếu tố. Ai không biết hưởng quyền đó thì thiệt, còn kêu ca nỗi gì ?
- Vâng, chúng tôi xin thưa ngay rằng tất cả mọi thứ quyền, tất cả mọi thứ văn bản, chúng ta có đủ cả. Vấn đề là nội dung ra sao và hành xử như thế nào để thực thi được mục đích cao cả mà Cụ Hồ với Dân này, Đảng này đã cam kết cùng nhau khi tiến hành cuộc cách mạng Dân tộc Dân chủ Nhân dân trên đất nước ta.
Chúng tôi đã có dịp tiếp xúc lại với anh chị em bộ đội Cụ Hồ từ đồng chí binh nhì cho đến các đồng chí cấp tá, cấp tướng, trong số đó có những người đã bỏ hẳn nửa thế kỷ đời mình xông pha đủ loại chiến trường trong Nam, ngoài Bắc, bảo vệ chế độ Dân chủ cộng hòa bằng bất cứ giá nào (tất nhiên, giá cao nhất là giá máu, giá sinh mạng), giờ đây về hưu, nhìn lại hai bàn tay mình (nếu may mắn còn đủ hai bàn tay) bỗng nhiên kinh ngạc thấy quyền dân chủ bay biến đâu mất cả. Chẳng lẽ chỉ còn biết yên phận thở dài, chửi đổng. Thật cay đắng, đau xót !
Cũng thật khó hiểu khi thấy người ta có thể thản nhiên ngụy biện về một nguyên tắc quan trọng và cao cả đến thế. Người ta phải phục tùng Trung ương, Chính phủ và mọi thứ luật pháp đúng đắn đã đành. Anh là cái gì mà ra lệnh sai, làm sai cũng bắt người ta phải theo. Anh là cái gì mà lúc nào cũng giơ chiêu bài "tập trung" ra để bịt mồm chặn họng Nhân Dân. Sai thì phải sửa chứ Nhân Dân có đòi hỏi điều gì quá đáng ngoài những điều Cụ Hồ nói và Quốc hội đã pháp chế hóa bằng văn bản.
Ta có một nếp nghĩ sai lầm kéo dài là đồng nhất cá nhân với tập thể. Lãnh tụ huấn thị đã đành. Thế mà với "đầu óc lãnh tụ" anh là cái gì mà đi đâu cũng huấn thị. Lại có một lũ thường xuyên túc trực - "nhờ đồng chí bí thư huấn thị, mà vấn đề được sáng ra". - Ý kiến của đồng chí bí thư huyện ủy hoặc tỉnh ủy cũng là ý kiến của Đảng, chúng ta phải chấp hành nghiêm chỉnh. 
Nói theo kiểu văn học dân gian thì cái lũ này chỗ nào cũng cảm thấy phảng phất hương lan hương huệ.
Như thế là rất nhiều người, từ lâu, mượn danh nghĩa "tập trung dân chủ" để độc quyền, độc tài, độc đoán. Họ "tập trung" đến mức dân tức thở không chịu nổi nữa phải nổi dậy chống lại. Đúng như Cụ Hồ đã dạy : những người này muốn làm "quan cách mạng", muốn thành "vua con" ở từng địa phương.
Họ cũng đưa đủ các thứ lý do xem ra rất chính đáng, lại còn nại cả lý luận Mác Lênin ra để bảo lãnh nhằm chống lại đường lối của Đảng, luật pháp của Nhà nước, nào là tình hình cụ thể của địa phương như thế này, dân tình cụ thể của chúng tôi ở địa phương như thế kia; chính sách của Trung ương đúng thật, luật pháp của Nhà nước cũng đúng thật, nhưng chúng tôi không thể vận dụng áp đặt được. Cái gì cũng phải năng động linh hoạt mới được việc. 
Nói nghe có lý như thế đấy. Nhưng thử hỏi, Quốc hội đã ban hành pháp lệnh bảo vệ rừng, Chính phủ, cụ thể là Tổng cục Lâm nghiệp, hạ lệnh bảo vệ rừng, cho dù anh là Huyện ủy hay Tỉnh ủy, anh có được quyền chống lại không ? Cái gì có lợi cho Dân thì không hề xuất phát từ tình hình cụ thể để giải quyết. Anh lại giơ đủ các luật lệ, phép tắc, chỉ thị nghị quyết để nói rằng anh phải chấp hành nghiêm chỉnh nghị quyết của trung ương và pháp lệnh của Nhà nước. Cái gì có hại cho Dân cho Nước nhưng lại có lợi cho anh và phe cánh của anh, anh lại đảo lưỡi ngay. Cho nên kẻ thù chúng ta chửi ta là "ngụy biện cộng sản" cũng không oan. Nhìn lại lịch sử mới thấy cái nguy cơ cục bộ, địa phương, tức là phong kiến cát cứ, hầu như đã trở thành bệnh kinh niên tính từ thời thập nhị sứ quân đến nay đã tồn tại khoảng hơn ngàn năm.
Chúng tôi cũng thấy cần phải thẳng thắn phê bình Trung ương và Chính phủ nhiều khi rất hữu, rất buông lỏng để cho các "vua con" hoành hành gây mất ổn định. Đúng như nhân dân Nam Định đã có nhận xét và tổng kết tình hình bằng một câu ngắn gọn chắc nịch : dưới lộng quyền, trên bất lực.
Đại hội Đảng VII vừa qua nêu 4 nguy cơ là hoàn toàn đúng. Nhưng chúng tôi thấy không nên bỏ quên nguy cơ thứ năm này. Vì nó là nguy cơ của mọi nguy cơ.
Phải cân nhắc kỹ lại xem cái đơn thuốc phê bình và tự phê bình từng hữu hiệu một thời, liệu nay còn là phương thuốc vạn năng nữa không. Theo chủ quan chúng tôi nhận xét thì có nhiều con bệnh đã nhờn thuốc rồi.
Nhớ lại một thời, qua từng đợt chỉnh huấn, các đồng chí chúng ta từng thành khẩn tự phê bìnhvà chân thành phê bình xây dựng giúp đỡ nhau. Trong tình hình nước sôi lửa bỏng, cùng vào sinh ra tử với nhau, lòng trong như ngọc, chỉ một mực quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh, ai dám không thực lòng thương yêu đồng bào đồng chí, ai dám không can đảm thanh toán những vẩn đục dù nhỏ trong tâm trí mình. Tất cả cho lý tưởng ĐỘC LẬP TỰ DO và lý tưởng cộng sản. Chỉ nghĩ sai một chút, lòng đã cảm thấy hổ thẹn, cảm thấy như mình có tội với Nhân Dân, có tội với Cụ Hồ, cứ sau mỗi đợt chỉnh huấn chúng ta lại dũng cảm xông lên với tư thế con người mới, giành bằng được thắng lợi và quyết tâm xây dựng một cuộc đời mới, bắt một xã hội mới trong ước mơ phải trở thành hiện thực. 
Đẹp biết bao, những con người của một thời ! Sẵn sàng quên mình vì nghĩa lớn, đóng dấu ấn tuyệt vời vào thời đại, có thể cao đầu nhìn Lịch Sử và Nhân Loại mà lòng không chút ngượng ngùng.
Lẽ nào có thể yên tâm ngồi nhìn cái thời đẹp ấy một đi không trở lại ?!!!
Có lẽ chẳng cần dự nhiều, cứ ngồi hình dung ra cũng đủ thấy các vị tự phê bình và phê bình ra sao. Lòng vị nào cũng bất an, rối bời. Kẻ có lỗi, có tội lo lắng bị phát hiện đã đành. Ngay người tốt sống liêm khiết cũng lo. Nó làm bậy thật đấy nhưng phê nó đâu có dễ. Nó đã vậy, còn phe cánh, ô dù của nó thì sao ? Phê không cẩn thận thì đầu chẳng phải lại phải tai. Đặc biệt với những vị nào lại được một cấp có thẩm quyền hoặc bà xã (hoặc ông xã) "dặn dò" : phát động thì mạnh mẽ thế nhưng mình thì nên giữ mồm giữ miệng không khéo lại ảnh hưởng đến niêu cơm của gia đình đấy (do đó mà người ta hay gọi những vị có tinh thần phục thiện này là những người đã từ bỏ tinh thần Mácxít thành người "Mácmít" (Marmite tiếng Pháp có nghĩa là cái nồi để chỉ những người chỉ đặt lợi ích của bản thân và gia đình mình trên hết).
Còn các vị tiêu cực thì nhìn nhau và cùng thống nhất chủ trương : ông không động đến mày thì mày cũng đừng động đến ông. Loanh quanh chỉ còn lại là :
- Chúng tôi có sai lầm, nhưng đây là chủ trương của tập thể cơ quan, của cấp ủy, do có ý thức tổ chức và tôn trọng tập thể lãnh đạo nên chúng tôi mới phạm khuyết điểm nặng như thế. Mong các đồng chí xét hoàn cảnh khách quan, chủ quan mà thông cảm cho.
- Chúng tôi xin thẳng thắn phê bình đồng chí Bí thư (hoặc thủ trưởng đơn vị,), đ/c có khuyết điểm lớn là không chú ý bảo vệ sức khỏe của bản thân mình, đ/c cần nhớ sức khỏe của đ/c là của Đảng và của tập thể cơ quan.
- Đ/c còn có khuyết điểm là đối với cấp dưới hay xuê xoa, nể nang, chưa ngăn chặn kịp thời một vài đ/c của mình đã cố tình vi phạm kỷ luật của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
Cứ thương yêu đoàn kết đấu tranh kiểu này rất khó tìm ra được đảng viên loại hai. Địa phương thì có bao nhiêu việc bê bối nhưng chất lượng đảng viên lại là 89%, 92% (Sở VHTT TPHCM), thậm chí có nơi còn 98,37% (Phú Nhuận) đảng viên thuộc loại 1.
với cái sai, cái xấu, cái tiêu cực thế thì đặt ra việc chỉnh đốn Đảng làm gì cho thêm tốn thì giờ, tiền bạc, lại còn làm hoang mang nội bộ.
Cũng cần góp ý phê bình thẳng thắn bản ghi 19 điều cấm đảng viên không được làm. Không hiểu đ/c chuyên viên nào lại tham mưu cho Ban tổ chức Trung ương qui định cả những điều cấm vi phạm Hiến pháp và luật pháp như điều cấm đảng viên không được tự ý ứng cử.
Xin hỏi người thảo ra những điều luật kiểu này quan niệm đảng viên là thuộc loại người như thế nào trên đất nước này. Luật pháp đã qui định chỉ có những người bị tù tội (mất quyền công dân) hoặc những công dân bị bệnh tâm thần, mất trí không tự điều khiển được hành vi của mình mới không được quyền bầu cử hay ứng cử. Chắc chắn là họ không dám xếp các đảng viên của chúng ta vào loại người kể trên.
Vậy, vào loại nào ? Chẳng lẽ họ lại dám coi đảng viên là một thứ người "siêu công dân" chăng, nên chẳng cần có nghĩa vụ gì trong việc thực thi hiến pháp và gương mẫu tuân thủ pháp luật.
Theo thông lệ, mọi người vẫn nghĩ rằng : đã là đảng viên thì phải dứt khoát là giác ngộ hơn quần chúng và dứt khoát phải gương mẫu về mọi phương diện "đảng viên đi trước, làng nước theo sau". Anh là đảng viên mà anh lại vi phạm Hiến pháp, coi thường pháp luật thì hỏi anh còn giáo dục được ai ? Anh còn nói được ai ? và ai còn chịu nghe anh ? Không thể không nghiêm khắc với những kẻ dám coi thường kỷ cương phép nước như thế.
Xin đừng nghĩ nhầm là đợt chỉnh đốn Đảng cực kỳ quan trọng này chỉ nhằm kiểm điểm những đảng viên tiêu cực thoái hóa về đạo đức và tham nhũng hối lộ. Trước hết, theo chúng tôi, là phải kiểm điểm nghiêm khắc từng đảng viên về mặt nhận thức đối với Hiến pháp và Pháp luật. Trên một đất nước, người đảng viên và người không đảng viên, ai ai cũng đều sống và làm việc với tinh thần "thượng tôn pháp luật", ai ai cũng hết lòng thực thi đúng nghĩa vụ và quyền hạn công dân của mình thì có thể nào Dân không giàu, Nước không mạnh, xã hội không công bằng văn minh ? Liệu có lực lượng thù địch nào có thể phá hoại nổi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa thiêng liêng của chúng ta ?
Vừa qua, chúng ta bảo nhau "học lại" (Lê Khả Phiêu) bài học dân vận của Bác Hồ là hoàn toàn đúng. Mỗi người trong chúng ta, phải "thuộc làm lòng" (Nguyễn Du) áng văn bất hủ này. Nhưng điều quan trọng là phải lĩnh hội được cái "thần" của áng văn. Quan trọng hơn nữa là phải bàn nhau "pháp chế hóa" mọi điều dạy dỗ thiêng liêng chưa từng có trong lịch sử này.
Đức Trần Hưng Đạo từng dạy dỗ vua Trần rằng : "Phải biết khoan thứ sức Dân để làm kế sâu rễ bền gốc". Lời dạy chính xác và thiêng liêng này nếu được nghe theo thì đất nước Đại Việt này đâu đến nỗi ! Vua Trần đã vậy, mà ngay cả các vua Lê, vua Nguyễn sau này nghe hay không nghe, theo hay không theo, làm hay không làm hoàn toàn tùy "tâm" quí vị. Ai biết "tu thân", "tề gia" thì nghe theo mà "trị quốc". Còn không chịu nghe theo cũng chẳng "ai đòi ai bắt" (Nguyễn Đình Chiểu) nổi các vị. Xem thế mới biết, Cụ Hồ đúng là kết tinh của một trường kỳ lịch sử trí tuệ và tư tưởng Việt Nam. (đâu có thể nhầm lẫn mà nói rằng Cụ chỉ là người vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác Lênin .... Tất nhiên phải khẳng định rằng tư tưởng Hồ Chí Minh là tư tưởng Việt Nam ở thế kỷ XX này, rất đậm Mác Lênin). Chúng tôi trân trọng đề nghị, những điều dạy thiêng liêng này phải được ghi vào Hiến pháp và phải được hóa thân thành một đạo luật vì tất cả đều là rất Hồ Chí Minh, rất Việt Nam, rất truyền thống và cũng cực kỳ hiện đại.
Đối với bản Di chúc Hồ Chí Minh thiêng liêng, chúng tôi nghĩ cũng phải làm như vậy. Một trong những điều quan trọng hàng đầu trong bản Di chúc này là Người nhấn rất kỹ cái vị thế kép của Dân, của Đảng. Thế mà Đảng quên đằng Đảng, Dân quên đằng Dân, thật là một điều đáng buồn.
Một văn bản quan trọng đến như thế mà dám tùy tiện cắt xén. Thật là một chuyện động trời không tưởng tượng nổi. Theo nếp nghĩ truyền thống, tất cả những lời trối trăng của bất cứ người đã khuất nào đều là thiêng liêng và được mọi người sống tôn trọng. Con cháu nhà nào làm sai lời trối trăng của ông bà, cha mẹ, đều bị chê là bất hiếu và làm ăn sẽ bị lụn bại. Tục gọi là "sái". Vì sợ "sái" cho nên chẳng ai dám làm sai. Riêng đối với những lời trối trăng của vua chúa hoặc những nhân vật quan trọng thì được trân trọng gọi là "di chúc" hoặc "di huấn", không làm theo thì bị "sái" cả dòng họ, thậm chí "sái" cả quốc gia.
Một chứng cứ hiển nhiên là lời di huấn đúng đắn và thiêng liêng của Đức Trần Hưng Đạo đã không được các vua mạt Trần, mạt Lê, mạt Nguyễn tuân theo nên cơ đồ Đại Việt, Đại Nam suy sụp như thế nào, lịch sử đã được chứng kiến (tất nhiên lời di chúc hay di huấn nào có hại cho lợi ích quốc gia thì cũng không nên theo. Lời di chúc của An Sinh vương Trần Liễu không được đức Trần Hưng Đạo tuân theo vì Ngài đã biết đặt lợi ích của vương triều, của quốc gia lên trên lợi ích của gia đình).
Chúng ta phải tuân theo Di chúc Hồ Chí Minh không phải vì thần thánh hóa Người hay sùng bái cá nhân Người, mà vì đó là chân lý của Dân Tộc và Thời Đại, là nguyện vọng và ý chí của toàn thể Dân Tộc, là lẽ sống làm người, là lẽ sống của Dân Tộc. Sâu xa hơn cả, đó là trí tuệ và tư tưởng Việt Nam, là tình nhân ái Việt Nam.
Nói theo ngôn ngữ chính trị và quân sự, Di chúc Hồ Chí Minh là một bản đồ chiến lược có kim chỉ nam định hướng chính xác, đảm bảo chống lại mọi lực lượng thù địch với Việt Nam và nhân loại, đảm bảo cho Việt Nam đến đích Dân chủ và Giàu mạnh, vĩnh viễn xóa nghèo nàn và lạc hậu, vĩnh viễn sánh vai sóng bước cùng các quốc gia tiên tiến nhất trên địa cầu.
Một văn bản lịch sử thiêng liêng như thế mà dám cả gan cắt bỏ những điều quan trọng hàng đầu.
Không hiểu họ nghĩ thế nào mà dám cắt rồi dấu đi "lệnh" xá thuế cho nông dân sau ngày Đại Thắng. Chẳng lẽ họ lại không hiểu đất nước Việt Nam thực chất là đất nước của NÔNG DẤN hay sao ?
Chẳng lẽ họ lại quên đi nỗi đau khổ và khát khao ngàn đời của Dân ta hay sao ?
Giữa những năm được mùa mà vua Lý còn hạ lệnh xá thuế cho dân cày, nghĩa là để cho Dân được no thêm, vui thêm. Sau trận Bạch Đằng đại thắng quân Nguyên, hai vua Trần hạ lệnh mở kho cho toàn dân được ba ngày "thái bình diên yến" và kèm theo lệnh đại xá tù nhân và xá thuế.
Thế mà ta vẫn tự hào là cách mạng và ưu việt nhất trong lịch sử (kể ra con hơn cha, con cháu hơn ông bà ông vải đều là đại hồng phúc, tổ tiên từ xưa cũng chỉ mong có như thế). Thế mà dám bỏ truyền thống tôn trọng di chúc, lờ đi Di chúc của Cụ Hồ, phớt lờ quyền lợi của Nông Dân. Sau ngày đại thắng đế quốc Mỹ, vẫn trói Nông Dân rất chặt. Tận 11 năm sau thấy tình hình nguy cấp mới vội vàng bảo nhau cởi trói cho bà con Nông Dân nghĩa là tổ chức "khoán" theo đúng chủ trương của đấng tiên liệt cộng sản Kim Ngọc, để giải phóng lực lượng sản xuất. Thế giới kinh ngạc: quái ! Việt Nam sao lại không sụp đổ ?
Việt Nam sụp đổ sao được khi vẫn còn trí tuệ, vẫn còn tình nhân ái.
Một điều cắt bỏ khác cũng không kém phần khủng khiếp. Đó là: "Trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước, phụ nữ đảm đang ta đã góp phần xứng đáng trong chiến đấu và trong sản xuất. Đảng và Chính phủ cần phải có kế hoạch thiết thực để bồi dưỡng, cất nhắc và giúp đỡ để ngày thêm nhiều phụ nữ phụ trách mọi công việc kể cả công việc lãnh đạo. Bản thân phụ nữ thì phải cố gắng vươn lên. Đó là một cuộc cách mạng đưa quyền bình đẳng thật sự cho phụ nữ". (Di chúc Hồ Chí Minh)
Rõ ràng họ không hiểu rằng Hồ Chí Minh là người đầu tiên trong lịch sử tư tưởng văn hóa nước nhà đã ghi thành văn bản khẳng định quyền bình đẳng của đàn bà đối với đàn ông từ thời kỳ đất nước còn đắm chìm trong nô lệ và Người còn đang phải bôn ba phiêu dạt tìm đường cứu nước. Điều quan trọng này, tư tưởng quan trọng này Người đã viết trong Tóm tắt chính cương của Đảng từ năm 1927. Và chính Người sau khi thành lập Nhà nước Dân chủ cộng hòa, đã chỉ đạo việc pháp chế hóa quyền sống, quyền hưởng hạnh phúc, quyền bình đẳng, quyền tham gia mọi hoạt động xã hội trong Hiến pháp và Luật Hôn nhân và gia đình, và trước khi vĩnh biệt cuộc đời, Người vẫn căn dặn phải tiếp tục giải phóng Phụ nữ và đưa Phụ nữ tham chính một cách rộng rãi.
Đúng như nữ sử gia Mỹ J. Stenson đã nhận định rất đúng rằng : "Trong số những lãnh tụ là nam giới như : Tô-mat Giephecxơn, Mahatma Găngđi, V.I. Lênin, Các Mác, Mao Trạch Đông, Macthin Luthơ King và Nensơn Menđêla, chỉ có Hồ Chí Minh đã luôn luôn bộc trực về quyền bình đẳng của phụ nữ, về giáo dục, tự do ngôn luận, độc lập về kinh tế và quyền của phụ nữ được hưởng các quyền lợi khác như nam giới. Chỉ Hồ Chí Minh là thấy được rằng phụ nữ đã phải chịu đựng những gánh nặng như nam giới và còn hơn thế nữa."
Suốt đời Người đau đáu lo lắng cho số phận và địa vị của người Phụ nữ. Thế mà dám cắt bỏ. Họ không hiểu tấm lòng Cụ Hồ đã đành mà còn có tội rất lớn đối với các Mẹ, các Chị, các Em gái Việt Nam.
Lại một lời dạy thiêng liêng khác có quan hệ đến truyền thống, đến thuần phong mỹ tục mới, đến nền kinh tế và môi trường cũng không làm theo :
Các vua Trần bảo thiêu, đức Trần Hưng Đạo bảo phải thiêu, thế là phải tuân theo răm rắp. Thế mới biết ta nhu nhơ, vô chính phủ thật.
Lại đưa lý do giữ thi hài Bác Hồ lại vì để đồng bào miền Nam vào ngày thống nhất có dịp được trông thấy Bác.
Thử hỏi đấy có thực sự là nhu cầu tình cảm của đồng bào miền Nam hay không ? Chẳng lẽ Đức Trần Hưng Đạo, Đức Lê Lợi, Đức Quang Trung và bao nhiêu bậc minh quân tiên liệt anh hùng khác kể cả Đức Tổ Hùng Vương mà ta không hề được chiêm ngưỡng chân dung thì ta bị lạc giống lạc nòi hết rồi sao. Ta không còn giữ được lòng biết ơn và thành kính noi theo nữa hay sao?  Đâu có phải cứ cần có mồ mả rồi năm thì mười họa đến thăm mới là tưởng nhớ. Không ! Hô Chí Minh tức là Đức thánh Hồ của Dân Tộc ta, cũng như bao nhiêu Đức thánh đã hiển linh trước Người có giây phút nào không sống trong tâm khảm của từng con dân nước Việt.
Vả lại trong thời đại hiện nay còn biết bao nhiêu phương tiện lưu giữ chân dung, hành trạng về cuộc đời hoạt động cao cả của Người, việc gì phải theo truyền thống thời Nguyễn. Tại sao chúng ta lại có thể nghĩ nông nổi hạ thấp một lãnh tụ vĩ đại của Dân tộc, một danh nhân văn hóa kiệt xuất của nhân loại ngang tầm với mấy ông vua Ai Cập cổ đại. (nhân đây cũng nói thêm về cái từ "Lăng" mà khi dịch ra tiếng Pháp là Mausolée thì danh từ chung Mausolée vốn xuất phát từ danh từ riêng Mausolof là tên một vị vua Ai Cập có ngôi mộ to nhất thế giới xây bằng đá. Các vua chúa phương Tây học tập các vua chúa Ai Cập đua nhau xây lăng mộ đã vắt kiệt sức nhân dân và hủy hoại nền kinh tế, thậm chí còn hủy hoại cả một nền văn minh. Còn từ "Lăng" vốn xuất phát từ phương Bắc để chỉ những khu mộ rộng lớn có khi đến hàng trăm hàng ngàn hécta; điển hình là khu lăng mộ Tần Thủy Hoàng, ngoài mộ thật lại còn hàng trăm ngôi mộ giả, chỉ lo kẻ thù hoặc người đời sau đào mả hoặc yểm mất long mạch. Các vua thời Nguyễn học tập, rập khuôn phương Bắc mới đua nhau xây mồ mả thật đồ sộ và mới được nghe dân ta thán đến muôn đời :
Vạn niên là Vạn niên nào
Thành xây xương lính, hào đào máu dân.
Lăng Vạn niên đâu có làm vẻ vang gì cho vua Tự Đức, các lăng khác cũng thế mà thôi.
Cụ Hồ  muốn nối tiếp và phát huy truyền thống Lý Trần về việc ma chay chôn cất. Thế mà ta lại dám chống lại ý Cụ, rồi theo truyền thống các vua Nguyễn để gây ra bao nhiêu tổn phí, hại bao nhiêu sức người sức của lại phản vệ sinh, phản môi trường, phản khoa học.
Nhân dân hiểu cả, muốn theo đúng ý Cụ Hồ mà không theo nổi. Bài Dân vận cũng bị quên đi thành ra ai nhớ được là Dân có quyền trong mọi chuyện từ nhỏ đến lớn ở đất nước này. Đại biểu Quốc hội muốn nói cũng chẳng dám nói, hiểu ý nguyện của Dân đấy mà cũng đành, cứ giơ tay, vỗ tay cho qua chuyện.
Có người đã thể hiện ý Cụ Hồ, ý Nhân Dân thành trường ca nhưng có bao giờ được xuất bản :
Sau vụ Giá - Lương - Tiền
Dân quá khổ kêu trời không thấu
May sao vọng tới Bác Hồ
Lập tức Bác cho gọi ngay anh Ba Duẩn
Vừa thấy mặt anh, Bác liền chất vấn :
- Các chú làm ăn lãnh đạo ra sao
để Nhân Dân khổ đau kêu ca như rứa ?
Anh Ba ấp úng thưa :
- Dạ thưa Bác,
Việc nhà nước do anh Tô điều hành
Còn phần tôi chuyên lo công tác Đảng ....
Nghe chưa dứt lời Bác vội cắt ngang :
- Chú là Tổng bí thư mà Dân sướng khổ ra sao lại không hay biết ?
Kỳ lạ thật !
Thế việc xây lăng tôi do ai đề xuất ?
- Dạ thưa Bác, việc này do ý anh Năm.
- ý chú Năm sai các chú cũng hùa theo
Tôi là vua chúa sao mà các chú cho nằm trong lăng đá ?
Sống, tôi chỉ cần một căn nhà nhỏ
Chết, tôi lại cần cái nhà mồ to chừng đó !
Tôi đã dặn thiêu đi các chú lại không nghe ?
Thật không ngờ các chú quá ngu !
Cũng mang tiếng luận bàn tập thể !
(Trích "Trường ca Hồ Chí Minh phán xét" - 1985 - Trần Khuê )


Như thế là Cụ Hồ muốn cách mạng thực sự, muốn cho Dân ta thoát ra khỏi quốc nạn lăng mộ. Các vua Nguyễn đã xây quá nhiều lăng mộ. Nay ta lại tăng cường lăng mộ từ cấp Trung ương cho đến cấp phường xã, thử hỏi nền kinh tế nào chịu đựng nổi. Liệu chúng ta có thể vin cớ là giữ gìn truyền thống dân tộc rồi bảo nhau lưu giữ mãi. Mà cái truyền thống hủ lậu này cũng mới thịnh hành từ đời Nguyễn chứ đâu có phải là truyền thống tốt đẹp ngàn năm. Cội nguồn ta đâu có phải là khăn đóng áo dài, ma chay cưới xin linh đình rườm rà, cỗ bàn tốn kém, mê tín dị đoan, buôn thần bán thánh .... Giả thiết đó thực sự là cội nguồn thì rễ nào mục cũng phải nhổ đi, nguồn chưa trong cũng phải thanh lọc đi, huống chi đó phần lớn là những thứ mới ngoại nhập từ thời Nguyễn.
Đúng là chỉ béo lũ cơ hội ! Lợi dụng lúc tình hình trong nước và quốc tế rối ren, kinh tế chính trị đều khủng hoảng, họ bảo nhau tìm ra các nguyên nhân để khắc phục.
Tệ hại nhất là có những người được mệnh danh là nhà "nghiên cứu văn hóa", "nghiên cứu khoa học", họ chẳng cần tìm hiểu nguyên nhân kinh tế, chính trị, xã hội ra sao, thấy tiện nhất là đổ lỗi cho phụ nữ, gia đình và đám học trò "bất trị" rồi hô hào "phục hồi tứ đức", phụ nữ phải trở về giữ mái ấm gia đình mà làm tròn "thiên chức". Khẩu hiệu dạy thật tốt, học thật tốt của Cụ Hồ được hạ xuống rồi thay bằng "Tiên học lễ, hậu học văn".
Sau khi ông giáo sư Léon Vandermessch - cựu giám đốc học viện Viễn Đông bác cổ - mang từ phương trời Tây tới một tác phẩm chứa đầy những nhận định và quan điểm sai lầm nhằm cổ động cho 5 con rồng châu Á và hô hào Việt Nam ta cũng mau mau noi gương mà phục hồi Khổng giáo và Tân khổng giáo để sớm hóa rồng; Thế là nhiều giáo sư học giả của ta vội vã hưởng ứng nhiệt liệt. Người thì kêu lên : mấy chục năm qua ta bỏ học Khổng giáo và chữ vuông là cắt đứt mất truyền thống và làm cạn kiệt nguyên khí quốc gia (Phan Ngọc, Mai Quốc Liên); người thì khuyến cáo các vị lãnh đạo trung ương và chính phủ ta nên mặc quốc phục khăn đóng áo dài cải tiến (Bộ Văn hóa); người thì khẳng định Cụ Hồ là người "tắm trong biển thánh"; như thế nghĩa là ta mà có quay lại với Đức thánh Khổng thì cũng vẫn là đang đi theo con đường Cụ Hồ.
Ít người bạo được như ông giáo sư tiến sĩ Đỗ Huy dám viết thành văn bản cái ý mà mấy vị khác chỉ dám xì xào truyền khẩu : hai cuộc kháng chiến vừa qua đã làm hại văn hóa, cản trở văn hóa dân tộc phát triển (*1 &amp; 2).
Riêng ông Trần Trọng Tân thì lại rẽ sang hướng khác. Ông cổ động cho Kitô giáo và chữ Quốc ngữ và gián tiếp khuyến cáo ta nên tri âm các vị cố đạo phương Tây và học tập Kitô giáo mà gia tăng thêm "tình người" (*3). Giáo sư Phan Ngọc lại còn biện hộ không công cho chủ nghĩa bành trướng phương Bắc và chủ nghĩa thực dân cũ phương Tây (*4).
Kinh hoàng nhất là tiến sĩ giám đốc sở VHTT TPHCM lại hô lên ở giữa một hội thảo khoa học về văn hóa rằng : tình hình văn hóa xuống cấp rất trầm trọng, phải làm thế nào cho "mọi người dân" không rơi vào xô bồ "mất gốc" (*5). Lại có người nhận định rằng phim ảnh của các nước rồng tuy có bạo lực, tình dục chút ít nhưng thể hiện được tinh thần lễ giáo, văn hóa, phép tắc Á Đông, nên để nó góp phần giáo dục tư tưởng cho thanh niên. Do đó có thời kỳ người ta ào ạt nhập phim Đài Loan, Hàn Quốc và đặc biệt mời cả nhà tư tưởng, chính trị Lý Quang Diệu sang ta và in luôn Tuyển tập bài viết của ông về phép trị dân, trị nước. Đủ hiểu trào lưu học tập 5 con rồng hào hứng đến thế nào. Cũng may là chưa có pháp lệnh ban hành đánh roi trong nhà trường cũng như ở nơi công cộng. Chỉ có dăm ba thầy cô tự phát "vận dụng" nên đã bị dư luận xã hội phản ứng (còn trong các trại giam thì hình hình cụ thể như thế nào chúng tôi chưa có điều kiện điều tra). Các xuất bản phẩm : vụ án, tình dục, bói toán .... cũng ào ạt xuất hiện trên thị trường sách và tiếp tục lai rai cho đến nay.
Người ta chỉ thấy tội ác của chủ nghĩa thực dân mới chứ ai dám bắt lỗi những luận điểm gớm ghiếc của mấy vị học giả kia.
Thế là ta tưởng trở về với cội nguồn theo kiểu đó, lục lại những tín điều Khổng giáo và giáo lý của các tôn giáo thì sẽ ổn định được xã hội, ổn định được kỷ cương phép nước, nhưng tình hình đã rối càng rối thêm. 
Chúng tôi từng nhắc đến một tình hình đặc biệt khó khăn của Việt Nam ta. Cách mạng tư sản Pháp 1789 chỉ phải chọi với một đối tượng là hệ ý thức tư tưởng phong kiến để củng cố hệ ý thức tư tưởng tư sản. Giả thiết, nay các nước tư bản phát triển như Mỹ, Anh, Pháp có làm cách mạng vô sản thành công thì giai cấp vô sản ở đó cũng chỉ phải chọi nhau với một đối tượng tức hệ ý thức tư tưởng tư sản mà thôi. Còn ta cùng một lúc phải chọi nhau với hai đối tượng : cả hệ ý thức tư tưởng tư sản lẫn hệ ý thức tư tưởng phong kiến. Một thời, chúng ta tưởng nhầm rằng hệ ý thức phong kiến chỉ là tàn dư. Thực ra không phải, mới chỉ là sự thoái lui, mai phục, khi có thời cơ là trỗi dậy không kém phần mạnh mẽ. 
Đặc biệt, hệ ý thức tư sản, về nguyên tắc, là không đội trời chung với hệ ý thức phong kiến, nhưng khi vì lợi ích chung lại sẵn sàng "liên minh thần thánh" với nhau. Ta tiến công anh A thì anh B lên tiếng ngay : cứ hiện đại hóa cho lắm vào, toàn là mất gốc, bỏ truyền thống dân tộc, phủ nhận sạch trơn quá khứ, mất hết lễ giáo kỷ cương. Nghe họ, có lúc ta đã khôi phục nhiều cái cũ một cách vô nguyên tắc, sinh nhiều tệ nạn. Khi ta sửa gáy anh B thì anh A cũng lập tức lên tiếng : cứ luyến tiếc ôm ấp quá khứ thì làm sao hiện đại hóa nổi, 30 năm chiến tranh qua lâu rồi, các anh còn nhắc lại làm gì, giai cấp đấu tranh lỗi thời rồi, Cụ Hồ với Mác Lênin cũng lỗi thời rồi; cứ khư khư bảo thủ thì làm sao hội nhập được với thế giới hiện đại, các nước trong khu vực của anh có ai phải kháng chiến gì đâu mà sao họ phát triển nhanh thế .... Nghe họ nên nhiều người trong ta bảo nhau : thôi đừng cứng rắn quá, phải "thoáng" đi chứ ! Chiến thắng oanh liệt của quá khứ cũng nhắc vừa phải thôi. Mình đang giao lưu thân thiện với họ, không cẩn thận thì ảnh hưởng đến viện trợ ODA và ảnh hưởng cả đến việc cho vay của Ngân hàng thế giới.
Thế là họ "thoáng" đến mức trong bộ từ điển Bách khoa Việt Nam, họ bỏ luôn các mục từ : chiến thắng Như Nguyệt, chiến thắng Chi Lăng, chiến thắng Rạch Gầm Xoài Mút, chiến thắng Đống Đa và tiện thể bỏ luôn cả chiến thắng Điện Biên Phủ 54 và chiến thắng Giải phóng Sài Gòn 75.
May sao họ còn sợ Đức thánh Trần nên ghi chiến thắng Bạch Đằng của Người đúng 7 dòng (tức 3 dòng rưỡi của khổ sách). Ai không tin xin mời mở ngay từ điển Bách khoa tập I mới xuất bản năm 97 mà coi.
Để khỏi lộ liễu, họ cũng tỏ ra quan tâm đến quá khứ. Nhưng quá khứ nào ?
Họ rủ nhau rửa mặt, chạy tội "cõng rắn cắn gà nhà" cho vua Gia Long. Họ ca tụng luật Gia Long; họ bào chữa tội giết anh và tội đàn áp cuộc khởi nghĩa Đoàn Trưng và hàng trăm cuộc khởi nghĩa nông dân của vua Tự Đức, họ ca tụng vua Minh Mệnh có công Hán hóa tất cả chục ngàn tên làng xã trong cả nước và bắt toàn thể phụ nữ vùng văn minh lúa nước sông Hồng bỏ váy mặc quần cho đúng với kiểu nhà Thanh.
Thế là luật Gia Long rập đúng khuôn mẫu luật Mãn Thanh, rồi bên kia Đại Thanh nhất thống chí thì bên đây cũng Đại Nam nhất thống chí, bên kia Thông giám cương mục thì bên đây cũng Thông giám cương mục, rồi Tử Cấm thành, điện Thái Hòa, điện Cần Chánh nhất nhất đều rập khuôn một cách "sáng tạo" (sửa sang lại còn chưa đủ, lại còn định bảo nhau phải phục chế lại điện Cần Chánh làm sao phải giống hệt cái điện Cần Chánh đã mất). Ngay hàng trăm bài thơ chữ Hán (không hề có một bài chữ Nôm nào) khắc trên điện Thái Hòa, toàn là "đạo" các tứ thơ từ đời Hán, đời Đường, ngay thời Pháp thuộc và thời Mỹ ngụy cũng chẳng có học giả nào dám lên tiếng ca tụng, thế mà bây giờ lại xúm vào khen nức khen nở.
Trên đài truyền hình TPHCM lại xuất hiện các vị học giả (giáo sư Hoàng Như Mai, tiến sĩ Mai Quốc Liên) bốc thơm các vị vua Nguyễn thành những ông vua văn hóa của dân tộc. Sợ nhất là tạp chí Kiến thức ngày nay - phụ trương của Hội nhà văn TPHCM) đã mấy lần in ảnh ông cựu hoàng Bảo Đại và bà cựu hoàng hậu Nam Phương, lại còn ca tụng bà Nam Phương xứng đáng là "mẫu nghi thiên hạ". Chẳng hiểu học giả Nguyễn Đắc Xuân lục được ở đâu ra lời kêu gọi chống Pháp của bà Nam Phương, thế là cũng làm ầm ĩ lên một hồi (chưa thấy đưa chứng cứ cụ thể cho mọi người thực mục sở thị). Đáng kinh ngạc và đáng sợ nhất là báo An ninh thế giới của Bộ Công an ta lại còn chường mặt vợ chồng ông bà cựu hoàng lên hẳn trang nhất. Gần đây, trên mặt báo Sài gòn giải phóng lại còn nhắc lại câu : "Trẫm làm dân một nước độc lập còn hơn làm vua một nước nô lệ ", và lại còn bảo câu nói đó đang còn âm vang trong lịch sử. (*). Có lẽ họ - Ban biện tập báo SGGP không biết rằng câu nói của ông Bảo Đại chẳng qua là do ông Trần Huy Liệu, trưởng đoàn đại biểu Chính phủ lâm thời lúc bấy giờ mớm cho. Và chính ông cựu hoàng này cũng đã nhả ngay câu nói đầy ý nghĩa này ra để một lần nữa lại cam tâm làm một ông Quốc trưởng bù nhìn cho kẻ thù của dân tộc.


Lại còn Hội đồng KHXH TP. mới đáng lạ. Chính nhà chí sĩ yêu nước kiêm sử gia Phan Bội Châu đã viết rành rành trong cuốn Việt Nam vong quốc sử của cụ rằng : Bà Từ Dũ (mà cụ gọi khinh thường là mụ) cùng với vua Tự Đức, cả hai mẹ con bàn với Nguyễn Văn Tường thông đồng với giặc. Có người đưa chứng cứ này ra thì Bệnh viện Từ Dũ đã đổi tên thành Bệnh viện Phụ Sản. Thế mà các vị này chưa hề đưa chứng cứ và lập luận để chứng minh được rằng cụ Phan Bội Châu nhận định như thế là sai. Không hiểu Hội đồng này thuyết phục thế nào mà Bộ Y tế và UBND TPHCM lại phục hồi khắc 4 chữ vàng "Bệnh viện Từ Dũ" treo trở lại. Thế là một loạt vị lại đua nhau "ăn theo" viết sách, báo, lên truyền hình ra sức ca tụng công lao đức độ của bà Từ Dũ, lờ hẳn chuyện bán nước. Rút cục việc mất nước, hồi đầu thế kỷ này chẳng có ai phải chịu trách nhiệm. Vài ba sử gia hiện đại rất có uy tín của ta như GS Phan Huy Lê kết luận việc mất nước là tất yếu. Thế là xong, khỏi bàn cãi.
Theo ý chúng tôi, nếu Bộ Y tế cứ giữ tên Từ Dũ là quyền của Bộ. Nhưng nên đổi tên các Bệnh viện Trưng Vương, Nguyễn Tri Phương, Phạm Ngọc Thạch cho khỏi vàng thau lẫn lộn.
Các vị này cùng với mấy người làm báo chơi trò câu khách rẻ tiền kia chẳng lẽ lại không hiểu rằng việc làm của họ tác hại đến trận địa văn hóa tư tưởng và gây nhiễu một cách đáng sợ như thế nào chăng ?
Vài năm gần đây, mấy ông nghiên cứu sử học, dân tộc học (GS Mạc Đường, TS Đinh Văn Liên ....) ở Viện KHXH TPHCM lại chơi thêm trò hội thảo quốc tế Việt Nhật : Họ hoa tay múa lưỡi một lúc : thế là "phát xít Nhật" thành "người Nhật", "xâm lược" thành "hiện diện", "hai triệu đồng bào chết đói năm 45" còn có "hơn một triệu", "Viện trợ Nhật cho ngụy quyền Sài Gòn thành "Viện trợ nhân đạo cho nhân dân miền Nam". Và họ còn to gan lớn mật đến mức biến cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước vĩ đại của ta thành "một cuộc nội chiến".
Mới có mấy chục ngàn đô la mà trắng đen biến hóa lung tung. Họ quên mất rằng xuyên tạc lịch sử đã được ghi thành một tội danh trong luật. Và còn đạo lý nữa chứ !
Lại nói về Hội thảo quốc tế Việt Nam học lần đầu tiên được tổ chức ở thủ đô ta, 278 đại biểu quốc tế với 300 đại biểu trong nước. Thế mà ban tổ chức Hội thảo không dám treo quốc kỳ, quốc huy thậm chí tượng Cụ Hồ cũng cất biến đi. Trên chủ tịch đoàn không thấy một đại biểu nữ khoa học Việt Nam nào. Thảo luận thì có đủ các thứ tiểu ban về đủ thứ vấn đề nhưng tiểu ban thảo luận về danh nhân văn hóa Hồ Chí Minh thì lại không có. Dư luận bàn rằng Hội thảo về Việt Nam, về văn hóa Việt Nam mà không thảo luận về nhân cách văn hóa kiệt xuất của Việt Nam và thế giới tức là nhân cách văn hóa Hồ Chí Minh thì làm thế nào để hiểu thấu nổi bản sắc văn hóa Việt Nam. Dù "hữu hảo" đến đâu, dù "thoáng" hay "mềm dẻo" đến đâu cũng phải bảo tồn lấy bản sắc mà phát triển chứ ? Tưởng cũng nên cân nhắc lại xem, có nên vì vài trăm ngàn đô tài trợ mà phải "thoáng" đến mức thế chăng ? Dứt khoát không được phép bảo thủ nhưng cũng dứt khoát không được phép vô nguyên tắc. Hội thảo về mình, ngay trên đất nước mình mà còn thiếu tự tin, tự trọng đến như thế, thử hỏi khi lại hội thảo về mình trên đất nước người thì miệng lưỡi khoa học, miệng lưỡi văn hóa của chúng ta còn phải uốn éo ra sao cho vừa tai, đẹp ý những người mua vé máy bay và lo chỗ ăn ở cho mình.
Nói bao nhiêu lại đau lòng bấy nhiêu !
Thế mới biết Cụ Hồ tiên tri giỏi thật !
Ngay từ những năm đầu cách mạng và kháng chiến, Cụ đã tiên đoán cái tình trạng "lại tổ", "lại cái" của cán bộ đảng viên ta. Cụ đã bảo phải đề phòng bệnh công thần, bệnh quan cách mạng, bệnh tham nhũng, óc lãnh tụ, óc bè phái, óc cục bộ địa phương. Đặc biệt là óc quan liêu, cửa quyền, đè đầu cưỡi cổ nhân dân.
Rõ ràng, trong Đảng ta có những người thì vô tình, có rất nhiều kẻ cố ý quên đi những lời dạy của Người.
Trong nhân dân ta cũng có những bộ phận phạm sai lầm và phải chịu trách nhiệm về tình trạng tồi tệ của nhiều cán bộ đảng viên thoái hóa hiện nay vì đã quên đi cái vị thế rất quan trọng mà Cụ Hồ và cách mạng đã trao cho mình : nước ta là một nước dân chủ, nhân dân là người chủ đất nước, tất cả mọi quyền bính đều thuộc về nhân dân.
Thế mà, có lẽ do đã phải sống quá lâu, hàng ngàn năm phong kiến và hàng trăm năm thuộc địa nên đã ngấm vào máu cái ý thức làm thân phận nô lệ. Do đó luôn nghĩ rằng dù thế nào mình cũng vẫn là phận dân đen con đỏ. Làm cách mạng xong thì coi như được làm "phó thường dân". Cứ mặc cảm tự ti một cách đáng thương như thế nên nhìn lũ đầy tớ của mình thành quan phụ mẫu, thành tân quan cách mạng cả. Để cho lũ tiêu cực tham nhũng cường hào mới, nhúng nhắng múa máy hoạnh họe đè nén bằng ấy năm trời cũng là có phần lỗi tại mình chứ đâu chỉ lỗi tại Đảng hay Chính phủ. Mình là công dân thì mình phải học tập Hiến pháp, luật pháp, nắm cho vững mà làm tròn nghĩa vụ và quyền hạn của CÔNG DẤN. Ở vị thế công dân, anh phải tôn trọng Đảng, Chính phủ, tôn trọng những người được giao quyền lãnh đạo, quyền quản lý đất nước. Nhưng chớ có quên lời Cụ Hồ dạy : "Đảng vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân" (Di chúc). Đảng viên nào chỉ nhớ vị thế thứ nhất mà quên đi vị thế thứ hai thì có trách nhiệm nhắc nhở họ. Nhắc nhở mãi mà họ vẫn không nhớ, vẫn ngoan cố hoành hành ngang ngược, tự tung tự tác thì phải kiến nghị với chính phủ "đuổi" chúng đi. Cụ Hồ đã nói : Chính phủ không tốt, nhân dân còn có quyền đuổi đi huống chi ba lũ sâu mọt, bất lương, phản chủ, phản quốc này.
Ở điểm này, Dân với Đảng lại phải bàn bạc với nhau thật thấu đáo xem những kẻ nào đáng bị đuổi đi, những kẻ nào đáng được giữ lại để giáo dục dần dần.
Đành rằng dân ta anh hùng thì cả thế giới đều đã biết tiếng. Tần, Hán, Đường, Tống, Nguyên, Minh, Thanh, Pháp, Nhật rồi lại Pháp, rồi siêu cường Mỹ, rồi Bành trướng ...., rồi cả đám mạt Lý, mạt Trần, mạt Lê, mạt Nguyễn có kẻ xấu, kẻ ác nào mà Dân này tha không đuổi đi.
Ném chuột, đuổi chuột nhưng không được để vỡ lọ quí. 
Hắt nước bẩn nhưng chớ hắt cả đứa con yêu của mình. 
Không phải chỉ bảo nhau học lại lời Cụ Hồ đã đủ. Học phải đi đôi với hành, nghĩa là phải chân thành thẳng thắn bàn bạc với nhau, tránh cái thói mà Cụ Hồ đã phê phán : "Không nói trước mặt hục hặc sau lưng". Bất cứ trong hoàn cảnh như thế nào cũng không được làm hỏng nghiệp lớn. Ai không có tâm thành bàn bạc để cho nghiệp lớn đổ vỡ, hẳn những kẻ đó vĩnh viễn đắc tội với Đức Tổ Hùng Vương và Đức Thánh Hồ cũng như bao đấng bậc anh hùng tiên liệt và hàng trăm thế hệ đã đổ mồ hôi, đổ xương đổ máu vì sự tồn tại của đất Việt này.
Nên nhớ rằng, khi nhân dân ta thờ Đức Thánh Hồ Chí Minh không phải chỉ trong đền đài mà ở trong lòng mỗi người thì không được coi đó là sự mê tín. Ngược lại, đó là một niềm tin hết sức sáng suốt, một tâm thế rất cao của toàn thể dân tộc trong suốt trường kỳ lịch sử. Thờ thần thánh, tổ tiên ở đất Việt này là cả một nghệ thuật kiến trúc đời sống tâm linh một cách kiên cố nhằm bảo tồn bản lĩnh Việt và thắng mọi lực lượng chống Việt. Hình thức thờ cúng có thể theo thời gian mà thay đổi cho phù hợp với thời đại. Còn tâm linh thờ cúng thì muôn đời sau cũng không biến đổi và cũng không một lực lượng nào có thể cưỡng ép người ta biến đổi. 
Và dân ta thì thừa dân trí để hiểu rằng cần thờ ai và không cần thờ ai. Xin phép được hỏi các vị giáo sư và tiến sĩ : vừa qua, có nơi nào lập đền thờ ngài Gia Long (ngoài hoàng tộc ở Huế) xin vui lòng chỉ cho chúng tôi được rõ. Còn vua Quang Trung người ta vẫn thờ, mặc dù cứ phát hiện ra là chết chém. Cũng nên nghiên cứu thêm để hiểu thấu hơn nữa, chính xác hơn nữa hiện tượng cả nước thờ Đức Thánh Trần và Đức Thánh Mẫu : Tháng Tám giỗ Cha, tháng Ba giỗ Mẹ
Người xưa nói rằng : cứ 500 năm mới có thánh nhân xuất hiện. May mắn thay, tính từ anh hùng dân tộc Quang Trung, chưa đầy 200 năm, đất nước đã xuất hiện thánh nhân mới. Mà Hồ Chí Minh của chúng ta đúng là một hiện tượng lạ trong những hiện tượng lạ hiếm có trên đời. Có lẽ lịch sử nhân loại cũng chưa ghi nhận được hiện tượng nào tương tự. Trong hơn nửa thế kỷ đấu tranh quyết liệt của Người, mọi phương tiện truyền thông hiện đại của kẻ thù và cả những kẻ thù chính trị đầu sỏ của đối phương và bộ máy tâm lý chiến của họ cũng bảo nhau không xúc phạm đến Người mà chỉ nghiêng mình thi lễ và bày tỏ lòng cảm phục (Đọc những hồi ký gần đây của các nhân vật chính trị, quân sự ở Pháp, ở Mỹ, người ta càng thấy rõ hơn điều đó).
Chúng tôi đã hơn một lần nhắc đến sự kiện đại biểu của 183 nước trong tổ chức UNESCO của Liên hiệp quốc với các khuynh hướng triết học, chính trị, tôn giáo khác nhau, đã nhất trí bỏ phiếu bầu, tặng Người danh hiệu "Người anh hùng giải phóng dân tộc" và "Danh nhân văn hóa kiệt xuất" của thế giới.
Đó là sự công bằng của lương tri loài người. Mãi mãi chúng ta và các thế hệ con cháu chúng ta có quyền tự hào rằng Hồ Chí Minh kính yêu của chúng ta không chỉ sống trong lòng Dân tộc mà còn sống trong lòng Nhân loại. Chúng ta còn phải tiếp tục với trách nhiệm làm sáng danh Hồ Chí Minh, làm sáng danh Việt Nam.
Nhưng phải bằng cách thực hiện đúng ý nghĩ cao cả và tốt đẹp của Người chứ không phải bằng mồ to mả đẹp. Nếu làm nhầm, làm sai ý Người thì phải có can đảm sửa. Chúng ta đề nghị Tổng cục thống kê và Bộ Tài chính thử tính sổ xem 30 năm qua, ta đã tiêu tốn vào lăng Người tổng số là bao nhiêu tiền của. Và từ nay đến hết năm 2000, chúng ta dự toán sẽ chi tiếp là bao nhiêu. Và thử đem riêng ngân sách dự chi cho năm 2000 xem có thể xây được bao nhiêu trường học cho 1000 xã hãy còn trắng về giáo dục ở vùng cao. Có thể xây được bao nhiêu căn nhà để nuôi trẻ mồ côi đang lang thang ở các đô thị (vừa nuôi vừa dạy nghề cho các cháu); có thể xây bao căn nhà dưỡng lão cho người già lão cô đơn không nơi nương tựa. Có thể xây bao nhiêu nhà thương làm phúc chữa bệnh cho người nghèo. Nếu dự toán ngân sách cả 5 năm hoặc 10 năm tới thì ta sẽ giải quyết được những phần gì trong ý nguyện của Bác : ai cũng có cơm ăn, áo mặc và được học hành.
Vậy, còn ngần ngại gì mà không bàn nhau đưa ra nghị quyết vâng theo lời Bác mà thiêu di hài Bác. Chỉ xin thưa với Bác là cho phép chia làm bốn. Ba phần làm theo đúng lời Bác, còn một phần thì để lại ở lăng, có đặt một đỉnh hương trầm và một bát hương lớn để cho bà con trong nước và bạn bè quốc tế đến thắp hương lễ Bác. Lăng thì nên sửa sang lại phần bên trong để bày các hiện vật nói về cuộc đời hoạt động của Bác. Tức là lăng sẽ trở thành Viện Bảo tàng Hồ Chí Minh. Binh đoàn gác lăng Bác thì có thể chuyển về sản xuất, làm thế "ngụ binh ư sản xuất". Chỉ cần giữ lại vài ba chục người để trông coi việc quét dọn lăng và giữ việc hương khói là đủ. Hẳn Bác ở dưới suối vàng cũng ngậm cười thấy rằng con cháu và Trung ương Đảng đã làm theo đúng ý nguyện của mình và đất nước chắc chắn sẽ qua được "vận sái" sẽ lành mạnh, no ấm và phát triển nhanh chóng.
Nhân đây, chúng tôi cũng trân trọng kiến nghị : tất cả các đ/c ủy viên Bộ Chính trị và Trung ương Đảng ta, dù cũ dù mới, nên làm theo lời di chúc của Bác đối với bản thân mình, thay việc chôn cất mồ mả bằng hình thức hỏa táng hoặc điện táng. Lời Người đã khuất mà sai thì không nên theo, nhưng đúng thì nhất thiết phải theo, phải thực hiện nghiêm túc.
Lời Bác dạy, khi chết nên hỏa táng, lợi ích về mọi mặt như thế nào chắc không cần bàn thêm. Mấy năm qua, chính phủ ta đã cho lệnh nhập công nghệ điện táng (Hà Nội) và công nghệ hỏa táng (TPHCM), nhưng công suất của cơ sở Hoàn Vũ ở Thủ đô còn rất thấp. Nếu Bộ Chính trị, Trung ương ta và các đồng chí đảng viên tiên tiến, tiên phong gương mẫu kế theo tầng lớp các nhà khoa học, các văn nghệ sĩ chân chính, các trí thức ưu tú v.v. nghĩa là những tầng lớp được coi là ưu tú, tinh hoa của đất nước nối gót theo, hẳn chẳng bao lâu chúng ta sẽ phục hồi được một thuần phong mỹ tục đã hình thành từ thời Lý Trần. Đây thực sự là một sự "về nguồn" đầy ý nghĩa khoa học, thực tiễn, vừa hiện đại lại vừa rất dân tộc. Nếu cần, Trung ương ta nên họp bàn và ra một nghị quyết hẳn hoi - Nghị quyết này dứt khoát sẽ gặp phải sự chống đối nhưng tin rằng chúng ta thừa lý luận và thực tiễn để thuyết phục những người chống đối. Cứ xem lệnh cấm pháo của chính phủ Võ Văn Kiệt thì biết, thấy lợi ích là nhân dân hưởng ứng ngay, răm rắp tuân theo ngay. Một số người luyến tiếc phong tục cổ truyền ngấm ngầm vi phạm, sau khi bị trừng phạt cũng dần dần tỉnh ra. Thay đổi phong tục tập quán lạc hậu tức là thay đổi thói quen của hàng triệu người, đòi hỏi bản lĩnh lớn và tinh thần quả quyết.






Đối Thoại Năm 2000 
 Dân chủ: Vấn đề của dân tộc và thời đại (b)
Trần Khuê - Nguyễn Thị Thanh Xuân
Trong bài "Chính đốn để tồn tại và phát triển" chúng tôi đã nói rằng chúng ta phải xem xét nhận thức lại cái cơ chế : "Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, nhà nước quản lý".
Trước đây, chúng ta đã nhất trí hoàn toàn với nhau về cơ chế này. Nếu tất cả đều suôn sẻ, xuôi chèo mát mái, chẳng có gì cần bàn thêm. Nhưng thực tiễn hoạt động và thực tế xã hội chứng tỏ rằng nếu không duyệt lại nhận thức và sửa lại cơ chế thì dứt khoát không ổn.  
Trước hết, hãy nói về sự cầm quyền của Đảng. Từ xưa tới nay, vai trò độc quyền lãnh đạo được chúng ta nhấn đi nhấn lại, coi đó là một chân lý tuyệt đối, nhất thành bất biến. Đó là một điều đúng, nhưng rất tiếc có nhiều người lại nhận thức một cách rất sai. Trong khi họ vẫn tự nhận rằng họ trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh nhưng trong suy nghĩ và hành động, họ đều tỏ ra phi biện chứng Mácxít.
Mác cũng như tất cả các nhà duy vật chân chính đã khẳng định rằng trên đời này không có cái gọi là chân lý tuyệt đối. Và có lẽ chỉ có nhận thức đó là mang ý nghĩa chân lý tuyệt đối. Còn lại tất cả chỉ là chân lý tương đối mà thôi.
Kiến thức sơ đẳng nhất mà ai đã học về phép biện chứng đều phải biết : mọi vật đều biến chuyển theo hướng hoặc đi lên (phát triển) hoặc đi xuống (suy vong). Đó là qui luật của muôn đời. Các quá trình phát triển, suy vong có thể nhanh hay chậm là tùy thuộc vào chủ thể và vào môi trường. Trong môi trường xã hội loài người thì chủ thể đó là con người. Không nói thì ai cũng biết, con người hiện nay là kết quả của quá trình phát triển tiến hóa của hàng triệu năm. Nếu tính nguồn gốc của người cũng như mọi thứ sinh vật trên hành tinh này thì nguồn gốc và quá trình phát triển sự sống lại phải tính đến hàng chục, hàng trăm triệu năm. Điều đó chưa rõ vì khoa học còn đang tiếp tục khảo sát. Điều mà khoa học đã chứng minh được đó là sự sống bắt đầu bằng tế bào. Mặc dù tế bào chưa hề có cái gọi là ý thức hay tư duy thì cũng đã "ý thức" được rằng phải tách đôi, lại phải cứ thế mà tách đôi tiếp. Nhờ có quá trình tách theo cấp số nhân liên tục của tế bào một cách tự nhiên như thế mà có chúng ta ngày nay và đủ các thứ chúng ta chén được để mà tồn tại và phát triển.
Ngừng phát triển có nghĩa là ngừng tồn tại và là hủy diệt hoặc tự hủy diệt. Việt Nam ta không chịu bị hủy diệt và cũng không ngớ ngẩn đến mức tìm cách tự hủy diệt mình nên đã không ngừng tìm đường để có thể phát triển.
Hồ Chí Minh đã tìm ra con đường cho Việt Nam phát triển. Tất nhiên phải trả giá bằng 30 năm xương máu, đó là những điều chúng ta không muốn. Nhưng chúng ta không thể làm khác. Chính những sử gia thế giới trong đó có sử gia người Pháp nổi tiếng De Villers trong tác phẩm của mình (Sài Gòn - Paris - Hà Nội), bằng những dữ liệu chính xác và đầy đủ đã chứng minh rằng năm 1946, Cụ Hồ Chí Minh bị giới chính trị và quân sự Pháp dồn vào thế buộc phải phát động cuộc chiến tranh vệ quốc. Cụ Hồ là người yêu hòa bình và không muốn chiến tranh. Thế mà đến năm 1995, tại hội nghị quốc tế Việt Nam học ở Aix-En-Provence, trong tham luận của mình, tiến sĩ thần học Nguyễn Văn Trung lại có ý bác bỏ cuốn sách với những luận điểm đúng của De Villers mà không đưa ra chứng cứ gì. Trong nghiên cứu khoa học, người ta không chấp nhận chuyện hồ đồ như thế. Một lần nữa cũng xin thưa với tiến sĩ triết học Đỗ Huy và những ai còn cho rằng 30 năm kháng chiến của chúng ta là cản trở sự phát triển văn hóa thì cũng nên nghĩ lại.
Vừa qua, Đại hội VI cũng đã tìm ra được con đường phát triển. Chỉ tiếc rằng nếu biết nghe đ/c Kim Ngọc và nhân dân Vĩnh Phú sớm hơn thì đâu có phải trả giá một cách vô ích như thế. Cũng có những nhà lý luận cãi rằng : do hoàn cảnh kháng chiến nên buộc phải giữ lại hợp tác xã mặc dù biết nó có nhiều khuyết tật. Vậy, chúng tôi xin thưa rằng nếu biết khoán như Kim Ngọc là đúng thì tại sao sau ngày đại thắng không khoán ngay để đến nỗi cuộc khủng hoảng trì trệ kéo dài 10 năm liền (1976-1986). Phải nói thẳng rằng khoán chậm cũng như làm 5 thành phần kinh tế chậm và nhiều thứ chậm chạp khác là do nhận thức sai lầm về mặt lý luận chứ không thể chỉ đổ cho khách quan, hoàn cảnh thế này, hoàn cảnh thế nọ. Cũng đáng tiếc cho đ/c Trường Chinh vĩ đại, giá như khi nhận ra sai lầm, đ/c Trường Chinh dám công khai xin lỗi đ/c Kim Ngọc, tỉnh ủy và nhân dân Vĩnh Phú thì hẳn là đ/c còn vĩ đại hơn nhiều. Nhân dân ta vốn rất độ lượng, các cụ đã từng dạy : trước không phải, sau phải vẫn nên coi là phải", "đánh kẻ chạy đi không ai đánh người chạy lại".
Nhân đây, chúng tôi cũng nhắc đ/c Tố Hữu và những ai đã tham gia đánh vụ nhân văn giai phẩm cũng nên can đảm xin lỗi những người bị đánh oan. Không nên để những người còn sống như Lê Đạt, Hữu Loan, Thái Vũ, Hoàng Cầm, Phù Thăng, Văn Tâm .... và những người đã mất như Văn Cao, Trần Dần, Phùng Quán .... cùng với gia đình con cháu họ cứ phải ngậm hờn, ai oán mãi mãi.
Tiếc rằng đ/c Lê Đức Thọ và những người tham gia vụ tiêu diệt "nhóm xét lại Hoàng Minh Chính" hầu hết đều đã không còn nữa. Vậy thì Trung ương hiện nay của ta nên giải quyết cho rành mạch.
Vừa qua, nhân chuyến đi công tác Hà Nội, chúng tôi có dịp tiếp xúc với ông Hoàng Minh Chính và các ông Trần Độ, Lê Hồng Hà, Hoàng Hữu Nhân, Hoàng Tiến, Thanh Giang, Nguyễn Kiến Giang v.v. . . nghĩa là những người từng bị bắt giam hoặc mới bị khai trừ Đảng, với mục đích tìm hiểu xem họ đúng sai ra sao. Về mặt quan điểm tư tưởng, phương pháp và cách thức trình bày những quan điểm của họ có điểm chúng tôi tán thành, có điểm chúng tôi không tán thành. Chúng tôi đã thẳng thắn tranh luận với họ và nghĩ rằng còn cần phải tiếp tục tranh luận. Nhưng cần phải công bằng mà nhận định rằng, họ đều là những con người trung thực, có trí tuệ, có tâm huyết đối với dân tộc và cách mạng. Có thể họ sai, có thể chúng tôi sai. Cần có thời gian, biết lắng nghe nhau và biết chờ đợi thuyết phục nhau. Không ai có thể giữ độc quyền đúng hoặc độc quyền sai. Không được phép áp đặt cho nhau. Trong lĩnh vực tư tưởng càng phải tôn trọng nguyên tắc và luật pháp. Không được dùng biện pháp hành chính hoặc hình pháp một cách tùy tiện. Ngay giai cấp tư sản và chế độ tư bản cũng không dám tùy tiện. Nếu không thì đ/c Mác và đ/c Ắnghen của chúng ta làm sao ngồi yên mà viết sách chống họ và xuất bản ngay trước mũi họ. Và chắc nhiều người chưa quên khi bộ máy chuyên chính của giai cấp tư sản Pháp động đến nghị sĩ cộng sản Jacque Duclos thì cả nước Pháp làm ầm lên như thế nào. Cả thế giới tiến bộ lên tiếng phản đối như thế nào. Anh còn nhận anh là dân chủ, bắt buộc anh phải chùn tay. Còn khi anh đã đi vào con đường phát xít hóa như Đức, Ý, Nhật thì anh tiêu vong.
Giai cấp tư sản Pháp và đảng cầm quyền ở Pháp lúc bấy giờ hiểu rằng phải dừng lại ở đâu, không dám làm bừa làm tới. Cũng lạ cho các đảng cộng sản trong phe ta, nhiều khi không tính rõ tương quan rồi cũng chẳng biết nên dừng ở chỗ nào. Liên Xô, Trung Quốc trước đây cũng thế. Cứ bắt bớ, tù đày, bắn giết, thủ tiêu ngầm .... không đếm xỉa gì đến lẽ công bằng, đạo lý và pháp lý. Chuyện Nga thì còn xa xôi, thôi thì lấy ngay dẫn chứng ở cái nơi "núi liền núi, sông liền sông" với ta đây này. Thân danh làm đến ủy viên thường vụ Bộ Chính trị, làm đến chủ tịch nước, công lao hãn mã mấy ai bì kịp, thế mà Lưu Thiếu Kỳ được các chiến hữu chí thiết của mình giam cầm, đánh đập, hành hạ đến chết. Lúc hấp hối chỉ còn nắm da bọc xương và trút hơi thở cuối cùng dưới một mảnh bao tải rách giữa một mùa đông giá lạnh Trung Quốc. Đ/c Lưu Thiếu Kỳ và hàng chục triệu đảng viên cộng sản Trung Quốc khác chết đau đớn nhục nhã còn kém thân phận của những kẻ ăn mày. Càng xót xa hơn khi nghĩ đến tình cảnh gia đình, con cái cháu chắt họ bị ngược đãi. Chuyện Stalin và những thủ hạ của Stalin ngược đãi, giết hại những người đảng viên cộng sản Liên Xô như thế nào, những người có lương tri ở đó đã nói quá đủ rồi, ở đây không nói nữa.
Điều đáng nói là cho đến những ngày cuối thế kỷ, chúng ta vẫn chưa hết giật mình kinh hãi khi nghĩ đến một bộ máy cầm quyền vĩ đại như Đảng cộng sản Liên Xô mà phút chốc sụp đổ tan rã một cách thảm hại. Chúng tôi đã từng chê trách những người làm lý luận ở ta không chịu nhìn thẳng vào sự thật, khảo sát lơ mơ, phân tích theo kiểu khuôn sáo nên không giúp cho ta rút ra được những bài học thích đáng.
Ngoài ba nguyên nhân chủ yếu mà chúng tôi đã phân tích trong bài trước (bệnh chống qui luật, bệnh chống trí tuệ, bệnh kiêu ngạo cộng sản), chúng tôi xin nêu thêm một nguyên nhân nữa đã khiến cho Đảng cộng sản Liên Xô sụp đổ nhanh. Đó chính là điều 6 ghi trong Hiến pháp của nhà nước Xô Viết mà chúng tôi đã trích dẫn ở phần trên.
Đảng cầm quyền thì cứ việc cầm quyền chứ ghi vào Hiến pháp thế nào được. Giai cấp tư sản vốn bản chất là thô bạo nhưng phải công bằng mà khen họ ở điểm này là rất tế nhị. Thử hỏi khi họ không ghi vào Hiến pháp cái sự cầm quyền của họ nhưng có quyền lớn, quyền nhỏ nào trong thế giới tư bản lại vuột khỏi tay các ông chủ của những tập đoàn tài phiệt, quân phiệt, các công ty xuyên quốc gia. Giai cấp tư sản cũng thừa khôn ngoan để hiểu rằng bất cứ đảng Cộng hòa hay đảng Dân chủ, đảng Tự do hay đảng Xã hội thiên chúa giáo; đảng Xanh hay đảng Vàng ... dù cầm quyền thì cũng không bao giờ đủ số đảng viên có năng lực để rải khắp từ cấp chính phủ trung ương cho đến cấp phường xã cơ sở. Vả lại cái gương tày liếp cũng vẫn còn treo đó : các vị hoàng đế từng vỗ vào ngực : "Nhà nước là ta, pháp luật là ta" đều đã tiêu vong rồi. Dại gì mà làm trò quay ngược bánh xe lịch sử. Chẳng nhẽ các đ/c lãnh đạo Liên Xô trước đây lại không biết rằng : mình ở cấp trung ương mình hiểu biết, còn có thể tự kiềm chế; còn các vị đảng viên cấp cơ sở, lúc nào cũng giơ quyền ra rồi tùy tiện lạm quyền, lộng quyền thì ai ngăn cản nổi, dân nào dám động đến họ. Chúng tôi tin chắc rằng nhân dân Liên Xô không hề chán ghét lý tưởng cộng sản. Nhưng họ thật sự gớm mặt ba vị đảng viên hằng ngày hoạnh họe, bóp nặn, khinh khi họ. Dân chán đến mức thấy mặt đã ghét mà lại không sụp đổ thì mới là chuyện chưa từng có trong lịch sử loài người.
Vậy phải truy xét xem ai là người đã tham mưu cho Trung ương đưa điều 4 vào Hiến pháp của ta năm 1980 ? Họ nhầm : Họ không hiểu rằng chép lại cái điều 6 từ Hiến pháp Liên Xô thành điều 4 ở Hiến pháp Việt Nam là tạo điều kiện cho tiêu cực, tham nhũng mặc sức sinh sôi nảy nở. Chúng tôi trân trọng đề nghị Đại hội IX và Quốc hội khóa mới của ta nghiêm túc duyệt lại điều này, bàn xem có nên để điều 4 ở trên Hiến pháp nữa hay không.
Hồ Chí Minh của chúng ta tuyệt vời lắm. Hỏi nước ta ai có quyền to hơn Cụ, không những thế uy của Cụ còn vượt cả biên giới. Thế mà lúc nào cũng : "Tôi chẳng qua chỉ là một người lính được quốc dân giao phó trách nhiệm ra trận". Mà Dân ta biết Cụ nói chân thật. Cho nên Cụ bảo gì, ra lệnh gì mà không vâng theo. Cụ bảo phải đánh Pháp ta đánh Pháp. Cụ bảo lên Điện Biên Phủ, ta lên Điện Biên Phủ. Cụ bảo đánh Mỹ, ta đánh Mỹ. Cụ bảo phải cứu bà con ruột thịt miền Nam, phải hỗ trợ cho anh em bè bạn quốc tế, ta đi B, đi C. Cụ bảo miền Bắc có trách nhiệm chi viện miền Nam, thế là mẹ ta gạt nước mắt tiễn chồng, tiễn con lên đường và bát cơm mẹ xẻ làm tư.
Cụ Hồ thực thi quyền lực một cách có lương tâm, có đạo lý để phục vụ lý tưởng cao cả của dân tộc, đáp ứng nhu cầu của thời đại, làm sao những người có lương tri lại không tuân theo được. Còn nhiều đảng viên rất nhố nhăng, được giao phó một chút ít quyền lực thế là đã tưởng rằng mình thành ông vua con, ông giời con, coi thường nhân dân, coi thường tập thể, coi thường Trung ương, mặc sức hoành hành ngang ngược, xem địa phương, xem đất nước như một chốn rừng hoang, không kỷ cương, không luật pháp.
Quyền lực nhỏ mà đã láo lếu chơi luật rừng. Láo lếu chán rồi rủ nhau "ngự" Đường Sơn quán. Nhưng khi họ nắm được quyền lực lớn mới kinh khủng.
Cứ xem như trường hợp đ/c Lê Đức Thọ thì biết. Cho đến giờ phút cầm bút viết những dòng này, chúng tôi - và chắc rằng rất nhiều người khác - vẫn tin rằng Đảng ta không bao giờ nỡ đối xử với các thành viên của mình một cách quá đáng. Trung ương ta cũng không bao giờ nỡ đối xử với đồng chí, với cấp dưới của mình một cách nhẫn tâm, tàn bạo như thế. Hồi các ông được gọi là trong "nhóm xét lại chống Đảng" như Hoàng Minh Chính (viện trưởng Viện Triết học), Đặng Kim Giang (thiếu tướng quân đội nhân dân Việt Nam), Vũ Đình Huỳnh (vụ trưởng Vụ Lễ tân), Lê Liêm (thứ trưởng Bộ Giáo dục), Chu Văn Tấn (thượng tướng) bị xử trí, người thì bị tù đày, người thì bị khai trừ, quản thúc.
Nhân dân, trong đó có chúng tôi cứ yên chí họ là những phần tử chống Đảng thật sự, toan tổ chức vũ trang lật đổ chính quyền cách mạng hoặc thông đồng với ngoại bang chơi trò cõng rắn cắn gà nhà.
Cháy nhà mới ra mặt chuột. Nhờ đổi mới mà nhiều sự thật mới lòi ra. Chính nhờ đ/c Nguyễn Trung Thành, người hồi đó được đ/c Lê Đức Thọ và Trần Quốc Hoàn giao cho trực tiếp phụ trách tra xét vụ này, dư luận mới hiểu rằng mấy ông "xét lại" này chẳng qua có những quan điểm lý luận khác với các đ/c Lê Đức Thọ, Lê Duẩn chứ chẳng có tổ chức, có mưu đồ lật đổ ai. Mà những quan điểm lý luận này cũng chỉ mới tranh luận với nhau bằng mồm chứ chưa viết thành văn bản. Tất nhiên cũng chưa phạm tội tán phát tài liệu chống Đảng.
Có thể chúng tôi nhầm vì thiếu thông tin. Nhưng thực tế đã xác nhận rằng rất nhiều người, kể cả giới nghiên cứu KHXH không hiểu tường tận vụ việc này, nhưng vì nhát sợ nên cũng không dám điều tra tìm hiểu để đi đến kết luận chính xác. Chỉ biết rằng khi tiếp xúc với ông Hoàng Minh Chính, tranh luận một cách thân ái và thẳng thắn với ông cựu viện trưởng Viện Triết học này về chủ nghĩa xã hội và về vai trò của Đảng trong giai đoạn cách mạng mới, thì trước mắt chúng tôi là một con người tuy cao tuổi (80 tuổi) nhưng vẫn hết sức minh mẫn, cứng cỏi, hiểu biết rộng rãi sâu sắc cả sách vở lẫn cuộc đời. Chia tay với con người thanh nhã lịch thiệp này, ấn tượng còn lại vẫn là đã gặp một triết nhân đầy nhiệt huyết với dân tộc và cách mạng. Quái, một con người hồn hậu, dung dị lại giữ được bản lĩnh, bản sắc Việt Nam như thế, sao lại có thể thành phần tử xét lại chống Đảng được nhỉ. Mà về mặt lý luận xem ra ông còn có phần "chống xét lại". Thế mới biết việc đời, người đời không phải là điều dễ hiểu !
Với chúng tôi, ông Hoàng Minh Chính vẫn là một bậc cách mạng lão thành chân chính đáng cúi đầu thi lễ, nhưng vấn đề chủ yếu không phải ở chỗ đó. Vấn đề chủ yếu là ông Hoàng Minh Chính và tất cả những người đã bị bắt bớ giam cầm hay quản thúc trong thời kỳ đ/c Lê Đức Thọ làm trưởng ban tổ chức Trung ương Đảng và đ/c Trần Quốc Hoàn làm bộ trưởng Bộ Công an, họ có tội hay không có tội. Nhân dân cần biết rõ sự thật. Vấn đề không thuộc của riêng ai mà nó thuộc về công lý của Dân tộc và Thời đại. Chính trên bình diện đạo lý và pháp lý mà chúng tôi thẳng thắn đặt lại vấn đề này. Trong thời đại Hồ Chí Minh, không ai có quyền chỉ vàomặt nhau : "anh là kẻ chống Đảng, chống chế độ !" rồi tùy tiện bắt, tùy tiện giam, tùy tiện thả, không cần chứng cứ, không cần xét xử. Sự tùy tiện liên tục xảy ra đến nỗi, trong một bữa giỗ, ngay em ruột đ/c Lê Đức Thọ (Phan Đình Khải) là đ/c Đinh Đức Thiện (Phan Đình Dinh) cũng phải nổi khùng với anh mình : "Anh không thể làm những việc thất đức như thế được. Anh đừng có làm nhục dòng họ Phan, anh không lo rồi họ đào mả bố chúng ta lên à ?".
Khi người ta là thành viên của cộng đồng (một Dân tộc vĩ đại, một Đảng vĩ đại) mà người ta quên mất danh dự của Dân tộc, của Đảng, quên mất cả danh dự của dòng họ và bản thân mình thì thật là cực kỳ hết ý rồi. Sở dĩ còn phải lục ra bàn lại vì nó có ảnh hưởng đến các thế hệ con cháu chúng ta. Theo chỗ chúng tôi biết thì trên đời này chưa có một đảng phái nào dám ra văn bản qui định việc bắt bớ tù đày, bắn giết đảng viên của mình. Trước khi từ biệt thế kỷ cũ, chúng ta có trách nhiệm phải làm sáng tỏ những hành động phi lý và phi pháp này để khi bước vào thế kỷ mới, toàn Dân, toàn Đảng ta mang một tâm thế mới, mới hy vọng phát triển được. Nếu không, mọi người cứ sống trong tâm trạng nơm nớp lo sợ bị hoạnh họe, bị chèn ép, trù dập, bị bắt bớ tù đày .... Một người dân sống trong thôn xóm, xã, phường .... ngay cả những công dân nhỏ tuổi trong nhà trường mà lúc nào cũng bị thằng thúc đóng hết khoản lệ phí nọ đến khoản lệ phí kia. Thử hỏi làm thế nào để có thể sống yên ổn, no đủ.
Vừa qua, đ/c Nguyễn Văn Yểu, phó chủ tịch Quốc hội dẫn một đoàn đại biểu về kiểm tra TPHCM về tình hình bắt oan, xử tù oan những người vô tội. Không thấy công bố số lượng người bị bắt oan, xử tội oan cụ thể là bao nhiêu. Chỉ thấy báo đưa tin đ/c Yểu đã biểu dương tình hình có nhiều tiến bộ, nghĩa là tỷ lệ bắt oan đã giảm được 5% so với cùng kỳ năm ngoài. Dư luận đặt dấu hỏi : Vậy mỗi phần trăm ấy là bao nhiêu người ? Chẳng lẽ đ/c Yểu lại không hiểu rằng dù còn bắt oan đến một người cũng vẫn là nỗi đau đớn, nhục nhã cho bản thân và gia đình người ta rồi, vẫn là nỗi xấu hổ cho nền pháp chế dân chủ của ta. Sao lại còn có chuyện biểu dương và đánh giá cao thành tích ở đây ? Đã đến lúc chúng ta phải nhận thức lại toàn bộ vấn đề, đổi mới những phần cơ bản trong nhận thức của chúng ta về mặt pháp chế.
Ta thử đặt địa vị mình vào địa vị một đ/c cán bộ cách mạng nguyện suốt đời tận tụy vì đất nước và cách mạng, hay địa vị một văn nghệ sĩ nguyện suốt đời sáng tác để phục vụ nhân dân và cách mạng, một nhà khoa học nguyện suốt đời nghiên cứu để phục vụ khoa học và đất nước .... chỉ vì sự bất đồng ý kiến hoặc quan điểm, hoặc vì những lý do vu vơ nào khác mà đột nhiên bị đấu tố, bị vô hiệu hóa, bị loại trừ danh dự và mất tư cách công dân trong cộng đồng trong vài ba chục năm trời liên tục thì bản thân họ và gia đình họ đau khổ nhục nhã đến thế nào. Rồi cũng lại đột nhiên lẳng lặng trả tự do cho họ, không công khai xin lỗi, không công khai phục hồi danh dự cho họ. Như thế liệu có được không ?
Ở nước ta cũng có một hiện tượng rất lạ : đối với những người bị coi là "nhân văn giai phẩm" hoặc phần tử "xét lại" thì lên án rất mạnh mẽ, bài bản, có sách vở, có nghị quyết hẳn hoi, tạo nên một phong trào rất sôi nổi dữ dội. Mà trên thực tế, họ là những người vô tội. Nếu ai có khuyết điểm sai lầm nào đó thì cũng chưa gây nên một hậu quả tác hại lớn lao nào về mặt tinh thần cũng như vật chất.
Trong khi đó, nhưng phần tử giáo điều đã gây nên những thiệt hại trầm trọng cho Nhân dân, cho Đảng cả về mặt tinh thần và vật chất, lại không hề bị lên án hay kết tội. Chưa hề có một nghị quyết nào lên án những phần tử giáo điều tương đương như Nghị quyết 9 lên án những phần tử xét lại. Nếu chúng tôi không nhớ nhầm thì chính các đ/c Cuba đã có nêu thắc mắc về vấn đề này. Họ ngạc nhiên khi thấy chúng ta chỉ có "nghị quyết chống xét lại" mà không có "nghị quyết chống giáo điều". Và cả họ lẫn nhân dân chúng ta đều không ngớt ngạc nhiên khi thấy Đảng và Nhà nước ta lại còn tiếp tục giao quyền lực lãnh đạo và quản lý cho nhiều phần tử giáo điều để họ tiếp tục hưởng đặc quyền đặc lợi và tác oai tác quái.
Thế là đám gọi là "xét lại" chưa gây thiệt hại cụ thể gì thì coi là có tội và tuy chưa hưởng quyền được xét xử vẫn bị trừng phạt rất nặng. Ngược lại, đám giáo điều (không phải là "giáo điều" mà chính cống là giáo điều) gây thiệt hại một cách cụ thể có chứng cứ rõ ràng, cả nước cả thế giới đều biết thì đã không bị kết tội lại còn được o bế. Như thế là công bằng chăng ? Thiết tưởng, trước khi bảo nhau đi tới một xã hội công bằng văn minh, chúng ta phải thực tập dần dần để củng cố nhận thức : thế nào là công bằng ?
Lại nhớ đến một bài thơ giàu ý nghĩa triết lý của nhà thơ kiêm triết gia Ba Tư là ông Xa-a-đi :
Lẽ công bằng
Một anh chăn cừu hỏi cha :
- Thưa cha, thế nào là lẽ công bằng ?
Người cha trả lời:
- Con nên nhớ rằng khi con muốn công bằng với chó sói tức là con đã bất công với cừu !
Hội nghị Trung ương vừa qua thi hành kỷ luật cảnh cáo hai ủy viên Trung ương là đ/c Ngô Xuân Lộc và đ/c Cao Sĩ Khiêm, đó là lẽ công bằng, đó là kết quả của những ý muốn tốt đẹp, muốn thực sự lập lại kỷ cương công bằng. Có dư luận cho rằng cảnh cáo là còn nhẹ, nương tay quá. Xin thưa với quí vị rằng đừng quên các cụ xưa đã dạy : "Có hoa mừng hoa, có nụ mừng nụ", chớ có nóng vội ! Không bao giờ nên quên nước ta là một nước tiểu nông, căn bản vẫn là một nền sản xuất nhỏ, bất cứ việc gì cũng không được đốt cháy giai đoạn, phải tiến mạnh nhưng phải tiến thật vững chắc, nhất là trong lĩnh vực nhận thức cũng cần phải dần dần, càng phải biết chờ đợi nhau.
Đến như đ/c Hữu Thọ, trưởng Ban tư tưởng - văn hóa Trung ương có vấn đề còn nhận thức chưa ra, nói gì đến người khác. Một quyết định kỷ luật của Trung ương mạnh mẽ như thế khiến dư luận rung động xôn xao như một luồng gió mới mang lại phấn khởi cho đất nước, thế mà đ/c Hữu Thọ lại cho rằng : "Việc công khai đó cũng là điều bình thường". Trời ạ ! Một việc kỷ luật công khai những người tưởng như không thể kỷ luật được, lần đầu tiên được ghi trong văn bản nghị quyết của Trung ương công bố cho toàn Đảng, toàn Dân và toàn thế giới biết. Thế mà đ/c lại bảo là việc bình thường thì quả là kỳ lạ thật. Xin đ/c vui lòng cho biết từ khi thành lập Đảng ta đến nay đã có văn bản nghị quyết nào ghi kỷ luật những ủy viên Trung ương một cách cụ thể như thế chưa ? Chúng tôi chưa hề thấy một nghị quyết nào như thế. Mới đến như thế mà đ/c Hữu Thọ lại bảo rằng : "Đây cũng không phải là điều gì mới đâu !" (Trích trả lời phỏng vấn báo Tuổi trẻ TPHCM số 133/98 ngày 13-11-99).
Đối với những người có cái kiểu suy nghĩ như đ/c Hữu Thọ thì cuộc đời này chẳng có gì đáng gọi là mới cả, chẳng có gì là khác thường cả. Đ/c Hữu Thọ còn đưa dẫn chứng : "Tôi còn nhớ khi Bác Hồ còn sống, lúc vỡ đê Mai Lâm, Bác đã kiên quyết cách chức Bộ trưởng thủy lợi vì liên quan đến trách nhiệm của đ/c ấy, dù chỉ mới nhận chức bộ trưởng được mấy tháng".
Dẫn chứng như thế là chính xác và lập luận như thế quả là khó bác bỏ, đầy sức thuyết phục. Chẳng thế mà đ/c Hữu Thọ trả lời hôm trước ở báo Tuổi trẻ thì hôm sau báo Sài Gòn giải phóng đã tung hô ngay. Đúng là "tâm phục, bút phục" ! (Xem báo SGGP ngày 15-11-99).
Trước hết, hãy xin phép thảo luận với đ/c Hữu Thọ thế nào là bình thường và thế nào là không bình thường. Thảo luận theo nề nếp tư biện thì chúng ta lấn sang sân của Viện Triết học và Hội đồng lý luận của Trung ương. Chúng ta cứ tuân theo lời Bác Hồ dạy là "lý luận liên hệ với thực tiễn" để bà con ta dù học ít hay học nhiều đều có thể hiểu được. Đ/c Hữu Thọ cho rằng việc Trung ương thi hành kỷ luật công khai hai đ/c ủy viên Trung ương Cao Sĩ Kiêm (cựu thống đốc Ngân hàng quốc gia và đương kim phó trưởng Ban kinh tế Trung ương) và Ngô Xuân Lộc (đương kim phó thủ tướng Chính phủ) là điều bình thường. Vậy, việc Trung ương ta chưa công khai thi hành kỷ luật ủy viên Trung ương Nguyễn Thiện Luân (đương kim thứ trưởng Bộ Nông nghiệp) có là điều bình thường không ? Trước khi được đề bạt thứ trưởng, ông Luân còn là giám đốc nhà máy bột ngọt Thiên Hương. Do một báo cáo dối trá của ông mà 51 tấn bột ngọt trong kế hoạch hoàn thành của nhà máy chỉ có trên giấy, sau đó được báo cáo là bị mất trộm. Thế là Công an, rồi Viện kiểm sát, và suýt nữa cả Tòa án đều phải vào việc. Phúc đức làm sao ông Sấm bà Ao và những người có liên quan khác đang bị giam giữ chờ ngày ra tòa thì được Công an TPHCM cứu thoát. Theo Công an TPHCM điều tra thì chẳng có một ký bột ngọt nào bị mất trộm cả nên những người bị bắt bớ giam cầm oan uổng đều được phóng thích.
Chắc đ/c Hữu Thọ hồi đó đang đương chức đương quyền ở báo Nhân dân còn nhớ rõ : Báo chí ở thành phố và một vài tờ báo Trung ương thông cảm với nỗi oan ức đau khổ của những người cùng giai cấp đã làm om lên như thế nào. Rồi Ban thanh tra TP và tiếp đến là Ban thanh tra Trung ương đã ra tay như thế nào và đều kết luận nhất trí với Công an ra sao. Rồi dư luận nhân dân phản ứng ra sao, rồi Đoàn đại biểu Quốc hội TP lo ngại vụ việc bị chìm xuồng hoặc để lâu thì "hóa bùn" tất cả nên kỳ họp Quốc hội nào cũng lên tiếng kiến nghị. Thế mà đột nhiên có một lệnh riêng nào đó từ Hà Nội (chúng tôi đang điều tra để có chứng cứ đích xác là ai đã ra lệnh phi pháp này), báo chí im tịt luôn, đoàn đại biểu Quốc hội cũng im tịt luôn và mọi người thì không dám bàn tán công khai nữa. Miệng thì không được nói, nhưng lòng nhức nhối, mà đ/c Hữu Thọ biết đấy, lòng dân đã nhức nhối không yên thì lôi thôi lắm, sao lại coi là bình thường được.
Đức Nguyễn Trãi đã dạy :
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
(Bình Ngô đại cáo)
Nếu chúng ta không nỗ lực giúp đỡ Trung ương ra tay trừ bạo nghịch, bạo ngược để làm sáng tỏ nhân nghĩa Hồ Chí Minh, nhân nghĩa cộng sản thì thật là vô trách nhiệm biết chừng nào.
Hãy giả thiết, bản thân ông Nguyễn Thiện Luận hoặc những người bao che có đủ chứng cứ để chứng minh rằng ông Luân và đồng bọn đều vô tội thì chúng tôi yêu cầu cũng nên công khai minh oan cho họ. Và vấn đề buộc phải chuyển hướng : cần truy cứu trách nhiệm hình sự đối với Công an TP, Ban thanh tra TP và Ban thanh tra Trung ương. Vu cáo, bôi nhọ danh dự một đ/c ủy viên Trung ương, Thứ trưởng lại là chuyện đùa giỡn với pháp luật được chăng ?
Xin hỏi thêm đ/c Hữu Thọ, vậy việc bà con nông dân ta ở Thái Bình, vừa qua nổi dậy chống lũ cường hào quan lại tham nhũng, như thế là bình thường hay không bình thường?
Xét theo logic lịch sử thì bình thường quá đi chứ. Phải không đồng chí ?
Thế sao các đ/c lại hoảng lên rồi kẻ thì bàn việc đánh dẹp, người thì bàn việc né tránh, còn đ/c thì lại làm bộ đứng giữa để chữa đôi bên, lại còn cao giọng khuyên bảo những vị lão thành cách mạng và những vị cựu chiến binh không nên "cầm đầu" cuộc nổi dậy của Thái Bình. Thế hóa ra "sống chết mặc bay" à !
Trong văn bản "Chỉnh đốn để tồn tại và phát triển", chúng tôi đã khẳng định : Nhân dân Thái Bình không chống Đảng, Đảng này do người ta đẻ ra, người ta yêu thương bao nhiêu cũng chưa đủ, sao lại nói chuyện "chống" ở đây. Nhân dân Thái Bình cũng không chống chế độ, chế độ này do bao nhiêu xương máu, mồ hôi người ta đổ ra mới tạo dựng nên, sao lại nói chuyện chống ở đây !
Lại đưa luận điệu do bị xúi giục, kích động thì cũng là trí nhớ và thần kinh không bình thường. Hãy mở lịch sử coi lại xem. Thế thì các ông Nguyễn Hữu Cầu, Nguyễn Danh Phương, Hoàng Công Chất ...., rồi trước đó là các ông Nguyễn Huệ, Lê Lợi, Nguyễn Trãi không nắm vững chính nghĩa, không hiểu nỗi oan khổ và nguyện vọng của dân thì các ông "kích động" nổi ai để làm nên nghiệp lớn và tiếng tăm lưu sử xanh.
Nếu anh là phi nghĩa, anh có ý đồ xấu thì giỏi lắm anh kích động được dăm ba chục người, vài ba xã. Chứ khi hàng vài trăm xã người ta đồng tình nổi dậy thì mong đ/c Hữu Thọ cũng như bất cứ ai chớ có đánh giá thấp bà con nông dân ta như thế.
Theo chỗ chúng tôi khảo sát lịch sử, trong khoảng vài ba ngàn năm qua, bà con nông dân ta chẳng bao giờ nổi dậy nhầm cả. Và tất cả những ai thiếu tài năng và bản lĩnh cũng chẳng bao giờ dám đứng ra kích động và cầm đầu ai cả.
Gần đây (30-10-1999), chúng tôi đọc được trên báo Sài Gòn Giải Phóng bài "Bài thuốc cứu nguy" của đ/c Trần Trọng Tân, cựu trưởng Ban tư tưởng văn hóa Trung ương Đảng. Có thể nói không quá đáng rằng đây là một bài báo đầy tâm huyết có nhiều ý kiến sâu sắc, táo bạo. Chỉ hơi tiếc, có vài điểm đ/c Tân chưa kịp đổi mới tư duy lý luận. Hạn chế này có lẽ do đ/c chưa quan tâm vận dụng phương pháp so sánh lịch sử, phần khác là do đ/c Tân cũng như nhiều đảng viên liêm khiết khác, vì quá lâu ngày tự khuôn mình vào những "tín điều" đã bị thực tiễn và đời sống loại bỏ. Khi đ/c viết : "Nhiều người dân ở thành phố này, qua nhiều năm, đã biết Đảng cộng sản là đảng duy nhất dám lãnh đạo nhân dân đương đầu đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược hung bạo, đã thấy được tận mắt nhiều cán bộ đảng viên của Đảng từng sống chết vì dân nên họ còn quí Đảng, không chịu mang tiếng chống Đảng". Quái ! Tại sao chống lũ đảng viên tiêu cực, tham nhũng lại là "chống Đảng" ?
Đ/c Tân sớm quên rằng xưa kia chống vua có nghĩa là phạm tội đại nghịch, ngoài tội chết chém còn thêm cái họa "tru di tam tộc". Chưa nói đến chuyện vua đó lại còn là dòng dõi của những dòng họ công lao hiển hách như họ Trần, họ Lê v.v. Ơn nghĩa cứ ghi nhận ơn nghĩa, chứ dân ta đâu có ngán cái chuyện "mang tiếng".
Còn vùng đất Lục tỉnh này, nhất là vùng đất Sài Gòn - Gia Định một thời đã phò giúp chúa Nguyễn Ánh dựng nghiệp lớn, lại còn là đất quê ngoại của nhà vua từng được hưởng bao ơn mưa móc, cơm nặng áo dày, tình nghĩa lắm đấy chứ ! Ơn nghĩa với vua cha (hoàng đế Gia Long) nhưng vua con (hoàng đế Minh Mệnh) lại cứ ban hành chính lệnh hà khắc để dung dưỡng cho lũ tham quan ô lại, cường hào ác bá thì nhân dân Lục tỉnh cũng phải bảo nhau nổi dậy thôi. Chỉ tiếc người cầm đầu là Lê Văn Khôi chưa đủ tài năng và bản lĩnh để đưa một cuộc khởi nghĩa lớn như thế đến thắng lợi. Chuyện trăm năm gần đây lại càng rõ. Nhân dân Gia Định và cả dân Gò Công nữa cũng chẳng sợ mang tiếng gì cả :
Viên đạn nghịch thần treo trước mắt
Lưỡi gươm địch khái nắm trong tay.
Nếu dân vùng đất này chỉ vì sợ mang tiếng mà không nắm chắc lưỡi gươm địch khái thì chắc chắn hồn nước rồi bản lĩnh, bản sắc cũng tiêu lâu rồi, lấy đâu ra Nam Kỳ khởi nghĩa, Nam Bộ kháng chiến, lấy đâu ra Thành đồng Tổ quốc và những ngày vẻ vang tốt đẹp như hôm nay. Đ/c Tân lại lo dân đất Thành đồng này vì sợ "mang tiếng" mà chịu thua kém Thái Bình chăng ?
Không ! Theo chỗ hiểu biết cạn hẹp của mình, chúng tôi chưa thấy nhân dân ở đâu lại yêu Đảng của mình như nhân dân mình. Cũng là lẽ tự nhiên thôi. Có bậc cha mẹ nào lại không yêu thương con cái của mình ? Nhưng con không chịu học hành lại rượu chè, buôn lậu, ma túy rồi về nã tiền bố mẹ, hở đâu lấy đấy, còn thông đồng với cả trộm cướp dọa nạt hành hạ bố mẹ. Thử hỏi có bố mẹ nào chịu đựng được mãi không ?
Chúng tôi cho rằng nhân dân Liên Xô cũng chẳng bao giờ chán ghét lý tưởng cộng sản hoặc chán ghét Lênin. Và khi họ đồng lòng bảo vệ Đảng thì đừng có lực lượng nào hy vọng động đến Đảng. Nhưng khiếu tố, khiếu nại mãi mà vẫn cứ bảo nhau ôm ấp, bao che cho bọn quan liêu, tham nhũng, cưỡi đầu cưỡi cổ, đục khoét nhân dân thì ai chịu nổi. Lý tưởng thì thấy còn xa vời mà hàng ngày mặt giáp mặt chỉ thấy một lũ hống hách, tham lam, bỉ ổi . . . hỏi ai chịu nổi mà không sập tiệm ?
Nói cho ngay, dân ta hiện nay cũng chưa chán Đảng mình đâu. Nhưng với lũ đảng viên tiêu cực thoái hóa quan liêu tham nhũng thì thực sự dân mình đã ngấy đến tận cổ rồi.Ta phải thực sự xúm lại mà bàn bạc cho ra nhẽ, chứ không thể để cho lũ này lại còn nhung nhăng phê với tự phê !
Dân ta có một bộ phận rất đông mắc bệnh sĩ diện do lây nhiễm từ giới nho sĩ thời Nguyễn chịu ảnh hưởng Tống nho, nhưng nói chung khi đã lâm vào tình thế nước sôi lửa bỏng thì cũng chẳng còn "sĩ " nữa, chẳng sợ "mang tiếng" gì hết !
Đã chơi là chơi. Được làm vua, thua làm giặc. Làm giặc cũng chẳng xấu. Thất nghiệp, chết đói mới là "đại sự" (đối với các nho sĩ Tống nho thì chết đói là "tiểu sự", thất tiết mới là "đại sự").
Trong lịch sử, cứ khi nào dân đói quá khổ quá thì lập tức vứt trả mọi thứ "dầu bôi trơn" - đói khổ là do số phận, do mệnh trời hoặc do tiền kiếp - rồi rùng rùng nổi dậy. Nho sĩ bình dân thì chưa đến nỗi đói nhưng nhục quá không chịu được thì đi làm trách nhiệm "cầm đầu". Hai bên gặp nhau thế là khởi nghĩa bùng nổ, triều đại suy sụp. Và thế là lịch sử phát triển. Tất cả các giới thống trị phong kiến, thực dân, phát xít, đế quốc. . . đều muốn ngăn cản sự phát triển này nhưng bánh xe lịch sử cứ lăn tới và nghiền nhừ hết.
Ô hay, sao đ/c Trần Trọng Tân lại lo ngại vô cớ như thế này :
"Khó thứ ba là dân chống bọn cầm quyền thống trị trước đây trong chế độ xã hội cũ thì có Đảng lãnh đạo, nay không có ai lãnh đạo cho nên đã bị bọn cơ hội chính trị lợi dụng kích động thì có nguy cơ lớn hơn. Cấp trên ở xa không hiểu thấu, đảng viên tốt ở cơ sở, sát dân có muốn xông vào tiếp sức với dân thì sợ bị qui là đi xúi giục dân gây rối, vi phạm kỷ luật Đảng".
Không nên đánh giá thấp nhân dân. Lối nhìn nhân dân theo kiểu các tác giả phim "Chuyện làng Nhô" là lối nhìn quáng gà. Không đáng nói nữa. Chắc đ/c Trần Trọng Tân và rất nhiều người còn nhớ thời kỳ 45, dân mình vừa mù chữ, vừa đói mờ cả mắt, thế mà Việt Quốc, Viết Cách, Đại Việt .... đầy cả đường, lại thêm cái loa ở đường Quan Thánh ra rả suốt ngày suốt tháng nói xấu Cụ Hồ, nói xấu Việt Minh. Ở Thủ đô, ở Huế và nhiều tỉnh khác, chúng còn xuống đường diễu hành hô đả đảo. Thế mà dân mình cũng có nhầm đâu ! Huống chi bây giờ, người nào tốt, kẻ nào xấu, người nào chân chính, kẻ nào cơ hội qua làm sao nổi mắt dân !
Còn chuyện đ/c Tân lo "nay không có ai lãnh đạo cho" thì đó là lo xa quá đấy thôi, nói theo kiểu các cụ xưa : đó là chuyện "lo bò trắng răng, vội vàng mua thuốc nhuộm răng cho bò". Cấp trên của ta bây giờ luôn luôn xuống sát cơ sở để nắm vững dân tình, đâu có như vua chúa ngày xưa năm thì mười họa mới vi hành, đâu phải chỉ "đảng viên tốt ở cơ sở" mới nắm vững tình hình. Thế đ/c không tin rằng những "đảng viên tốt" ở Trung ương cũng nắm vững tình hình à ? Đảng viên tốt ở cơ sở muốn xông vào tiếp xúc với dân thì sợ bị qui là đi xúi giục dân gây rối đã đành, chẳng lẽ những "đảng viên tốt" ở Trung ương lại cũng sợ thế chăng ?
Nếu đảng viên tốt ở cơ sở và đảng viên tốt ở Trung ương lại đều bảo nhau đánh vần chữ "sợ" như thế thì hỏi các vị có còn xứng đáng là học trò Cụ Hồ nữa không ?
Và nếu trên dưới đều sợ và mang tâm lý bất lực trước bọn quan liêu, cường hào, tham nhũng thì Đảng ta phải đổi tên thành Đảng gì ?
Nói cho hết nhẽ thế thôi, nhận thức nhầm thì ta tự điều chỉnh lại chứ chẳng có gì đáng phải bi quan cả. Chúng tôi tin rằng còn nhiều đảng viên tốt ở mọi cấp đều nhớ rằng mình là cộng sản. Lãnh đạo nhân loại bị áp bức bóc lột, đấu tranh giành quyền sống, quyền hưởng tự do và hạnh phúc trong thời đại hiện nay, chẳng lẽ không còn phải là trọng trách không thể thoái thác của bất kỳ ai ý thức được rằng mình là cộng sản ?
Tất nhiên, ở đời, thật giả khó phân : ông tổng thống ngụy Nguyễn Văn Thiệu quả là đáng ghét nhưng trước khi hốt hoảng bỏ chạy khỏi đất nước cũng được một câu nói đáng cho ta ngẫm nghĩ : "Không nên nghe cộng sản nói mà nên xem cộng sản làm".
Ta cũng thường nói : thực tiễn là thước đo chân lý. Cứ xem việc làm thì biết ngay ai là cộng sản chân chính, ai là cộng sản giả hiệu.
Có điều đáng buồn là, không hiểu mắt nhắm mắt mở thế nào mà trong một thời kỳ dài, những Phạm Nhật Hồng, Phùng Long Thất, Lê Minh Xư, Nguyễn Xuân Trường .... và một lô một lốc lũ cướp ngày, trộm ngày khác lại được bầu và duyệt là đảng viên 4 tốt. Thậm chí có những kẻ còn được báo chí ca tụng, được truyền thanh, truyền hình phỏng vấn, nêu gương cho đời học tập, và chúng không lên chức lên lương sao được, không cưỡi hẳn 1000 con trâu sao được.
Đúng như Cụ Hồ đã nói : "Không phải cứ dán hai chữ cộng sản vào trán họ là họ thành cộng sản" (Hồ Chí Minh toàn tập, tập ....... trang ....). Thế mà trong đợt phê bình, tự phê bình này, Trung ương đã bảo phải làm thật nghiêm chỉnh mà có những vị vẫn cả gan dán lên trán mình mấy chữ "đảng viên loại 1". Mà có mấy cái tập thể đảng bộ chẳng hiểu nhận thức ra sao, hữu khuynh a dua như thế nào mà lời Cụ Hồ cũng chẳng nhớ, lời ông Phiêu cũng chẳng chịu nghe. Lại nhất trí bầu nhau loại 1. Đến nỗi toàn là 80% đến 90% loại 1, lại đúng vào những địa chỉ bê bối mà nhân dân cứ nghe đến đã đủ lắc đầu cười khảy rồi.
Chúng tôi cũng không muốn nói nhiều đến bọn quan liêu tham nhũng nữa. Không cần phải quan trọng hóa chúng nó chỉ vì chúng đang giữ một chức hoặc một quyền nào đó trong bộ máy nhà nước ta. Không nên nghĩ một cách mặc cảm tự ti rằng số phận của chúng ta là đang nằm trong tay chúng mà phải khẳng định dứt khoát rằng chính số phận chúng đang trong tay Dân ta, Đảng ta. Dân đã kiên quyết, Đảng cũng kiên quyết, vậy thì chúng độn thổ đi đằng nào ?
Xin phép hỏi thẳng, những đảng viên nào còn giữ được chất cộng sản mà lại nói rằng chúng đông lắm không chống được đâu. Vô lý thật ! Chúng lại đông bằng Nhân dân à ? Chúng lại mạnh ngang với vua chúa và thực dân đế quốc à ? Chắc các đ/c lại cho là còn vướng ô dù chứ gì ? Mà chắc những ô dù này còn mạnh hơn cả siêu cường Mỹ chăng ?
Cho nên nói thẳng ra là : Dân thì dứt khoát chống và dứt khoát thắng. Còn Đảng mà không lãnh đạo nhân dân trong cuộc này thì rõ ràng Đảng tự loại mình ra khỏi đời sống dân tộc. Nỗi lo lắng của đ/c Lê Khả Phiêu là đúng : Đảng không lãnh đạo chống quan liêu tham nhũng thắng lợi thì Đảng mất vai trò lãnh đạo. Ai đồng tình với Tổng bí thư Lê Khả Phiêu thì tiến lên đi - "Tiến lên toàn thắng ắt về ta". Dân thì ký cả hai tay rồi. Còn Đảng viên nào chần chừ do dự là tự đánh mất phẩm chất của mình. Vị trí của bọn tham nhũng là vành móng ngựa và nhà tù. Vị trí của người cộng sản là đi tiên phong trong mọi cuộc đấu tranh. Không cần sợ tai tiếng gì cả. Vì lý do cơ bản của sự có mặt của những người cộng sản, của những đảng cộng sản chân chính trên đời này là để cầm đầu mọi cuộc đấu tranh chống áp bức bất công. Chính những ai định lái Đảng đi chệch con đường này mới đúng là "mang tiếng". Không chỉ "mang tiếng" mà còn là "mang tội" trước lịch sử. Còn nói như Fidel Castro : "Nếu xét xử tôi một cách oan ức thì đã có lịch sử minh oan cho tôi".
Hãy giả thiết lại thêm một lần nữa những người chân chính bị ném vào tù hay phải dẫn ra pháp trường thì đâu có phải vì thế mà mất nhuệ khí đấu tranh. Lời đ/c Trần Phú chẳng hãy còn văng vẳng bên tai chúng ta hay sao : "Hãy giữ vững chí khí chiến đấu !". Và xin phép được nhắc thêm một lần nữa lời Cụ Hồ : "Một người yêu nước không sợ gì hết và nhất thiết không được sợ gì".
Chúng tôi cũng không tán thành ý kiến đ/c Trần Trọng Tân, cho đến hôm nay, sắp chào từ biệt thế kỷ này mà đồng chí vẫn còn đồng nhất cá nhân với tập thể Đảng : "Đ/c Tổng bí thư ngồi học lại bài "Dân vận" (...). Làm việc đó, chứng tỏ Đảng ta không bao giờ quên ơn, không phụ lòng những liệt sĩ, thương binh, những bà mẹ anh hùng, những người dân đã có công theo Đảng giành chính quyền về tay nhân dân, chứng tỏ Đảng ta muốn dân ta được làm chủ thực sự, không phải là lời tuyên bố suông" (Vẫn bài báo trên).
Nhận thức đồng nhất giữa cá nhân và tập thể như thế sẽ làm cho tư tưởng Dân chủ không phát triển được và cũng sai thực tế.
Đảng ta có bao giờ quên Dân và Đảng này không bao giờ tuyên bố suông cả. Lịch sử xác nhận như thế chứ không phải vì yêu quí Đảng rồi bốc Đảng lên. Đảng không quên, vậy những đảng viên nào quên, những tổng bí thư nào quên, thì mang họ ra mà phê bình kiểm điểm. Họ phải nhận lỗi chứ không thể đổ lỗi cho Đảng được. Còn đ/c Lê Khả Phiêu nhớ và học tập tử tế lời Bác Hồ thì khuyên cho đ/c một dấu son vào trang sử hiện nay.
Từ nay, chúng tôi kiến nghị :
- Chấm dứt hoàn toàn và triệt để sự đồng nhất giữa cá nhân đảng viên với tập thể đảng. Một bí thư cấp cơ sở nói đúng sai phải trái chưa phân tích để nhận thức cho rõ lại bảo nhau : Đảng đã chỉ thị như thế, ta phải phục tùng. Thử hỏi Đảng nào ở đây ? Ông bí thư tỉnh ủy tổ chức việc buôn lậu thì phải phản đối và báo cáo ngay cho Trung ương biết. Ông bí thư huyện ủy thông đồng với bọn lâm tặc thì phải phản đối ngay cho tỉnh ủy biết và tỉnh ủy phải lập tức điện theo đường dây nóng báo cho Trung ương và Chính phủ biết. Tập trung dân chủ đúng theo nguyên tắc như thế thì làm gì có vụ Tánh Linh với Tân Trường Sanh hay Epco Minh Phụng, thủy cung Thăng Long ...
Tuy nhiên, đó cũng là chuyện nhỏ thôi. Chuyện đáng nói là nếu tập trung dân chủ có tính nguyên tắc (không phải theo cái kiểu vô nguyên tắc như xưa nay ta vẫn làm) thì làm sao nẩy nòi ra được những hiện tượng "cộng sản" quái gở như Goócbachốp, như Enxin. Cần rà soát lại một cách nghiêm khắc, không thể chấp nhận lối phê bình, tự phê bình một cách qua loa tắc trách vì đây là vận mệnh của Đảng, của Chế độ, của Dân tộc, không phải chuyện đùa !
Chúng tôi thấy đ/c Hữu Thọ có một ý rất đúng : "Trong nghị quyết Trung ương 7, chúng ta có nhận ra một thiếu sót. Đó là nhiều chức năng, nhiệm vụ còn chồng chéo, rồi chế độ, qui định trách nhiệm chưa được rõ ràng, cho nên nhiều người có trách nhiệm hiện nay lại chưa có đủ quyền hạn thực thi nhiệm vụ của mình. Do vậy, tôi nghĩ rằng thi hành kỷ luật về chế độ trách nhiệm thì phải đồng thời thực hiện nghị quyết Trung ương 7 trong việc phân định trách nhiệm rõ ràng. Người ta có quyền đầy đủ thì mới có trách nhiệm đầy đủ". (Vẫn trích bài phỏng vấn). Rất tiếc, đ/c Hữu Thọ nói đúng ý nghị quyết nhưng lại không gắng giải thích cho "rõ ràng và đầy đủ".
Chế độ ta đã kéo dài một tình trạng không hay. Thủ tướng chính phủ là người có quyền lực cao nhất trong bộ máy hành pháp mà không thể ký lệnh cách chức bất cứ ai dưới quyền mình. Vì trên thực tế, Thủ tướng có được hưởng quyền bổ nhiệm đâu mà có quyền cách chức. Do đó, thấy có những Bộ trưởng làm hỏng việc, Thứ trưởng phạm pháp, Phó thủ tướng phạm tội cũng phải làm ngơ. Bộ trưởng thấy người phó giúp việc mình không có năng lực, có Cục trưởng, Vụ trưởng bê bối cũng phải làm ngơ. Tình hình ở các địa phương cũng tương tự. Ông chủ tịch tỉnh hay chủ tịch thành phố cũng chẳng bao giờ dám cách chức ai hết.
Thủ tướng và các Bộ trưởng quyền được giao lớn như thế mà khi về kiểm tra địa phương, kiểm tra ngành lại không dám khiển trách một ai cả, dù rằng dư luận nhân dân cũng như dư luận báo chí đã nêu rõ những địa chỉ phạm pháp. Điều tai hại là những người có quyền hạn trong bộ máy hành pháp không thể thực thi quyền hành của mình, cũng không ai nói gì. Lâu ngày, người ta cảm thấy không thể cách chức hoặc kỷ luật một ai và cấp dưới làm đúng, làm sai mình cũng chẳng chịu trách nhiệm gì. Do đó, không biết từ lúc nào nảy sinh một tình hình kỳ lạ vào loại số 1 trên hành tinh : ai cũng có thể được cử làm chủ tịch, bộ trưởng, tổng cục trưởng, thống đốc ngân hàng .... mà những người được cử cũng không hề từ nan, không thấy ai băn khoăn, lo lắng về năng lực của mình đối với trọng trách quản lý một địa phương hoặc một ngành chuyên môn. Thậm chí làm Phó thủ tướng, Thủ tướng hoặc Chủ tịch nước ở đất nước ta nhiều người còn quan niệm đơn giản hơn nhiều. Nghe đâu Trung quốc cũng có thời kỳ tương tự như ta nhưng họ có thận trọng hơn.
Thử hỏi tình hình vì sao nên nỗi ?
Bây giờ lại đi trách Thủ tướng, Bộ trưởng, các chủ tịch tỉnh, chủ tịch huyện, .... cũng là oan cho họ. Họ có được toàn quyền bổ nhiệm ai đâu ? Bản thân họ cũng "bị" bổ nhiệm. Vì ở ta do quan niệm đề cao tập thể và ý thức làm chủ tập thể nên việc gì cũng do tập thể quyết định hết. Tập thể lãnh đạo cấp trên bổ nhiệm các cá nhân cấp dưới mà danh sách bổ nhiệm lại nằm trong tay phòng tổ chức hay ban tổ chức. Ban tổ chức chính quyền cấp nào thì tham mưu cho chính quyền cấp đó. Cán bộ ta dù là đảng viên hay không đảng viên đều hiểu rõ quyền lực của ban tổ chức (phòng, vụ) là rất lớn. Vì thế những phần tử cơ hội muốn tiến thân đều "chạy chọt" ở cửa này.
Tuy nhiên, ban tổ chức Chính quyền, tiếng rằng quyền hạn to như thế vẫn phải nằm dưới ban tổ chức Đảng. Tất nhiên, ban Tổ chức Trung ương có quyền lực cao nhất. Ông trưởng ban Tổ chức Chính phủ cũng phải thỉnh thị ý kiến của ông trưởng ban Tổ chức Trung ương.
Nếu các vị trưởng ban tổ chức cao cấp này đều biết khiêm tốn học tập Phụng Dương công chúa đời Trần thì thực là đại hồng phúc cho Đảng ta và Nhà nước ta.
Như phần trên chúng tôi đã nói, do Bộ Giáo dục ta có sơ khoáng trong việc thi cử, nhiều năm không cho thi môn lịch sử. Mặt khác lại cũng do các đồng chí ta mải mê "công tác tổ chức" nên cũng ít thời giờ học lại các bài học lịch sử nước ta nên nhiều người quên biến hoặc không biết Phụng Dương công chúa là ai ?
Xin thưa rằng : Phụng Dương công chúa là con vua Trần Thánh Tông là phu nhân của thượng tướng Trần Quang Khải, một vị tướng giỏi võ hay thơ nhưng lười tắm táp. Bà Phụng Dương cùng với Linh từ Quốc mẫu (phu nhân Thái sư Trần Thủ Độ) đều là những người phụ nữ quí tộc giỏi nhất vào thời Trần. Nói theo ngôn ngữ hiện nay, một người được giao làm Tổng cục trưởng Tổng cục hậu cần, một người là trợ thủ đắc lực trong việc quản lý và điều khiển gia trang nhà Trần. Công lao của hai bà lớn quá đến mức dẫu các sử gia phong kiến sẵn máu khinh thường phụ nữ cũng thấy vẫn cần phải chép vào Quốc sử.
Riêng bà Phụng Dương với thành tích tổ chức và quản lý đã được Trần Quang Khải tạc công đức vào bia đá. Văn lòng bia chính tay thượng tướng Trần Quang Khải viết. Và bia hiện còn nguyên vẹn tại xã Mỹ Thành, huyện Mỹ Lộc (cũ), tỉnh Nam Định, là đất Thái ấp của ông bà Thượng tướng (*1). Ở đây, chúng tôi chỉ nêu vắn tắt cái nguyên tắc làm việc của bà : "Ai không có tài thì không thể cho chức vụ, nếu thiếu tiền thì cho tiền. Đối với người trong hoàng tộc hay ngoài hoàng tộc cũng thế".
Đấy, học người xưa là học cái thần, cái cốt tử của nếp nghĩ, nếp hành động của người xưa.
Xin thưa với các nhà nghiên cứu văn hóa, nếu tất cả chúng ta bảo nhau, từ công dân cho đến chủ tịch nước, học tập kế thừa có phê phán nếp cảm, nếp nghĩ, nếp sống .... của ông bà ông vải thì lo gì mà không đậm đà bản sắc dân tộc. Cổ động cho việc phục hồi y phục, ẩm thực, lễ hội .... cũng nên vừa phải thôi. Chứ chẳng giúp cho dân tộc phát triển thêm đâu. Còn việc phục hồi hương ước giả phả, gia lễ , xây nhà thờ họ, xây mồ mả .... cũng nên vừa phải thôi.
Xin mời các nhà nghiên cứu quá bộ về nông thôn mà khảo sát tình hình. Quan niệm về dòng họ không đúng nên đã có chuyện tương đối phổ biến : "Chi bộ họ ta và chi bộ họ chúng nó", "chi bộ họ ta dứt khoát phen này phải nắm cái bí thư, còn bên chi bộ họ chúng nó thì cao nhất là chân phó bí thư". Mặc dù trên thực tế "chi bộ họ ta" không ai giỏi bằng người bên các chi họ khác.
Cũng mang tiếng là đảng viên cộng sản, thật đáng xấu hổ với hương hồn Phụng Dương công chúa, Thái sư Trần Thủ Độ và bao bậc tiên liệt anh hùng khác.
Trách các đ/c ta ở nông thôn một phần thôi. Người đáng trách nhất là các nhà nghiên cứu lý luận và các nhà quản lý văn hóa. Tế lễ thần thánh là việc thiêng liêng không bao giờ có thể bỏ được, nhưng khi quí vị đã đi tiên phong trong việc ẩm thực và tế lễ thì các cụ Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan hẳn là không thể yên nghỉ dưới mộ được rồi. Sợ nhất là các vị lại đồng tình với những quan điểm đáng ngờ của giáo sư Léon Vandermessh (Pháp) và tiến sĩ Tu Weiming (Đỗ Duy Minh) (Đài Loan), nhất là quan điểm của ngài Lý Quang Diệu (Singapore) trong việc ca ngợi và phục hồi Khổng giáo. Mà cũng lạ, không rõ ngài Lý Quang Diệu nghiên cứu ra sao mà trong phương châm tu, tề, trị, bình, ngài lại giải thích rằng bình thiên hạ là đem lại hòa bình cho thiên hạ. Chẳng lẽ các hoàng đế Trung Quốc từ xưa đến nay đều hiểu rằng bình thiên hạ nghĩa là bình định, dẹp yên thiên hạ để đặt được được ách thống trị lên đầu lên cổ các chư hầu và tứ di lại là hiểu sai cả chăng ? Xin thưa đó chính là chủ nghĩa bá quyền đấy ạ !
Cũng may vừa qua cơn bão tài chính thổi từ Hoa Kỳ sang vùng Đông Nam Á ta, khiến cho các tiểu long một phen nhào lên lộn xuống, ngay đại long Nhật Bổn tận vùng Đông Á cũng liêu siêu một phen. Thế là nhiều học giả của ta đã có thời kỳ khen nức khen nở các nước rồng, rằng nhờ văn hóa Khổng giáo mà cất cánh được, ta nên mau mau học tập, mau mau phục hồi Khổng giáo, giờ đây đã giật mình và đã có phần nào tỉnh ngộ.
Chúng tôi nói phần nào vì có bài thu hoạch của giáo sư Phương Lựu sau kỳ hội thảo quốc tế về Khổng giáo nhân dịp kỷ niệm 2550 năm ngày sinh Khổng tử tại Thủ đô Bắc Kinh. Chúng tôi chưa được đọc toàn văn bài tham luận của ông Phương Lựu nhưng chỉ cần xem cái tinh thần tóm tắt bài tham luận của ông, chúng tôi thấy ngay một điểm cơ bản là ông Phương Lựu chỉ nói chuyện quá khứ chứ không dám đề cập một vấn đề nào của hiện tại. Nghiên cứu khoa học mà không nhằm phục vụ hiện tại, phục vụ cho sự phát triển của dân tộc và đất nước trong hiện tại thì nghiên cứu như thế bổ ích gì ? Mà ngay nói chuyện quá khứ ông cũng né tránh những những chuyện đau buồn của dân tộc ta do chủ nghĩa bá quyền Khổng giáo gây ra.
Cũng phải thông cảm với các giáo sư. Các vị được người ta trân trọng mời sang, nói những chuyện đau buồn ấy trên đất nước người ta sao được, cho dù người ta cũng là xã hội chủ nghĩa chứ không còn là phong kiến nữa. Nhưng điều đáng lưu ý là đối với những học giả ngoài Trung Quốc có ý kiến phê phán mặt tiêu cực của Khổng giáo thì nghe giọng văn của giáo sư Phương Lựu cũng thấy ông chẳng đồng tình với họ. Chúng tôi cũng chẳng lạ gì giáo sư Phương Lựu vì toàn bộ phần nghiên cứu của ông từ trước đến nay có bao giờ giáo sư đề cập và giải quyết rốt ráo một vấn đề gì thuộc về lý luận giúp cho đất nước phát triển.
Cũng không thể đòi hỏi nhiều hơn ở ông Phương Lựu được. Do đó chúng tôi chỉ thẳng thắn thưa với ông Phương Lựu cũng như tất cả những vị đang nghiên cứu về nho giáo ở nước ta rằng : xin các vị hãy thận trọng !
Dân ta không lạ gì Khổng giáo và trong vài ngàn năm qua, Dân ta đã khôn ngoan thu hút những mặt tốt đẹp tinh hoa của Khổng giáo. Vì thế mà chúng ta có bao nhiêu nho sĩ khí tiết, bao nhiêu nhân tài lỗi lạc nhờ sự tiếp nhận tinh hoa Khổng giáo. Thử hỏi các ông : chúng ta còn bỏ sót không tiếp nhận phần tinh hoa nào ?
Còn những phần hủ bại chưa đào thải hết, hãy còn bị dị ứng trong cơ thể tư duy Việt Nam liệu có nên giữ lại hoặc khuếch trương nữa không ? Người ta xây dựng CNXH mang màu sắc Trung Quốc thì người ta khai thác Khổng giáo và những thứ quá khứ cần thiết cho họ. Đó là công việc của người ta. Ngài Lý Quang Diệu và tất cả những người lãnh đạo khôn ngoan nào khai thác được Khổng giáo, lợi dụng được quá khứ để phục vụ cho giai cấp người ta. Đó cũng là công việc của người ta, là cái "thuật" của người ta. Mình háo hức bắt chước thế nào được. Mình cầu viện quá khứ một cách vô nguyên tắc thế nào được ? Dứt khoát chúng ta không thể chủ trương đóng cửa về mặt tư tưởng, cũng như về mọi lĩnh vực khác. Phải lo mà học lấy cái hay của thiên hạ. Phải nghiêm túc học tập Đức thánh Khổng và mọi đức thánh của thiên hạ, nhưng thử hỏi những bài học của Đức thánh Trần và Đức thánh Hồ và các Đức thánh khác của Việt Nam chúng ta đã học đầy đủ và kỹ lưỡng chưa ? Còn bao nhiêu bài học trị nước và đối nhân xử thế của các vua anh minh thời Lý, thời Trần, thời Lê .... chúng ta đã học nghiêm chỉnh chưa ? Đã bảo nhau vận dụng sáng tạo vào đời sống hiện nay chưa ?
Chúng ta chớ quên rằng mình đang sống trong thời kỳ toàn cầu hóa, đâu người ta cũng có chiến lược toàn cầu cả, không tinh tường thì nguy. Đừng thấy người ta bắt tay, vỗ tay đã vội mừng.
Mình đứng trấn cả một vùng Đông Nam Á, các đại quốc thời nào cũng muốn tràn xuống, muốn mở rộng ảnh hưởng muốn "bình thiên hạ" (ngài Lý Quang Diệu mà không nghiên cứu kỹ cái nghĩa này thì nguy !). Việt Nam mình lúc nào cũng như cái gai trong mắt thiên hạ, như khối đá tảng cản bước tiến "bình thiên hạ" của người ta.
Trung Quốc sắp vào WTO rồi đấy ! Mà đến năm 2003 thì thấy nhau ngay chứ đâu xa. Thôi chuyện AFTA và phải đối phó ra sao sẽ bàn sau.
Trở lại chuyện quyền hạn của Ban tổ chức các cấp bổ nhiệm đủ thứ người, đủ thứ cán bộ mà rồi cũng chẳng chịu trách nhiệm gì cả. Ở nước ta bây giờ lại phổ biến một lối nói : "chúng ta có khuyết điểm buông lỏng lãnh đạo", "chúng ta" đây là gồm những ai ? Buông lỏng là thế nào ? Dân tin anh, Đảng tin anh giao cho anh quyền quản lý đất nước, anh lại "buông lỏng" để cho chúng nó đục khoét ăn cắp đầu ăn cắp đuôi. Để mất hàng trăm, hàng ngàn tỷ lại kêu là "khuyết điểm". Làm cho dân đói khổ, mất cả lòng tin vào Đảng, làm lung lay cả Chế độ lại gọi là khuyết điểm. Theo luật Gia Long thì phải khép vào tội đại nghịch. Chúng tôi kiến nghị Quốc hội ta nên bổ sung vào luật hình sự rồi giải thích cho rõ "buông lỏng" có nghĩa là vô trách nhiệm, là thông đồng với giặc nội xâm. Kẻ giật hụi ở quận 5 cướp trắng 1 tỷ đồng của các tư nhân thì bị kết án tử hình. Vậy bọn làm mất của nhà nước hàng trăm, hàng ngàn tỷ thì phải xử tử chúng bao nhiêu lần cho đạt lẽ công bằng ?
Chúng tôi cũng chẳng chủ trương nên bắn nhiều làm gì. Tiền với người dẫu mất thì cũng mất cả rồi. Vấn đề là đến bao giờ chúng ta bàn với nhau một cách thẳng thắn, nghiêm chỉnh để tìm ra lối thoát khỏi những bế tắc này.
Từ trước, chúng ta vẫn phê phán những người theo chủ nghĩa cải lương, thế mà giờ đây chúng ta lại làm nhiều việc rất nửa vời, rất cải lương. Cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước là một chủ trương lớn phù hợp với thực tế, đúng qui luật. Thế mà nhiều người cứ dật dờ không chịu thực hiện. Họ kéo dài ngày nào thì nhà nước tức là Bộ Tài chính bù lỗ ngày ấy. Hãy hỏi các ông giám đốc đang tạ đủ các thứ lý do để trì hoãn, các ông có khả năng bù lỗ không ? Sao lại vì sợ mất chức, mất đặc quyền đặc lợi rồi cản trở ? và cũng xin hỏi luôn hai ông bộ trưởng Bộ Công nghiệp và Bộ Tài chính : lương giám đốc của họ và lương của cả hai ông có đủ để bù lỗ không ? Dư luận cho thấy rằng : tình hình bù lỗ hàng trăm tỉ, hàng ngàn tỉ cho các xí nghiệp làm ăn thua lỗ đã kéo dài hàng mấy chục năm rồi, không được phép tiếp tục kéo dài hơn nữa. Ai tìm cách kéo dài và ai cho phép họ kéo dài, phải chịu trách nhiệm trước pháp luật.
Lại nói về vấn đề pháp luật. Chúng ta vất vả bao năm mới xây dựng được một nền pháp chế mới, được gọi tên là pháp chế XHCN. Còn nhớ có thời kỳ cứ nói đến nhà nước pháp quyền là nhao nhao phản đối rồi chụp ngay cho người ta cái mũ "luận điệu tư sản", "quan điểm tư sản". Sau khi chúng ta xây dựng xong các bộ luật, thì vẫn những kẻ ấy, lại quay ra cản trở việc thực thi các đạo luật. Tất nhiên, giờ đây họ không dám to mồm nói ngược mà ngấm ngầm chống phá rất tinh vi xảo quyệt. Bằng rất nhiều thủ đoạn khác nhau, họ tìm cách vô hiệu hóa các bộ luật của Nhà nước chúng ta.
Có lẽ một trong những thủ đoạn lớn nhất, công khai nhất và xảo quyệt nhất là thường xuyên mang tình nghĩa đối lập với pháp lý.
- Pháp lý, nguyên tắc là như thế nhưng người Việt Nam mình bao giờ chẳng coi trọng tình cảm, tình nghĩa. Không nên cứng nhắc, máy móc để mang tiếng là cạn tàu ráo máng.
- Các ông cứ làm như ta đang sống ở phương Tây không bằng. Lúc nào cũng giở lý. Người Việt Nam mình bao giờ cũng đặt tình lên trên hết.
Mới nghe thì thấy đúng quá.
Nhưng cũng cần phải ngẫm nghĩ suy xét cho kỹ tại sao người Việt Nam ta lại nặng tình nặng nghĩa.
Cùng là dân quần cộc, dân áo ngắn với nhau, cùng là chân lấm tay bùn, chân dầu tay mỡ, thân cò cũng như thân chim mà còn không biết thương nhau thì thử hỏi mượn ai đến thương hộ đây ? Cho nên bát canh cua cũng đưa qua bờ dậu, bát cơm hẩm cũng chia đôi sẻ ba, tối lửa tắt đèn có nhau, cùng cảnh nghèo hèn thì dựa vào nhau mà sống, chung lưng đấu cật với nhau mà sống, còn gì dư dả nữa đâu ngoài tình nghĩa.
Do đó phải thấy rằng tình nghĩa là sở hữu của những cộng đồng nghèo khổ. Những người nghèo hèn trong xã hội bao giờ cũng thương yêu nhau, an ủi nhau, cố kết với nhau mới có thể tồn tại được.
Tình nghĩa trở thành một phương tiện để tồn tại và cũng là phương tiện dùng để đấu tranh.
Khi chưa đủ điều kiện cầm vũ khí nổi dậy thì còn gì ngoài lời kêu xin : xin thầy lý thương cho; xin quan lớn thương cho; xin ông lớn đèn giời soi xét, giơ cao đánh sẽ; chúng con là phận dân đen con đỏ, xin bệ hạ rủ lòng thương, ...
Nghĩa là bằng mọi cách "mẹ chưa đánh roi nào đã khóc" để tìm một sự độ lượng khó thấy ở giai cấp thống trị, nhưng vẫn có hy vọng hão huyền từ ngàn đời : may ra được ngài thương !
Cái dấu vết xin xỏ hèn hạ đáng thương đó hiện còn đầy rẫy trên các đơn từ gửi đến các "đầy tớ" của mình trong nhà nước dân chủ của ta mà chúng tôi đã nhiều phen đề nghị bằng văn bản, nhưng Quốc hội và Chính phủ ta cũng chưa thấy ra lệnh bãi bỏ. Tuy vậy, chúng tôi cũng chưa bao giờ hết hy vọng rằng một ngày đẹp trời nào đó chữ "xin" sẽ biến hết trên mọi đơn từ giao dịch với cơ quan nhà nước để khỏi gây cho các vị "đầy tớ" trung thành của nhân dân sự ngộ nhận.
Có một điều cũng cần phải giải thích. Vua quan nói chung là tham lam tàn bạo, nhưng trong lịch sử nước nhà lại có nhiều ông vua, ông quan tử tế thương dân đến nỗi cho đến nay vẫn là gương sáng cho những người cầm quyền của chúng ta.
Cũng là do hoàn cảnh Việt Nam mình thôi. Một đất nước thường xuyên phải cảnh giác với ngoại bang phương Bắc cũng như phương Nam, các ông vua Lý, vua Trần, vua Lê khôn ngoan nào mà không cần phải thương dân, sát cánh với dân. Bởi một lẽ rất giản đơn nếu các ngươi không hết lòng chống giặc thì thái ấp của ta cũng như ngai vàng của dòng họ ta đâu có còn mà mồ mả tổ tiên các ngươi cũng mất. Giá như các vua Nguyễn cũng biết nối tiếp truyền thống thân dân của các ông vua khôn ngoan thời Đại Việt trước thì đâu đất nước Đại Nam nên nỗi ! Khi vua đã xa dân, không thương dân, không tin dân thì làm sao có gan dám phát động chiến tranh vệ quốc. Rồi khi biết mình đã sai lầm thì đành đầu hàng nhượng đất. Đồng thời lại vẫn muốn tỏ ra mình là người sáng suốt, thức thời, có đạo đức nên mới có chuyện làm đủ thứ thơ văn, nói đủ lời ngụy biện, viết thay cả giặc ngoại xâm lời dụ hàng nghĩa quân đang nguyện một lòng sống mái với kẻ thù (người xưa có phần đáng trách nhưng mấy ông giáo sư tiến sĩ bây giờ lại còn cứ ra sức bào chữa cho sự sai lầm và nói liều lĩnh rằng "mất nước là tất yếu" mới thực đáng thương. (Xem thư dụ hàng của Phan Thanh Giản và bài Phê phán hội thảo Gia Long của Trần Khuê).
Và có những người còn vẫn cố bào chữa cho các vua Nguyễn và triều đình Huế rằng họ vẫn là những người yêu nước "yêu nước theo kiểu của họ". Cũng là một kiểu ngụy biện thôi. Khi một triều đại đã thoái hóa, chế độ phong kiến đã thoái hóa thì các nhà vua chỉ còn biết yêu cái ngai vàng và quyền lợi của dòng họ mình thôi, làm gì có chuyện yêu nước với thương dân ở đây).
Luôn luôn chống lại nhân dân, nhưng các vua chúa phong kiến khôn ngoan sáng suốt vẫn phải nêu bật lên cái chiêu bài "pháp bất vị thân". Đó là một chân lý mà ngay giai cấp tư sản sau khi lật đổ chế độ phong kiến cũng không dám bỏ nguyên tắc này. Vì thế mới có chuyện bộ trưởng, thủ tướng, tổng thống mà có tội vẫn bị khởi tố như thường. Ta mang tiếng là chủ nghĩa xã hội ưu việt mà có thời kỳ một ông giám đốc xí nghiệp hay một ông bí thư Đảng ủy vi phạm pháp luật mà vẫn không dám động tới họ. Nếu có đồng chí kiểm sát nào có công tâm, cương trực dám ký lệnh bắt, dám khởi tố ra tòa thì chánh án lẫn quan tòa ngồi xử mà lòng dạ không yên, ngó trước ngó sau, nghiêng phải nghiêng trái xem ý cấp ủy Đảng thế nào. Thế là họ có căn cứ vào các bộ luật để xét xử đâu, họ chỉ căn cứ vào mấy đ/c cấp ủy. Gặp đ/c cấp ủy nào thẳng thắn cương trực, hiểu biết pháp luật thì họ bảo thẳng : tòa án cứ theo luật pháp mà xử. Còn gặp những đ/c cấp ủy mà không hiểu luật pháp lại tâm niệm rằng người Việt Nam ta trọng tình nghĩa.Thế là vì một vài lý do tế nhị nào đó, dưới danh nghĩa lãnh đạo Đảng phải chỉ đạo sát sao, toàn diện, thế là cứ can thiệp (thư tay hoặc điện thoại) suốt từ đầu vụ án cho đến cuối vụ án khiến cho các tòa án khốn khổ, hoãn đi hoãn lại, thỉnh thị lên thỉnh thị xuống, lúng túng như gà mắc tóc.
Thực ra, chuyện "tình nghĩa" cũng là một thứ chiêu bài thôi để dễ bề bao che cho người thân, cho phe cánh hoặc cho bọn đút lót. Vụ 51 tấn bột ngọt của ông Nguyễn Thiện Luân mà chúng tôi phải nhắc đi nhắc lại nhiều lần là vì, đó là nỗi nhức nhối của nhân dân TPHCM chứ nó đã thấm gì so với hàng trăm hàng ngàn vụ khác. Vấn đề đáng nói là : 51 tấn bột ngọt gian lận làm tù oan bao nhiêu người lại được trả lời dư luận bằng sự khen thưởng, thăng chức và lấy chuyện "tình nghĩa" mà lờ đi hơn chục năm trời. Nhưng năm cháu thiếu niên dại dột ăn trộm 5 con vịt thì lập tức được mở phiên tòa xét xử ngay và kết án thẳng cánh 5 năm tù. Chuyện vịt thì không thấy nói đến "tình nghĩa" mà chỉ thấy nói đến "nghiêm trị" để giáo dục thế hệ trẻ. Ông chủ hụi "Vườn Tre"chỉ giật hụi lường gạt 1 tỷ của nhân dân thì xử tử, ông Kiểm là Tổng giám đốc Dệt Nam Định làm thất thoát 800 tỷ (trong đó có 200 tỷ đi đút lót cấp trên) thì xử 20 năm tù. Thi hành luật pháp một cách coi thường nhân dân và thách thức dư luận như thế thì làm thế nào để bàn dân thiên hạ có thể "khẩu phục tâm phục" được.
Đáng lẽ mỗi quan tòa của mình phải là một Bao Công mới xứng đáng là quan tòa XHCN. Thế mà cả Trung Quốc lẫn Việt Nam ta, ngàn năm qua vẫn cứ chỉ một Bao Công. Cứ làm như lý tưởng công bằng cao vời vợi, xa vời vợi, hầu như không bao giờ với tới.
Đã mấy chục năm nay, giới lý luận cũng như giới nghiên cứu luật pháp của ta, phần đông vẫn gièm pha chê trách không chấp nhận cái gọi là "tam quyền phân lập" của pháp chế tư sản. Vậy thì ta phải thảo luận với nhau như thế nào để tạo ra được một thể chế, nếu không tốt đẹp hơn thì ít nhất cũng phải tương đương chứ sao lại chịu thua kém được. Dù sao cũng phải công bằng mà nhận định rằng cái thiết chế "tam quyền phân lập" được tạo dựng trên cơ sở bản "khế ước xã hội" (Contrat social của Jean Jacque Rousseau) là một thành tựu, một bước phát triển để đảm bảo quyền sống của con người trong xã hội. Ai dám bảo nó không tốt hơn thiết chế phong kiến ? Tất nhiên, nhiều khi giai cấp tư sản cũng vờ vịt hình thức; nhưng chẳng lẽ ta kế thừa những cái tốt đẹp của nhân loại rồi ta chơi thật, lại không tốt hay sao ?
Nếu giới luật pháp cũng như giới quản lý của ta vẫn kiên quyết cho rằng tình hình luật pháp của ta cứ như hiện nay là ổn định được tình hình xã hội, là tốt đẹp và không cần thay đổi thì xin cứ thế mà tiếp tục, chẳng cần bàn bạc gì cả. Những ai quan niệm và chủ trương như thế thì xin nêu rõ tên tuổi chức vụ để cho con cháu ta, lịch sử ta nhận diện cho chính xác. Và tất nhiên, họ phải chịu trách nhiệm chứ không đổ chung chung cho Dân, cho Đảng, cho tập thể và cho khách quan được.
Theo ý chúng tôi thì tình hình hiện nay như thế là rất không tốt. Nếu không sửa thì hậu quả là rất không ổn định cả về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội.
Chúng ta có bộ phận công an điều tra để bắt bằng được mọi loại kẻ thù có hành vi xâm hại đến quyền lợi của nhân dân và cách ly chúng ra khỏi xã hội. Thế mà có những đ/c công an của chúng ta làm ăn tắc trách, điều tra lớt phớt, bắt giam cả người vô tội rồi lại đánh đập, nhục hình, ép cung, mớm cung thế nào đến nỗi người ta không phạm tội giết người mà phải nhận, ký vào bản cung.
Chúng ta cũng có những đ/c kiểm sát viên và những đ/c thẩm phán mà chúng ta hết sức tin cậy. Nếu chưa phải toàn vẹn về mặt năng lực thì cũng là về mặt phẩm chất. Thế mà chẳng đ/c nào chịu nghiên cứu kỹ hồ sơ để phát hiện ra những tình tiết chứng cứ đáng ngờ, vô lý rồi chất vấn lại bộ phận công an điều tra. Với những người có lương tâm và trách nhiệm đầy đủ còn phải bố trí thời gian gặp người phạm tội để hỏi rõ ngọn ngành và bằng độ nhạy cảm của tâm linh mà tìm ra sự thật rồi giao Tòa án Nhân dân để tỏa ánh sáng công lý cho đời. Cả ba phía gồm công an, kiểm sát, tòa án họp nhau lại nhất trí đồng thanh kết tội : tù chung thân.
Thế là, theo luật sư Lương Vĩnh Kim, đúng vào "một ngày đẹp trời", người bị giết lại lù lù trở về nhà.
Thế là các đ/c công an, kiểm sát, tòa án lại họp lại nhất trí với nhau và đồng thanh tuyên bố : phóng thích. (Lương Vĩnh Kim : Một ngày đẹp trời - Báo Tuổi Trẻ số ......./1998).
Vấn đề gay cấn nhất của chúng ta hiện nay là : mình với ta tuy ba mà một, ta với mình tuy một nhưng vẫn phải là ba. Tuy có một sự lãnh đạo chung nhưng phải nghĩ cách tạo ra một cơ chế vận hành như thế nào để ba anh lập pháp, hành pháp và tư pháp trong khi cùng chung mục đích phục vụ nhân dân vẫn giữ được vị thế độc lập tương đối với nhau, giám sát và kiểm soát lẫn nhau trên cơ sở hiến pháp và luật pháp. Có như thế mới hy vọng thực thi được những chức năng chủ yếu của nhà nước chuyên chính dân chủ nhân dân.
Tất nhiên, cũng không thể mơ hồ rồi lại rơi vào tình trạng dập khuôn. Đừng thấy ông Clintơn ra lệnh đánh hết Irắc lại đến Nam Tư, tiếp tục cấm vận Cuba rồi lại lăm le cấm vận Pakistan, khích hết sắc tộc này đến tôn giáo khác bắn giết lẫn nhau mà tưởng nhầm rằng đó hoàn toàn là ý chí và quyền hành của tổng thống.
Không, các vị tập đoàn lái súng ở hậu trường chính trị chỉ đạo cả đấy thôi. Cũng như vụ Monicagate giải quyết theo hướng nào đâu có hoàn toàn phụ thuộc vào tập đoàn báo chí, hay hạ nghị viện, hay thượng nghị viện, hay tòa án tối cao.
Không, tất cả đều nhận một lệnh từ các vị tài phiệt ở đường phố Wall đấy thôi !
Chúng tôi cũng chân thành nhắn với những ai có dịp xuất ngoại Đông Tây đừng ngỡ rằng nước Mỹ là dân chủ nhất đời, thế giới tư bản là thế giới tự do nhất trên đời. Phải tinh tường, khảo sát cho kỹ và thường xuyên cập nhật. Nhẹ dạ cả tin trong lĩnh vực này là cực kỳ nguy hiểm. Vả lại, lâu lâu cũng nên giở Truyện và ký của Nguyễn Ái Quốc và Bản án chế độ thực dân của Nguyễn Ái Quốc mà học lại để cho kiến thức giữ được cấu trúc hệ thống.
Trước khi đi vào bàn một số vấn đề thực sự nghiêm trọng của đất nước, chúng tôi thiết nghĩ cần nhắc lại một lời chỉ dạy mang tính chất chiến lược của Cụ Hồ :
"Nước được độc lập, nhưng dân không có tự do hạnh phúc thì độc lập ấy cũng chẳng có nghĩa lý gì".
Nhắc lại như thế không phải là chúng tôi nhất nhất cái gì cũng "Cụ Hồ". Khi Cụ Hồ sai cũng được quyền phê bình Cụ Hồ, nhưng khi Cụ Hồ nói ra những điều chân lý thì không vâng theo sao được. Cho nên trong bài "Chỉnh đốn để tồn tại và phát triển", chúng tôi phê bình đ/c cựu Tổng bí thư Đỗ Mười và cả hai Đại hội Đảng lần thứ VII và lần thứ VIII là căn cứ vào những chân lý đó. Cá nhân đ/c Đỗ Mười nhầm còn có thể hiểu được nhưng sao cả tập thể đại hội Đảng lại có thể nhầm theo ? Độc lập đã hoàn thành từ sau ngày đại thắng 30-4-75 lại nói rằng phải nhắm vào mục tiêu phấn đấu cho độc lập rồi lờ đi mục tiêu dân chủ, tự do. Mà đã không có tự do thì lấy đâu ra hạnh phúc ! Cụ thể là được tự do cầy cấy thì đang đói kinh niên lập tức no ấm ngay, thậm chí còn dự gạo bán để làm giàu. Mới ngày nào đề ra chỉ tiêu 21 triệu tấn mà trầy trật không giải quyết nổi, thế mà "tự do" thì 33 triệu tấn giải quyết dễ như chơi. (Còn chuyện khốn khổ vì lúa chất ngập nhà ngập sân mà vẫn khổ thì sẽ bàn sau nhưng có thể nói ngay rằng vẫn là vấn đề "tự do" thôi. Sẽ có nhiều người cãi : so với trước đây thì ta cũng no ấm hạnh phúc lắm rồi, cái gì cũng phải giải quyết từ từ. Vâng, xin từ từ.
Chẳng lẽ dân Thái Bình và một số tỉnh đã có hạnh phúc rồi mà vẫn còn nổi dậy chống đối thì quả là điên thật.
Nhưng dân Thái Bình cũng như dân Việt Nam từ thượng cổ đến nay có bao giờ "điên" ?
Cũng nên có một cuộc trưng cầu dân ý xem có nên hưởng tự do hạnh phúc từ từ không, nếu cần từ từ thì từ từ ở mức độ nào và giới hạn cụ thể ra sao ?
Cứ theo chỗ khảo sát của chúng tôi và những người hiểu biết thì từ từ kiểu ta đang đi bây giờ để đến mục tiêu tự do hạnh phúc là Dân ta không chấp nhận và thời đại cũng không chấp nhận.
Thực tế cũng cho thấy một mâu thuẫn : trong khi khuyên Dân cứ an tâm, cứ từ từ thì họ lại hết sức gấp gáp "hy sinh đời bố, củng cố đời con". Họ cũng thấy cần phải làm giàu nhưng họ lại giữ độc quyền làm giàu. Họ cũng thấy thế hệ thanh thiếu niên là quan trọng nhưng nói phát triển thì lại phải ưu tiên cho "con cháu các cụ". Dân cứ yên tâm xếp hàng chờ đấy !
Cho nên chỉnh đốn về mặt tổ chức, nhân sự là rất quan trọng. Nhưng quan trọng trước hết là phải chỉnh đốn về mặt nhận thức và lý luận. Có như thế mới hy vọng chấm dứt được tình trạng đã tồn tại quá lâu đời trên đất nước ta : quan phủ đi quan tri nhậm. Chấm dứt được lối nói châm biếm, mỉa mai của Dân đã thịnh hành từ hồi chưa khoán :
- Dù sao thì ông ấy cũng ăn no rồi, xây nhà xây sân đủ rồi. Chớ có thay ông chủ nhiệm khác mà thêm rách việc !
Hồi ấy, nhiều người không hiểu lại tưởng Dân ta "sờ đầu gối nói chân thật", e ngại, cam chịu không muốn thay đổi gì. Có biết đâu đó là một lối kêu thật to, thật vang xa "Ới Trung ương Đảng ơi ! Chúng nó đang tham nhũng quá lắm !".
Cũng như gần đây, Dân lại bàn tán : chúng ta nên làm đơn kiến nghị với Trung ương không nên khai trừ các Đảng viên hư hỏng thoái hóa biến chất. Vì cho họ về làm "quần chúng" là Trung ương coi thường Dân. Cứ giữ lại trong Đảng mà giáo dục nhau. Nếu số hư hỏng đông quá thì Trung ương phải kiếm một cái đảo, tổ chức cho họ sống riêng chứ không thể cho họ sống lẫn lộn với nhân dân lương thiện được.
Những người cầm quyền và cả những nhà nghiên cứu văn hóa dân gian nên nghiền ngẫm về cái kiểu : "nói đây nhưng chết cây Hà Nội" của bà con lao động áo ngắn.
Đã đến lúc cần phải nhất trí với nhau rằng : Đổi mới ở ta thực chất là một cuộc cách mạng. Cuộc cách mạng này nên làm từ trên xuống chứ không nên để từ dưới làm ngược lên. Trên phải chủ động để tránh mọi sự hỗn loạn, đổ vỡ. Dứt khoát không được dùng những biện pháp, cải lương cải cách nửa vời. Tuyệt đối không dùng những thủ đoạn chắp vá lặt vặt.
Sở dĩ chúng tôi đề nghị sửa tận gốc chính là với ý nghĩa như thế. Gốc vững thì nước yên, chế độ vững vàng. Có tự do thì có hạnh phúc. Đã no ấm hạnh phúc mà xã hội lại không ổn định thì ai thấy ở đâu có tình hình như thế xin mách giùm !
Còn không có tự do hạnh phúc mà xã hội vẫn ổn định thì mong các sử gia "trong biên chế" cũng vui lòng chỉ giúp : Có thời kỳ lịch sử nào ở nước ta cũng như ở thế giới có tình hình như thế không ?
Đại hội VI yêu cầu toàn Đảng, toàn Dân "nhìn thẳng vào sự thật, nói đúng sự thật, nói hết sự thật" đánh dấu một bước tiến quan trọng về mặt nhận thức.
Nhưng chúng tôi thấy cần bổ sung :
- Còn phải chân thành, dũng cảm, thẳng thắn bàn bạc về sự thật cho ra lý ra lẽ và tìm mọi biện pháp thích hợp giải quyết đạt hiệu quả.
- Ai đã chót tham gia giới lý luận mà thấy mình thiếu dũng cảm, thẳng thắn hoặc thiếu trình độ hiểu biết thì hãy vui lòng tạm rút, dành thời gian trau dồi kiến văn, tôi luyện bản lĩnh rồi hãy tham gia. Không được dựa vào quyền được hưởng tự do ngôn luận mà nói nhảm nhí lung tung được. Tự do phải có giới hạn chứ không thể tự do "quá trớn". Các cụ xưa đã dạy : biết thì hãy thưa thốt, và phải chịu trách nhiệm rõ ràng trước pháp luật.
Thảo luận về những vấn đề lớn lao và quan trọng như : nhận thức và tổ chức lại Đảng, Quốc hội, Chính phủ, Tòa án các cấp, .... đâu có thể tùy tiện, khinh suất mà được. Phải nghe nhìn cho thấu, suy ngẫm cho suốt, tâm phải thành, trí phải sáng mới có thể bàn chuyện quốc gia đại sự được.
Trước khi bàn cụ thể từng vấn đề và kiến nghị những giải pháp để thực hiện trong thế kỷ XXI, chúng tôi thấy cũng cần phải chỉnh đốn lại một nhận thức đã quá phổ biến và không biết còn đeo đẳng chúng ta tới năm tháng nào trong thiên niên kỷ mới.
Đã sống hơn một nửa thế kỷ trong chế độ dân chủ với một nhà nước dân chủ, hằng ngày hằng giờ hít thở không khí dân chủ, thế mà không hiểu sao, không ai bảo ai lại cùng lưu giữ những thứ cấm kỵ hết sức cổ lỗ. Rồi lại mang đủ các thứ cổ lỗ ấy ra để hù dọa nhau và hầu như ai cũng cảm thấy mình khôn ngoan thận trọng chín chắn khi biết tôn trọng hoặc lánh xa những điều "cấm kỵ".
Chẳng lẽ họ lại mau quên quá khứ đến thế. Xưa thì vua chúa phong kiến, mới gần đây là chủ nghĩa thực dân cũ, lại gần hơn nữa là chủ nghĩa thực dân mới. Ừ thì chuyện tru di tam tộc tạm cho là đã xa lơ xa lắc, nhưng còn chuyện Hỏa Lò Hà Nội, Khám Lớn Sài Gòn, Côn Đảo và nhất là chuyện ông tổng thống tay sai Ngô Đình Diệm kéo lê máy chém khắp một nửa đất nước, tất cả cũng chỉ chung mục đích khiến cho người ta sợ, ngậm mồm ngậm miệng lại để cho chúng dễ bề đè đầu cưỡi cổ. Nhưng dân Việt ta đâu có ngán.
Phải công bằng mà xác nhận rằng về những trò dọa dẫm, bắt bớ, tù đày, tra tấn, thủ tiêu ngầm, nhục hình, bắn giết,... thì các vị phong kiến và thực dân cũ, mới đều đáng mặt bậc thầy cả.
Ta cần gì học tập chúng. Và xuất sắc về những mặt ấy để làm gì ? Nó trái hẳn với bản chất nhân văn, nhân đạo của nòi giống ta. Mà KGB Liên Xô, đại cách mạng văn hóa Trung Quốc cũng đã chơi những trò này rồi. Để đi đến đâu ? Còn đ/c nào của ta do nhận thức sai lầm lại đi học đòi những điều xuẩn ngốc đó thì ta liệu lấy lời hơn lẽ thiệt bảo ban, dạy dỗ, giác ngộ cho họ. Hà cớ gì phải sợ ? Ắn không dám ăn, nói không dám nói. Lúc nào cũng dúm dó, nơm nớp, mất cả tư thế của người chủ đất nước.
Vào sinh ra tử, mấy chục năm liền quyềt sống mái với kẻ thù dân tộc và giai cấp thì không sợ. Cất lên nói dăm ba câu phải trái thì lại sợ. Thế nghĩa là thế nào ? Chẳng lẽ đi theo cách mạng, đi làm cách mạng bằng ấy năm trời để rồi lại tự nguyện cam tâm ôm cái tâm lý tôi đòi để trở thành những nô lệ mới hay sao ?
Thật đáng cười và cũng đáng thương cho những ai cầm bút nghiên cứu khoa học, cầm bút sáng tác văn học nghệ thuật lại ôm ấp cái tâm lý khốn khổ như thế. Dân tộc và cách mạng hẳn phải xấu hổ khi đã sản sinh ra một bộ phận trí thức ươn hèn như thế. Chính những người đó lại mỉa mai rằng chúng tôi lên mặt dạy đời.
Xin thưa rằng chúng tôi quả thật không hề muốn học tập những ai không đáng học tập và cũng không dám lên mặt dạy những ai thấy rằng họ chẳng cần phải học tập gì nữa.
Nghĩ sao nói vậy. Nghĩ sao viết vậy. Ai thấy rằng những điều trò chuyện dài dòng này có ít nhiều ý nghĩa, có thể chia sẻ được thì đúng là tri âm của chúng tôi. Thủy chung, chúng tôi vẫn thấy rằng đức thánh Khổng dạy là đúng : Học không biết chán, dạy không biết mỏi; lời Lênin dạy là đúng : Học, học nữa, học mãi. Và Hồ Chí Minh của chúng ta chỉ riêng về chuyện học cũng đáng là tấm gương sáng cho muôn đời.
Khi chúng tôi nói "Đảng của chúng ta", chúng tôi tự ý thức được rằng lòng mình không hẹp, trí mình không cạn, mà sự thật lịch sử là Đảng này đâu phải của riêng ai.
Ôi ! Chẳng lẽ tất cả những nô lệ Việt Nam và nô lệ trên đời này đã chọn lựa Đảng Cộng sản đều là nhầm lẫn cả chăng ?
Kẻ nào gây ra sự nhầm lẫn, kẻ đó phải chịu trách nhiệm trước Lịch sử !
Khi Mác từ bỏ mọi học hàm học vị của mình, từ bỏ cả một đời sống yên ổn, hứa hẹn nhiều vinh hoa phú quý để chọn đường này; khi F. Engels từ biệt cha mình và giai cấp của mình, vĩnh biệt cả quyền thừa kế thiêng liêng của mình; khi Hồ Chí Minh thuở đó còn mang tên Nguyễn Tất Thành, nuốt nước mắt bỏ lại cha già nơi đất khách, rời quê hương và Tổ quốc yêu quí dấn thân vào con đường đầy chông gai sóng gió, .... và tất cả những ai mang, bản chất người, có gan từ bỏ cả những gì là thân thiết quí giá của đời mình (kể cả sinh mạng) để chọn con đường này, đâu họ có nhầm !
Có thể có khuyết điểm này nhược điểm khác nhưng chúng tôi vẫn có quyền tự khẳng định rằng : chúng tôi không nhầm.
Chúng tôi chân thành chia buồn với những đồng chí nào đã suốt một đời theo cộng sản mà như theo một thứ đạo giáo, giờ đây lại thấy lòng mình "khô đạo", vỡ mộng, sụp đổ lòng tin .... xin các vị vui lòng bớt đi cho những lời chửi đổng hay phàn nàn ca cẩm. Hãy bình tâm "xét lại" xem mình đã từng mộng mị ra sao. Và các vị không được phép quên rằng Nhân dân và Tổ quốc vẫn ghi nhận đầy đủ công lao của quí vị. Phải tin rằng những gì tốt đẹp trên đời được tạo dựng bằng mồ hôi và xương máu không bao giờ có thể trở thành vô ích và bị lãng quên.
Cũng như các vị, chúng tôi thấy chúng ta có trách nhiệm đối với đương thời và các thế hệ đến sau. Chúng ta đừng hướng con cháu chúng ta vào những niềm tin vô căn cứ hoặc chỉ mang lại lợi ích nhất thời. Chức quyền, bạc tiền thì quí thật, không được coi thường, nhưng đó chỉ là phương tiện không nên coi là cứu cánh (mục đích cuối cùng). Sắp bước sang thế kỷ mới mà vẫn giữ quan niệm "bất cần danh lợi" là bảo thủ, thiếu hiểu biết hoặc đạo đức giả.
Danh hư thì không màng, nhưng danh thực thì cần lắm chứ !
Đã mang tiếng ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông
(Nguyễn Công Trứ)
Lợi bất chính, thì không thiết nhưng lợi chính đáng, sao có thể bỏ qua ?
Cho nên khi Đức Mạnh Tử hỏi có ý trách Lương Huệ vương : nhà vua cứ nói đến lợi làm gì (hà tất viết lợi ?), chỉ nên bàn chuyện nhân nghĩa (nhân nghĩa nhi dĩ hĩ) (Mạnh Tử - Lương Huệ vương). Những lời đẹp đẽ kiểu ấy xưa quá rồi, hỡi các nhà Tân khổng giáo ! - Không theo được đâu !
Phải tiếp tục bàn về nhân nghĩa nhưng không nên vì thế mà quên bàn về lợi ích.
Chẳng phải vì lợi ích, lợi quyền của tất cả những người bị áp bức bóc lột mà cần phải có mặt những người cộng sản trên đời này đó sao ?
Chúng tôi nói cộng sản thứ thiệt để phân biệt rành rọt với thứ cộng sản mỹ ký.
Cộng sản thứ thiệt là những người luôn luôn khuyến cáo nhắc nhở nhau :
"Nếu trên đời còn người nghèo khổ
Chớ thản nhiên sung sướng riêng mình"
(Trần Khuê)
Đâu có thể cứ vỗ ngực ta đây là "Việt minh", "Việt cộng" mà qua mắt được nhân dân.
Một người có thể nhầm nhất thời và nhầm cho đến hết đời. Nhân dân có thể nhầm nhất thời nhưng không bao giờ nhầm mãi mãi.
Điều đáng nói là không hiểu vì sao những "đảng viên thứ thiệt" lại quay ra sợ các "đảng viên mỹ ký". Thậm chí lại mang một tâm trạng bất lực đến nỗi đài chưa báo tin gió mùa đông bắc mà đã vội run lên với nhau cả rồi.
Thế là dựa vào tâm lý này các vị "mỹ ký" tha hồ múa may quay nồm, ăn vụng, ăn cắp, trộm cướp ngay giữa ban ngày. Tỉnh ra thì ôi thôi chúng khuân rỗng cả kho hàng, kho bạc, bán giời chán rồi đến bán đất. Xem chừng lại còn đeo công nợ quốc tế vào cổ con cháu không biết đến đời kiếp nào mới trả xong.
Thế mà khi bàn về việc sửa tận gốc tức là sửa đổi lại Đảng ta thì lại chúng khẩu đồng từ : ấy chết ! đó là việc của Trung ương chứ đâu phải chuyện "gái góa lo việc triều đình", không cẩn thận rồi lại làm mất ổn định chính trị thì gay".
Trung ương bối rối, yêu cầu mọi người nói thẳng nói thật để giúp đỡ, thì mình phải có trách nhiệm góp trí, góp một tay gỡ rối, sao lại có thể làm ngơ được. Không được quyền khinh thường, cũng không được phép sợ hãi. "Nhất ngôn hưng bang, nhất ngôn táng bang", phải nói để tỏ hết trách nhiệm của mình.
Đành rằng trong Đảng, số thoái hóa biến chất không còn là ít nữa nhưng người "cách mạng thứ thiệt" đâu có quyền bi quan. Phải nghĩ ra cách thanh lọc chứ. Và dứt khoát phải bỏ chuẩn cũ nào không thích hợp để định ra những chuẩn mới, cho phù hợp với qui luật và thời đại.
Đảng của thời kỳ xây dựng đất nước, lãnh đạo nhân dân làm kinh tế, làm khoa học kỹ thuật làm sao lại giống y nguyên Đảng thời bí mật, thời cướp chính quyền hay thời kháng chiến được ? Thử nghĩ xem một người được lòng quần chúng (cả tiến bộ lẫn lạc hậu) được lòng cả chi bộ (cả thứ thiệt lẫn mỹ ký) và đ/c Bí thư thì họ thuộc loại người nào mà ta vội "cộng sản hóa" họ ? Đưa những người trung bình và ba phải vào Đảng mà lại mong có một Đảng mạnh thì thật là chuyện hão huyền. Trước đây anh nào yêu nước dũng cảm, trung thành, lý lịch đảm bảo là rõ ngay. Vì anh dám chơi với mật thám, dám sẵn sàng vào Hỏa Lò hay đi Côn Đảo, dám mặt đối mặt với xe tăng tàu bò hoặc dám xẻ dọc Trường Sơn, coi khinh B52 thì mời anh đứng vào hàng ngũ. Cứ nhử kẹo các vị mỹ ký cũng không dám len lách vào đây.
Trong những hoàn cảnh đó cũng không thể khảo kiến thức Mác - Lênin hay lý luận cao xa này khác. Có chuyện thật nhưng cũng không nên lấy đó làm buồn cười. Có vị tỉnh ủy viên nào đó đã viết thư cảm ơn trường Đảng về một thu hoạch quan trọng rằng nhờ các đồng chí mà tôi hiểu được Mác - Lênin là hai đồng chí chứ không phải một. Không sao cả, miễn là cứ "quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh". Đáng lẽ qua mấy cuộc kháng chiến mà may mắn còn sống sót thì lo mà học hành cho chu đáo, chứ cứ đeo sắc cốt đi họp hết ngày này sang tháng khác, động học là ngủ gật thì trở thành "người thật việc thật" trong kho tàng tân tiếu lâm cũng chẳng có gì là lạ.
Chuyện cười ra nước mắt là có những người thuở ban đầu đều có bản lĩnh, thế mà tự gọt bản lĩnh mình thế nào thành tròn trặn đẩy chỗ nào cũng tới. Cấp ủy nào cũng trúng, thậm chí có người còn được đẩy tụt vào Trung ương, 5 năm "không nói không cười" nên được phong là nghiêm trang, thận trọng, chín chắn, đúng mực. Chính chúng tôi đã chứng kiến một đ/c bí thư tỉnh ủy kiêm ủy viên Trung ương Đảng được cả trên lẫn dưới công nhận là người hiền hành đức độ ít nói và biết lắng nghe. Các giám đốc sở các cấp huyện cấp xã, ai báo cáo gì, dù ngắn dù dài, đ/c ấy cũng ngồi yên lắng nghe không ngắt lời ai và cũng chẳng có ý kiến khen ngợi hay chê trách ai. Khi cần đăng đàn huấn thị thì bao giờ cũng phát bài "Ba cuộc cách mạng" mà cách mạng kỹ thuật là then chốt. Cho đến lúc đ/c này về hưu, người ta mới hiểu rằng sở dĩ đ/c ấy không giải quyết được những vấn đề nhằm đưa một tỉnh vốn có nhiều tiềm năng phát triển được, trong phạm vi quyền hạn của mình là vì một phần do thiếu trình độ và năng lực, một phần do ý thức trách nhiệm kém (không dám quyết định vì sợ trách nhiệm, còn tình hình của tỉnh không tốt đã có tập thể tỉnh ủy và cấp trên tức là Trung ương chịu trách nhiệm, một phần nữa do bản tính hiền lành, muốn giữ được đức độ cá nhân, tránh mọi sự va chạm mà trở thành nhu nhược).
Đúng như một nhà thơ đã viết :
"Những kẻ tốt đến yếu mềm chỉ là đồ giẻ rách"
(Việt Phương - Cửa mở)
Đất nước mình tồn tại được vì không phải là môi trường thích hợp cho những kẻ "tốt đến yếu mềm" sinh sôi nảy nở. Đất nước mình là đất nước của những người hiền, nông dân hiền, công nhân hiền, trí thức hiền, thần thánh lại càng hiền. Nhưng hy vọng mọi người chớ quên rằng đây là những "người hiền biết cầm gươm" (ý thơ Trần Đăng Khoa). "Hiền với bụt chứ không hiền với ma", dù đó là ma ngoại xâm hay ma "nội xâm" thì cũng phải tiêu trừ cho sạch bóng trên đất nước này. Kẻ nào khôn hồn thì hàng phục và sám hối để được hưởng lượng khoan hồng. Nói cho bọn "nội xâm" cường hào quan liêu tham nhũng rằng "hàng thì sống, chống thì chết". Chớ có mơ hồ, ỷ lại vào những ô, dù đang độ rách rồi rơi vào tình trạng "chết đuối vớ phải cọc", hối thì đã muộn.
Mong rằng mọi người cách mạng thứ thiệt xúm nhau lại họp bàn để kéo lại, giữ lại bằng được cái bản chất cách mạng của Đảng ta. Tất nhiên là phải nhận diện cho chính xác những kẻ cơ hội. Đó là cái bọn "đi với bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy" - chớ có nhìn vào áo mũ, cái ghế hay cái ô tô phải nhìn vào tim gan họ.
Đã đến lúc phải mạnh dạn chia tay với cái nếp khôn vặt, thụ động "gió chiều nào che chiều ấy". Lại phải như ngày nào, giữ thế chủ động xông thẳng vào gió mưa bão táp mà giải quyết vấn đề.
Mỗi người một ý hay góp vào, có nói nhầm nói sai cũng chẳng chết ngay đâu mà sợ. Lòng trong sáng, lo gì tập thể và nhân dân không hiểu mình. Đã yêu nhau thì bao nhiêu chỗ lệch cũng kê cho bằng được hết. Đảng mình có những chỗ sai, chỗ hỏng thì phải góp ý xây dựng để sửa chỗ sai chỗ hỏng chứ lại giữ thái độ "kính nhi viễn chi" sao được.
Như trên chúng tôi đã nói : vấn đề gay cấn nhất của Đảng mình hiện nay không phải là lo sửa chữa những sai sót cụ thể về mặt này mặt khác. Gay nhất là chỉnh đốn lại nhận thức và lý luận. Có thể nhận thức đúng và lý luận đúng, tình hình vẫn không phải lập tức tốt ngay lên. Nhưng chắc chắn tình hình cũng không thể tiếp tục xấu hơn. Câu này của Lênin vẫn là một chân lý : "Không có lý luận cách mạng thì không có phong trào cách mạng".
Khi đã có lý luận đúng thì hành động sẽ đúng và tình hình sẽ dần dần tốt lên và chắc chắn sẽ đi đến thắng lợi cuối cùng. Nếu có thất bại thì cũng là tạm thời thôi chứ không thể đột nhiên tan rã và sụp đổ như Liên Xô và Đông Ấu vừa qua


Đối Thoại Năm 2000
Dân chủ: Vấn đề của dân tộc và thời đại (c)
Trần Khuê - Nguyễn Thị Thanh Xuân


Theo chúng tôi, vấn đề cấp thiết nhất về lý luận hiện nay là phải hiểu cho chính xác và toàn diện về khái niệm "cầm quyền".<!--more-->
"Đảng ta là một Đảng cầm quyền" (Di chúc Hồ Chí Minh). Thêm một lần nữa, chúng tôi xin nhắc lại rằng : đó là một chân lý, một nhu cầu của Dân tộc và Lịch sử. Và đó cũng là một thực thể chính trị mà mọi lực lượng chống cộng cần nhớ rằng : động đến nó là động đến cả một dân tộc. Chớ có đùa với lửa, chớ có đùa với lịch sử. Nhưng ta với nhau thì lại phải phân biệt cho rõ : thế nào là cầm quyền ? Cầm quyền gì và không cầm quyền gì ? Ở đời có chuyện không cầm mà vẫn giữ được tất cả, ngược lại cầm hết, cái gì cũng cầm thì lại chẳng nắm giữ được gì.
Lại có chuyện cũng là cầm nhưng lại cầm lỏng cầm chặt ở cấp độ nào. Cái gì cũng cầm lỏng cả, thậm chí lại còn buông lỏng, liệu còn giữ được những gì ? Cái gì cũng cầm chặt, khư khư cầm tất cả thật chặt liệu đủ sức không ? Và giữ được bao lâu ?
Lâu nay, giới lý luận của ta hầu như không quan tâm đến vấn đề phân biệt cầm quyền lãnh đạo và cầm quyền quản lý, chỉ mải nhấn mạnh và chỉ lo mọi người quên mất rằng : Đảng phải độc quyền lãnh đạo, duy nhất lãnh đạo. Và trong khái niệm lãnh đạo này, người ta gói trong nội hàm của nó cả quyền quản lý. Họ lại luôn luôn lo sợ rằng hễ chia quyền là mất Đảng, mất CNXH. Do đó, mấy chục năm liền ở ta cũng như toàn phe XHCN, Đảng lãnh đạo tất cả mà cũng quản lý tất cả.
Hãy cứ công nhận tất cả như thế là đúng thì ngay trong cái đúng này cũng đã chứa đựng những sai lầm không thể khắc phục được.
Thử ngẫm xem trên đời này, từ cổ chí kim, từ đông sang tây, từ tế bào vi mô cho đến vũ trụ vĩ mô có cái gì một, chỉ một mà thôi và dứt khoát phải một mà tồn tại được. Tồn tại không xong chứ nói gì đến phát triển.
Độc quyền lãnh đạo, về mặt nào đó, phải coi là một nguyên tắc. Với cái nghĩa đơn giản nhất lãnh đạo là dẫn đường, vậy thử hỏi tất cả các vị, nhu cầu của chúng ta là phải cần mấy người dẫn đường ? Giả thiết có hai vị dẫn đường mà một vị thì chuyên môn hứa hão nhưng lại kiên quyết bảo mọi người rằng : cứ theo ta tất sẽ đến cõi no ấm, cõi vui vẻ; với một người : đi với ta đến cùng, chia sẻ với ta mọi nỗi đắng cay, nhọc nhằn tủi nhục, vui buồn có nhau, nói với ta rằng : con đường hạnh phúc còn xa nhưng quyết đi thì sẽ tới. Vậy thì ta chọn ai là kẻ dẫn đường ?
Chuyện đời nhiều khi nói dài dòng sinh phức tạp chứ thực ra cũng đều là giản dị dễ hiểu thôi. Ai đã từng đi đường trường đều tự biết phải đi như thế nào, phải tìm ra cách đi, sao cho đỡ tốn sức người sức của và đến mau đến được nơi cần đến. Cái khó của chúng ta là đường cách mạng lại là một loại đường quá dài, quá gai góc mà đích của nó lại là một vùng chưa có dấu chân người.
Không thể vừa đi vừa ca cẩm phàn nàn hoặc lại nằm xuống kêu mệt, kêu khổ. Thậm chí lại vừa đi vừa ngoái cổ luyến tiếc những gì đã quen hay bàn nhau vòng lại lối xưa đường cũ. Đi kiểu này hẳn là muôn thuở sau cũng chẳng đến nơi ta cần đến, chưa kể có vị vừa đi vừa mỉa mai châm biếm kẻ dẫn đường.


Đi đường thì tốt hơn cả là nên giắt trong hành trang thơ văn của người xưa, nhất là thơ văn của cụ Hồ thì giữ tâm linh được yên ổn mà đi tới, tránh được chuyện nản lòng thoái chí :
Đi đường mới biết gian lao
Núi cao rồi lại núi cao trập trùng
Núi cao lên đến tận cùng
Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non
(Nhật ký trong tù)
Đi đã khó, dẫn còn khó biết chừng nào. Người dẫn đường làm sao dám quên mang theo cẩm nang và vận dụng sáng tạo những điều ghi trong cẩm nang của các vị tiên liệt anh hùng :
- Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng.
- Quần chúng là người sáng tạo lịch sử.
- Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong.
- Dân là gốc nước, gốc vững thì nước yên.
- Dân như nước, chở thuyền là dân, lật thuyền cũng là dân.
- Miệng dân sóng bể. Tức nước thì vỡ bờ.
Và có một nguyên tắc mang tính qui luật sao có thể quên : "Mỗi người đều phải đi bằng chân của mình" không thể đi hộ người khác, càng không thể nghĩ thay làm thay người khác.
Nhân dân đi đường chắc chắn phải biết chọn ai cẩn thận để giữ hầu bao, chọn kẻ nào khỏe mạnh để giữ gươm súng đối đầu với thú dữ trộm cướp và không thể giao gạo cho những ai suốt đời "trên sống dưới khê tứ bề nhão nhoét", càng không thể giao cho những vị ú ớ, ngọng nghịu làm kẻ phát ngôn cho mình hoặc cần đối thoại khi hỏi đường hay giao lưu đổi chác mua bán. Nhất định là không giao vải cho những kẻ chưa cầm vững kéo, càng không thể dán vào trán vài ba học hàm học vị rồi cấp hàng tỉ hàng tỉ nuôi béo các vị cai đầu dài trong khoa học.
Tóm lại là cứ tin ở nhân dân, để cho họ lựa chọn những kẻ quản lý từng công việc, từng lĩnh vực.
Nhiều người tưởng đã độc quyền lãnh đạo thì đồng thời phải độc quyền quản lý. Nhầm to ! Thực tế trên đời này chưa có một đảng nào dù tư sản hay vô sản có đủ năng lực và đủ người dăng khắp mạng lưới quản lý từ chính phủ trung ương cho tới các làng xã địa phương. Càng không thể có đủ năng lực và người để quản lý mọi lĩnh vực của đời sống như kinh tế, giáo dục, văn hóa, xã hội v.v. Liên Xô là một mẫu mực về cố gắng này nhưng đã hoàn toàn thất bại. Chúng ta không thể đi theo vết xe đổ đó. Chúng ta không có đủ số đảng viên có năng lực để quản lý các loại hợp tác xã nông nghiệp cấp cao cũng như cấp thấp. Đơn giản là với một nền sản xuất nhỏ, kỹ thuật canh tác lạc hậu mà lại tổ chức làm ăn theo kiểu "cha chung không ai khóc", "lắm sãi không ai đóng cửa chùa", không thể có năng suất như ta mong muốn. Cho nên dù có lo lắng chủ nghĩa tư bản sẽ tự phát nảy nở hằng ngày hằng giờ trên từng mảnh đất riêng lẻ của nông dân, chúng ta vẫn phải giao ruộng đất cho từng hộ nông dân, từng chủ trang trại để họ quản lý thay cho các ban chủ nhiệm hợp tác xã và các ban giám đốc nông trường do tổ chức Đảng cắt cử.


Ở công nghiệp cũng thế thôi. Mấy chục năm liền chúng ta chấp nhận hai hình thức xí nghiệp quốc doanh và hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp. Không thể có chuyện cá thể hay tư nhân ở đây. Làm ăn dù có giỏi giang hiệu quả như vua Lốp thì cũng phải tìm mọi cách triệt bằng xong (cho đến nay chúng tôi cũng không rõ UBND TP Hà Nội đã trả lại nhà cửa và bồi hoàn thích đáng cho ông vua Lốp này chưa).
Và cho dù chúng ta ghê tởm CNTB và lợi nhuận đến đâu, chúng ta vẫn không dám tiếp tục ôm ấp để bù lỗ cho hàng chục ngàn xí nghiệp quốc doanh. Cho dù về mặt lý luận cũng như thực tiễn, các đ/c giáo điều tăng cường hù dọa chúng ta, vẽ ra đủ các thứ viễn cảnh đáng sợ, cuối cùng chúng ta vẫn phải tiến hành cổ phần hóa xí nghiệp quốc doanh và dò dẫm từng bước tư nhân hóa xí nghiệp quốc doanh. Bộ Công nghiệp cũng đã thử lên tiếng rao bán hoặc cho thuê xí nghiệp quốc doanh, nhưng chẳng thấy ai mặn mà hưởng ứng. Nên mừng hay nên lo ? Mừng là vẫn còn xí nghiệp quốc doanh để chủ động bổ nhiệm người tin cậy đứng ra quản lý, lo là không biết nếu trưng thu tất cả lương bổng và tài sản của bộ trưởng và tất cả nhân viên trong Bộ, cả lương tổng giám đốc, giám đốc quốc doanh có đủ bù lỗ không ?
Nói thẳng ra, ai giữ lại thì người đó chịu trách nhiệm chứ không thể kêu gọi Nhà nước và Nhân dân cùng đóng góp trong chuyện lỗ lã này.
Nói sơ sơ như thế để thấy rằng không thể mơ hồ về lý luận và tiếp tục đùa giỡn với qui luật. Như thế là Trung ương Đảng cũng như Nhân dân ta đều cùng nhận thấy rằng mình phải thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng của bản thân đất nước mình càng nhanh càng tốt. Trong cơn bão khủng hoảng tài chính ở khu vực Đông Nam châu Á vừa qua, ta thuộc loại cây thấp nên chịu ảnh hưởng ít nhưng như thế không có nghĩa là có thể tự tin vô lối đến mức bình chân như vại. Cần nhớ rằng lạm phát hay thiểu phát đều tai họa không kém gì nhau. Trong những năm 80 và sang cả đầu thời kỳ 90, chúng ta chống lạm phát có hiệu quả. Do nhiều nguyên nhân nhưng đừng quên một nguyên nhân quan trọng là : lũ "tín dụng" lừa đảo như nước hoa Thanh Hương, Đại Thành, Huỳnh Là .... đã gom gần hết tiền mặt của nhân dân vô tình đã tạo một hệ quả vào việc "chống lạm phát" một cách vô ý thức.
Còn hiện nay lại có tình hình ngược lại, Thủ tướng thấy tình hình giảm phát là nguy hiểm cho nền kinh tế nên kêu gọi và hạ lệnh kích cầu, nhưng mấy ông bộ trưởng Tài chính, Bưu điện, Tổng cục thuế, Ủy ban vật giá chính phủ .... lại ban hành đủ các thứ giá mới, thuế mới trong cùng một thời kỳ nhằm triệt tiêu sức mua của nhân dân.
Đặc biệt việc bán 4.000 tỉ công trái là cách tốt nhất để bảo rằng đừng có mua hàng nữa. Đặc biệt hơn nữa là báo chí ta lại đăng một loạt bài của các nhà nghiên cứu đả kích tâm lý tiêu thụ hàng hóa và khuyến cáo "tiết kiệm".
Tất nhiên, tiết kiệm bao giờ chẳng là quốc sách. Hiện nay, nếu đi nhà hàng mà bảo nhau uống hết két bia này đến kết bia khác, thậm chí còn dội bia lên đầu nhau, hoặc "quan tỉnh" lại cưỡi hàng ngàn con trâu (xe hơi đời mới trị giá tỷ hai) lên vùng cao "thăm nghèo hỏi khổ", hoặc các vị phóng tay duyệt những dự án như "thủy cung Thăng Long", "công viên Thế kỷ", làng văn hóa v.v. thì dứt khoát phải tập trung lũ này lại để tập huấn về bài học Tiết kiệm mà Cụ Hồ đã dạy. Chứ sao lại "dạy dỗ" nhân dân ta phải tiết kiệm. Nhưng cứ giữ chặt tiền tiết kiệm không sắm xe đạp, xe máy, ti vi và không cả uống bia bình thường v.v. thì hỏi sản xuất để làm gì và không bán được hàng thì đẩy mạnh sản xuất làm gì và xí nghiệp sẽ ra sao ? Tiết kiệm vô lối để đuổi các nhà đầu tư nước ngoài về nước và đẩy công nhân ra hè đường chăng ? Ngay nói chuyện lãng phí trong lễ hội hoặc cúng tế, xây từ đường mồ mả .... cũng là do các cán bộ văn hóa và các nhà nghiên cứu văn hóa cổ động mà nên phong trào. Ngay việc cưới hỏi ma chay mà dềnh dang lãng phí cũng là do mấy vị đầu huyện, đầu tỉnh làm gương trước.
Trách dân thế nào được !
Nói chuyện thực tế thì không biết đến bao giờ mới dứt được. Vấn đề là ta phải giải quyết trước hết về nhận thức, lý luận thôi. Có một điều có thể khẳng định được là Đảng chỉ có thể độc quyền lãnh đạo chứ không thể độc quyền quản lý.
Cần giải quyết một nhận thức chứa đựng mâu thuẫn và từ bỏ tính đồng bộ : ta đã không độc quyền quản lý về kinh tế, giáo dục, y tế và nhiều lĩnh vực khác, vậy thì tại sao hầu hết cán bộ lý luận của ta lại nói : dứt khoát ta phải độc quyền quản lý tư tưởng, báo chí và xuất bản.
Độc quyền mà đạt hiệu quả tốt trong việc củng cố chế độ và phát triển đất nước thì ta cứ việc tiếp tục độc quyền, chẳng cần phải bàn bạc gì. Nhưng thực tế cho ta thấy điều gì ?
Chúng tôi có dịp nói chuyện với đ/c Tổng biên tập báo Sài Gòn giải phóng Cao Xuân Phách :
- Tại sao anh không đề báo của anh là "cơ quan ngôn luận của Đảng bộ TPHCM" mà lại đề là "tiếng nói của nhân dân TPHCM" ?
Anh Cao Xuân Phách vặn lại :
- Thế anh thử đếm xem ở trên báo của chúng tôi có bao nhiêu ý kiến của bạn đọc ?
- Nhưng ý kiến bạn đọc lại do các anh duyệt, quyền đăng hay không lại ở trong tay các anh. Giả thiết bạn đọc tố cáo kẻ tham nhũng mà kẻ ấy lại có quan hệ gia đình họ hàng hoặc bạn bè đồng chí của anh hoặc của bất kỳ một người nào trong tòa soạn, liệu anh có đăng không ?
Đó là chúng tôi chưa kể những kẻ hư hỏng như phóng viên Minh Diện nhận tiền lót tay của bọn tiêu cục thoái hóa, quan liêu dối trá, lừa đảo, tham nhũng rồi viết bài rước chúng lên, lừa dối Nhân dân và Trung ương đến mức mọi người tưởng chúng làm ăn chân chính, có thành tích thực sự nên cứ để chúng mặc sức đục khoét, thậm chí còn nhầm lẫn đến mức thăng chức tăng lương hoặc còn tặng huân chương lao động cho chúng và cấp kinh phí cho chúng mở hội mừng công.
Đấy ! Tên Kiểm ở dệt Nam Định, lũ Tamexco, lũ Tân Trường Sanh, Phạm Nhật Hồng, Lê Minh Xư, Minh Phụng là thế đó. Chẳng lẽ tên Kiểm ở dệt Nam Định làm thất thoát hàng 600 tỉ (trong đó có 20 tỷ là tiền mua "quà cáp biếu xén" các cấp, các phóng viên báo Đảng ở Trung ương về thường trú và các phóng viên báo Đảng địa phương lại không biết gì chăng ? lại không hề sơ múi gì chăng ?
Của đau con xót, đáng lẽ mất 100 triệu, hay nói quá đi là 1.000 triệu đã phải tri hô ầm ĩ cho làng xóm và bà con hàng phố biết chứ, cho cấp dưới cấp trên biết chứ, sao lại để mất đến hàng ngàn tỉ, thậm chí 8.000 tỷ (vụ Epco Minh Phụng) mà các phóng viên cứ im như thóc ? Những chuyện sai trái tai hại này không phải chỉ công an kinh tế có phần trách nhiệm mà giới báo chí của ta cũng phải liên đới chịu trách nhiệm. Giao trách nhiệm cho các anh làm tai, làm mắt, làm miệng của nhân dân mà các anh lại giả đui giả điếc và không giả câm, nói năng viết lách tung hỏa mù làm mờ mịt cả tình hình, các anh có tội với Nhân dân không ? Có tội với Đảng không ? Điều chất vấn này chúng tôi xin dành cho Ban tư tưởng văn hóa Trung ương, Bộ Văn hóa và Hội Nhà báo Trung ương trả lời. Chúng tôi chưa thấy ai tự phê bình về sai lầm khuyết điểm này trên báo chí.
Ở đây, chúng tôi không muốn nói đến các Ban thanh tra nữa vì trong bản "Chỉnh đốn để tồn tại và phát triển", dựa trên tình hình thực tế chúng tôi đã kết luận : Các đoàn thanh tra của chúng ta đã bị vô hiệu hóa và trở thành tê liệt. Chúng tôi cũng đề nghị nên giải tán một tổ chức mang tính hình thức là các ban Thanh tra nhân dân. Chúng tôi rất mừng thấy đ/c Tổng bí thư Lê Khả Phiêu cũng nhất trí với nhận định của chúng tôi. Trong bài diễn văn bế mạc Hội nghị Trung ương lần thứ 8 vừa rồi, mọi người được xem truyền hình trực tiếp và nghe rõ ý kiến đ/c Lê Khả Phiêu nói thêm ngoài văn bản, đại ý thanh tra về cơ sở nào cũng được đánh chén và được nhận phong bì, như thế làm sao phát hiện được vấn đề.
Hiện nay, chúng ta có khoảng 650 báo hàng ngày, hàng tuần, nguyệt san, bán nguyệt san, các loại phụ san, tạp chí từ địa phương đến Trung ương. Mới nhìn qua, thật là một lực lượng hùng hậu. Nhưng thử rà soát lại xem có bao nhiêu kẻ vô tích sự hoặc cam tâm làm bồi bút cho bọn tham nhũng ?
Có một cái nếp không tốt và có lẽ người ta quan niệm phải như thế để giữ được tình đoàn kết trong nội bộ giới báo chí - nghĩa là ai sai mặc ai, không báo nào góp ý phê bình báo nào cả. Do đó, ngoài nội dung sai lầm hoặc nhạt nhẽo thì việc dùng từ sai, đặt câu sai, sửa mo-rat cẩu thả thành phổ biến và kéo dài.
Tình hình tăng về số lượng và sút kém dần về chất lượng không phản ánh đúng năng lực thực chất của giới cầm bút ở Việt Nam. Người có năng lực không sử dụng vào việc quản lý, người có gan viết sự thật không có đất dụng võ. Múa bút duyệt bài trong các ban biên tập hiện nay phần lớn là đám "bi ve" không hề có cái gọi là bản lĩnh của một nhà ngôn luận. Ngoài số người thận trọng muốn yên phận giữ ghế, làm việc theo kiểu tắc trách sự vụ, còn lại là những kẻ nghĩ đủ mưu mẹo câu khách kiếm tiền. Lại còn một số kẻ táng tận lương tâm thì hù dọa người, tống tiền các doanh nghiệp hoặc cơ quan "có vấn đề". Còn một ít người viết báo chân chính, giữ vững lương tâm của người cầm bút, thì gặp đủ mọi sức ép từ nhiều phía : cơ quan thì lo ảnh hưởng đến nồi cơm của anh em, những địa chỉ có vấn đề thì tìm cách xua đuổi hoặc hãm hại. Họ mượn chiêu bài bảo vệ cơ quan Đảng và cơ quan Nhà nước mà thực chất là bao che cho bọn cường hào tham nhũng để phê phán những người cầm bút này thiếu tính Đảng, tàn bạo hơn thì ghép cho tội cầm bút "chống Chế độ". Phùng Gia Lộc là một điển hình trong những nạn nhân điển hình của lối truy chụp và hãm hại này.
Đáng thương cho các cháu vừa mới tốt nghiệp các khoa báo chí. Trông gương các đàn anh như thế nên cũng uốn éo ngòi bút như thế nào để tồn tại. Một số bảo nhau trau giồi không phải kỹ năng viết mà là kỹ năng lách.
Chúng tôi ngờ rằng các đ/c ở Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương cũng như các đ/c có trách nhiệm ở Bộ Văn hóa chưa nhận thức hết được sự nguy hiểm cho Chế Độ và Đất Nước do tình trạng xuống cấp về chất lượng viết và nhân cách của một số đông trong giới báo chí.
Vậy, những đồng chí nào chủ trương báo chí quốc doanh phải giữ độc quyền ngôn luận có đủ khả năng biện hộ cho tình hình này không ?
Ở lĩnh vực kinh tế cũng như nhiều lĩnh vực khác, chúng ta đã nhận thức được chơi kiểu một mình một chợ là không thể phát triển được nên ta buộc phải bỏ trò quốc doanh độc quyền. Vậy ở lĩnh vực báo chí và xuất bản có chơi trò độc quyền được không ?
Nếu cho rằng độc quyền độc diễn là tốt thì ta cứ tiếp tục, chẳng ai cấm được ta. Nhưng nếu tiếp tục làm trì trệ Đất nước và làm lâm nguy Chế độ thì chớ tìm cách chạy tội trước Nhân dân và Lịch sử.
Chúng ta nên bỏ cái tâm lý và một nếp nghĩ thiếu tự tin, lúc nào cũng lo sợ những phần tử xấu lợi dụng, địch lợi dụng. Lỡ nó lợi dụng quyền tự do ngôn luận, quyền ra báo tư nhân để phá ta thì sao ? Đúng là kiểu thần hồn nát thần tính.
Những đ/c chủ trương độc quyền ngôn luận, độc quyền báo chí quên mất rằng ta đang sống trong thời đại thông tin toàn cầu hóa. Ngăn chặn thông tin trong thời buổi này cũng vô lý như là bảo nhau đừng thở nữa. Lỡ không khí có bụi và vi trùng thì sao ? "Nhân cường tật nhược" mình khỏe thì sợ quái gì vi trùng, thần trí sáng suốt thì sợ quái gì ma quỉ. Vả lại ta có cấm nổi báo chí ngoại quốc viết về ta không ? (trong đó có cả các vị lưu vong mất gốc bán hồn cho quỉ, chỉ rình rập mang lửa về quê hương). Ngay các đài BBC, VOA, RFI. . . cứ ra rả hàng ngày hàng giờ xuyên tạc một cách kiên trì hàng nửa thế kỷ, ta đâu có ngán, dân ta đâu có bị mê hoặc.
Tóm lại, địch phá ta đâu có sợ bằng chính Ta phá Ta. Càng bưng bít thông tin thực tế chỉ càng có lợi cho bè lũ tiêu cực, thoái hóa tham nhũng. Càng bịt mồm bịt miệng nhân dân thì bọn cơ hội càng dễ bề lợi dụng. Và chính kẻ địch lại lợi dụng bọn cơ hội này để phát ngôn thay cho chúng và hướng dẫn dư luận đi chệch hướng.
Đánh phá trực tiếp vào chủ nghĩa Mác thì hàng thế kỷ nay các vị chống cộng đã từng thử sức rồi và cảm thấy phải sửa chữa và khắc phục tình trạng bất lực của mình.
Cái này sáng lên, cái khác tự nhiên phải mờ đi. Đánh phá kiểu cũ là lỗi thời rồi.
Giới sử học của ta bình chân như vại trước tình hình thiên hạ hô hoán, viết lách nhằm phục hồi triều Nguyễn, thậm chí có những vị học giả, giáo sư còn phụ họa theo biểu dương công nghiệp và chạy tội cho các vua nhà Nguyễn. Hàng loạt cuốn sách, bài báo và các bài tạp chí thi nhau ca tụng các ông vua bà chúa, ca tụng từ luật lệ, thiết chế chính trị, giáo dục, văn hóa xã hội, đạo đức cho đến cả các món ăn, lối sống cung đình, lễ tống táng và mồ mả của vua chúa nhà Nguyễn. Thậm chí có những vị còn trắng trợn bào chữa cho tội "cõng rắn cắn gà nhà" và tội làm mất nước của triều Nguyễn. Thế mới là đổi mới tư duy sử học, thế mới là "thoáng" chứ !
Đành rằng, nếu chúng ta có sự đánh giá nào khắc nghiệt và bất công với triều Nguyễn, chúng ta có trách nhiệm phải điều chỉnh, phải hối lỗi để đảm bảo sự công bằng đối với lịch sử. Nhưng đối với sự thật lịch sử thì tuyệt đối không ai được phép xuyên tạc.
Không thể có chuyện trong thực tế lịch sử và trên sách sử kể cả Quốc sử quán triều Nguyễn đã ghi chép rằng vua Gia Long đã khéo léo xua đuổi các thuyền buôn nước ngoài (có cả thuyền buôn của người Pháp) mà người nghiên cứu khoa học lại dám bịa ra rằng : nhà vua có chiếu chỉ phát triển thương nghiệp và tàu bè nước ngoài ra vào buôn bán tấp nập (tham luận của Nguyễn Cẩm Thúy tại Hội thảo Gia Long). Lại còn ca tụng vua Gia Long có công mở mang kinh tế miền Nam và đã biết làm "cơ chế thị trường" (tham luận của GS Trần Quốc Vượng, của tiến sĩ Lê Hồng Liêm ...). Và còn gợi ý ta nên biết ơn học tập truyền thống "cơ chế thị trường" đó.
Trong khi sử sách ghi chép rằng vua Quang Trung có chỉ dụ cấm quân đội Tây Sơn không được cướp bóc, đốt phá thì sao lại dám viết tham luận bịa ra chuyện quân đội Tây Sơn đốt phá thành Thăng Long, thậm chí còn đốt phá cả thị trấn cổ Hội an (vẫn tham luận của Trần Quốc Vượng).
Trong số 50 tham luận, có nhiều tham luận viết theo những giọng điệu đó nhằm đề cao vua Gia Long một cách vô nguyên tắc, hạ thấp và xúc phạm đến anh hùng Quang Trung và nghĩa quân Tây Sơn. Chúng tôi viết bài phản đối sự xuyên tạc lịch sử đến trao tận tay đ/c Trịnh Gia Ban, đại diện Tạp chí cộng sản ở phía Nam. Đ/c Ban yêu cầu chúng tôi đừng nêu tên các giáo sư, học giả đã nói sai vì "tạp chí của chúng tôi" đã qui định không phê phán các cá nhân một cách cụ thể, chỉ nên nói : "có ý kiến nêu rằng". Như thế là những người xuyên tạc lịch sử thì có quyền viết cụ thể rằng vua Gia Long thế này, vua Quang Trung thế khác. Còn người viết phản đối sự xuyên tạc lịch sử thì lại không được nói động đến một cách cụ thể : Ông Nguyễn Đình Đầu, ông Trần Quốc Vượng, ông Vũ Ngọc Khánh, ông Lê Hồng Liêm .. Tất nhiên, chúng tôi phải mang bài về và gửi đến Báo Nhân Dân - cơ quan ngôn luận của Trung ương ĐCSVN - Báo Nhân dân cũng không đăng. Chúng tôi cũng chẳng ngạc nhiên.
Nhưng đáng ngạc nhiên là khi ngay trên báo Nhân Dân đăng những bài, theo chúng tôi, có những quan điểm sai lầm, chúng tôi viết bài tranh luận gửi đến cũng không đăng. Theo những thông tin mà chúng tôi nắm được thì có những đ/c trong ban biên tập đề nghị nên đăng, nhưng đ/c Hồng Vinh - Tổng biên tập hạ lệnh không đăng. Đáng lẽ, ai đúng ai sai đều phải đăng cả lên để công luận phân xử, phán xét. Như thế là vừa kích thích được tư duy nghiên cứu vừa có dịp thẩm định để uốn nắn những lệch lạc, hướng dư luận đi theo cái đúng có lợi cho khoa học và sự phát triển của đất nước. Cứ cho ăn thuần một món, cho nghe thuần một chiều mà lại còn kêu rằng dân trí chậm phát triển, hỏi lỗi tại ai ? Xin phép hỏi đ/c Trịnh Gia Ban và đ/c Hồng Vinh :
- Các đ/c làm báo cộng sản mà lại gắng giữ sự an toàn cho bản thân nhằm thăng tiến hoặc hạ cánh an toàn, như thế có xứng đáng không ?
- Thử hỏi Nguyễn Ái Quốc, Nguyễn An Ninh, Phan Văn Trường, Nguyễn Văn Nguyễn, Nam Quốc Cang và bao nhiêu nhà báo cách mạng khác cũng làm báo theo kiểu các đ/c thì dân tộc này sẽ ra sao ? Mình là người làm báo cách mạng mà lại ngại hy sinh, lúc nào cũng dụt dè sợ hãi, không có gan bảo vệ chân lý, bảo vệ sự thật lịch sử dân tộc, không bênh vực quần chúng bị áp bức đau khổ, không đóng góp vào tiến trình phát triển của đất nước thì có đáng hổ thẹn với các bậc tiên liệt hay không ?
Chúng tôi chưa hỏi đến chất cộng sản trong người các đ/c, hãy nói đến sứ mệnh bình thường của người làm báo thì ngay nhân dân ở các nước tư bản cũng không chấp nhận chứ đừng nói đến nhân dân ở nước Cộng hòa XHCN Việt Nam ta.
Vì vụ hội thảo Gia Long không giải quyết dứt điểm nên mới nẩy nòi ra hội thảo Việt Nhật. Sự xâm lược của phát xít Nhật lại biến thành "sự hiện diện của người Nhật". Hai triệu người chết đói năm 45, cả thế giới đều biết, mà chính các sử gia chân chính của Nhật Bản phải viết thành sách để xác nhận và tố cáo tội ác này. Và chính một giáo sư Nhật - giáo sư Furuta Moto - đã hợp tác với giáo sư Văn Tạo bỏ ra mấy năm liền đi điều tra thực địa, khảo sát 314 hồ sơ tội ác để viết thành 1 cuốn sách 732 trang về "Nạn giết hại 2 triệu người Việt Nam, xảy ra ở thế kỷ XX này, đó là một nỗi nhục của nhân loại" (Trích thư tay của giáo sư Furuta Motoo).
Những người nghiên cứu khoa học có lương tâm, có ý thức tôn trọng lịch sử và chân lý thì nghiên cứu và viết như thế đó !
Thế mà ông giáo sư Mạc Đường - lúc bấy giờ là Viện trưởng Viện KHXH tại TPHCM lại định hướng và chỉ đạo cho ông tiến sĩ Đinh Văn Liên - giám đốc Trung tâm Sử học cùng với một số giáo sư, học giả, tổ chức hẳn một hội thảo cấp quốc tế để hóa phép hơn hai triệu đồng bào chết đói thành còn "hơn một triệu" Viện trợ của Nhật cho ngụy quyền Sài Gòn lại biến thành viện trợ nhân đạo cho nhân dân miền Nam Việt Nam, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước lại được phù phép thành "cuộc nội chiến".<!--nextpage-->
Chúng tôi đã viết bài phê phán hội thảo Việt Nhật (bài "Không được phép xuyên tạc lịch sử"). Tất nhiên, đ/c Trịnh Gia Ban và đ/c Hồng Vinh cũng không đăng. Đặc biệt là một người được lệnh đăng cũng không đăng. Đó là giáo sư tiến sĩ Trần Trọng Đăng Đàn - Tổng biên tập Tạp chí KHXH của Viện KHXH tại TPHCM. Xin tóm tắt sự việc xảy ra như sau : Ngay trong hội thảo Việt Nhật, dư luận đã xôn xao về sự xuyên tạc lịch sử trắng trợn, thể hiện cụ thể trên hai tập kỷ yếu phát trước cho các đại biểu. Sau đó, dư luận càng xôn xao bàn tán về sự kiện này. Chúng tôi viết bài "Không được phép xuyên tạc lịch sử !" với nội dung chủ yếu là phân tích, lên án sự xuyên tạc và yêu cầu Quốc hội chất vấn đại biểu Nguyễn Duy Quí về việc dung túng cho những người tổ chức hội thảo Gia Long và hội thảo Việt Nhật.
Khi nghe chúng tôi báo cáo, đ/c Huỳnh Vân bấy giờ là Bí thư Đảng ủy Viện yêu cầu chúng tôi hãy khoan gửi cho Quốc hội để đ/c thỉnh thị Trung tâm KHXH và NVQG ở Hà Nội đã. Đ/c Trần Trọng Đăng Đàn sau khi xem bài viết cũng động viên chúng tôi :
- Bài viết phê phán này đúng lắm. Lần này dứt khoát tạp chí chúng tôi phải đăng. Anh thông cảm, bài phê bình hội thảo Gia Long tôi không đăng vì chưa được bật đèn xanh. Kỳ này ông Quí đã bật đèn xanh thì không ngại gì cả. Ông Quí còn yêu cầu đăng cả bài tự kiểm điểm của ông Mạc Đường và của Đinh Văn Liên.
Chúng tôi cũng như mọi người trong Viện đều không tránh khỏi ngạc nhiên trước thái độ khẩn trương sốt sắng của đ/c Nguyễn Duy Quí. Sau khi nhận được liên tiếp hai bản fax của đ/c bí thư Huỳnh Vân và đ/c Tổng biên tập Trần Trọng Đăng Đàn, đ/c Quí liền cử ngay đ/c Đỗ Hoài Nam - phó giám đốc TTKHXH và NVQG bay vào họp gấp những người đã tham gia tổ chức hội thảo Việt Nhật và Ban biên tập tạp chí để truyền đạt chỉ thị của đ/c Nguyễn Duy Quí. Mọi người xì xào bàn tán : thế mới xứng đáng là ủy viên trung ương, là đại biểu quốc hội chứ ! Có người còn khen đ/c Quí : ông Quí thấy được tầm quan trọng của vấn đề nên có cử ông Hồ Ngọc Hải vào đâu mà lần này cử hẳn một ủy viên trung ương ! Sau khi lên chế bản bài báo "Không được phép xuyên tạc lịch sử !", sau khoảng gần 10 buổi làm việc với ông Đàn và ông Huỳnh Vân, theo tinh thần công văn chỉ đạo của Trung tâm KHXH+NVQG do ông Nguyễn Duy Quí ký, ông Đàn nói :
- Chưa đăng ngay bài này được vì còn chờ hai bài kiểm điểm của ông Đường và ông Liên.
Đùng một cái, ông Đàn cho biết bài này không thể đăng được.
Ngay tối hôm đó, chúng tôi gọi điện thoại đường dài ra Hà Nội tới nhà riêng đ/c Nguyễn Duy Quí hỏi lý do, đ/c Quí trả lời chúng tôi : để đ/c hỏi lại anh Đàn chứ tôi không ra lệnh thôi đăng bài của anh.
Chúng tôi gặp ông Huỳnh Vân và hỏi ông :
- Vừa rồi anh Mạc Đường chiêu đãi anh với anh Đàn ở nhà hàng Phú Thọ, bàn bạc với nhau ra sao mà ông Đàn lại bảo không đăng bài Việt Nhật nữa ?
Ông Huỳnh Vân trả lời ngay :
- Ông Đường có mời nhưng tôi không đi. Còn việc tại sao không đăng tôi cũng không rõ.
Sau khi họp hội thảo quốc tế Việt Nam học ở Hà Nội về, chúng tôi thông báo cho ông Đàn biết :
- Vừa qua, chúng tôi đã gặp anh Quí và nói với anh Quí rằng : như thế là anh Đàn đã cơ hội thỏa hiệp vô nguyên tắc, chống lại lệnh của anh. Đó là điều nguy hiểm nhưng không nguy hiểm bằng anh Đàn đã chống lại chúng tôi. Chúng tôi lại nói thêm với anh Đàn (có cả mọi người trong phòng tạp chí nghe rõ) :
- Đăng hay không là quyền của anh, nhưng chúng tôi cũng giữ cái quyền công khai thông báo cho dư luận cả nước biết về thái độ cơ hội thỏa hiệp của anh.
Do mắc bận viết bài "Chỉnh đốn ..." do đ/c Triết đặt hàng nên chúng tôi tạm lơ vấn đề Việt Nhật.
Nhưng chúng tôi thật sự kinh hoàng khi nghe tin họ rục rịch tổ chức Hội thảo Việt Nhật lần thứ hai với nhiều đại biểu quốc tế hơn.
Chúng tôi tự hỏi : chẳng lẽ phía Nhật đã thay đổi quan điểm lập trường, tài trợ cho hội thảo Việt Nhật lần thứ hai là nhằm ca tụng VN và giúp đỡ cho VN phát triển. Chúng tôi tự rút ra kết luận : trên đời này không ai cho không ai cái gì cả, thiên hạ bỏ tiền ra tài trợ cho các hội thảo khoa học không phải làm chuyện từ thiện mà không thu được lợi gì. Nhiều nhà khoa học tự nhiên của chúng ta đã hớ trong việc này, vô tình hoặc hữu ý trở thành người cung cấp các thông số, các dữ kiện kinh tế, tự nhiên, môi trường (Thậm chí những tham số thuộc bí mật quốc gia) với giá rẻ mạt. Còn nhiều nhà khoa học xã hội của ta làm việc kiểu hội thảo Việt-Nhật, mọi người đã thấy rõ. Điều nguy hiểm là hội thảo kiểu này, một mặt người ta phản khoa học,trắn trợn xuyên tạc lịch sử, mặt khác còn đâm lưỡi dao vào lưng các nhà khoa học chân chính Nhật Bản và làm trò cười cho giới khoa học quốc tế.
Điều nguy hiểm sâu xa đáng sợ hơn là nếu ở bộ phận biên soạn sách giáo khoa lịch sử, của Bộ giáo dục tưởng đây là những phát hiện mới được các nhà khoa học quốc gia và quốc tế công nhận rồi cập nhật vào sách giáo khoa phổ thông và giáo trình đại học thì hậu quả di họa đến bao đời ?
Vì ở ta làm gì đã có thông lệ như ở Nhật để có thể kiện Bộ Giáo dục yêu cầu rút những kiến thức sai lầm ra và thay kiến thức chính xác vào. Và ngay ở Nhật một vị giáo sư đáng kính cũng đã phải kiên trì kiện Bộ Giáo dục Nhật 20 năm liên tục mới đưa được cụm từ "phát xít Nhật" và "tội ác xâm lược" đối với nhân dân châu Á vào sách giáo khoa.
Vì người ta không giải quyết dứt điểm : phê phán đúng mức và xử lý kỷ luật thích đáng đối với những người có trách nhiệm trong việc tổ chức hai hội thảo Gia Long và hội thảo Việt Nhật nên họ lại âm thầm tiến hành hội thảo Việt Nhật lần thứ hai. Lần này, họ tỏ ra khôn ngoan bằng cách lôi kéo thêm những người như : ông Trần Trọng Đăng Đàn, ông Nguyễn Công Bình vào Ban tổ chức hội thảo, lại lôi kéo thêm một số giáo sư chưa bao giờ nghiên cứu về quan hệ Việt Nhật viết bài như giáo sư Nguyễn Văn Hạnh. Đúng là họ làm khoa học theo kiểu tư duy và tác phong tiểu nông, cứ kéo càng đông càng tốt. Chúng tôi có hỏi giáo sư Nguyễn Văn Hạnh :
- Tại sao anh đã thấy hội thảo Việt Nhật lần thứ nhất như thế mà anh còn tham gia viết bài cho hội thảo này ?
- Tôi cũng viết cho vui.
Đấy ! Hiện nay chúng ta đang ở trong một tình trạng tổ chức hội thảo tràn lan la liệt. Họ lôi kéo mời mọc bằng được những giáo sư này những tiến sĩ nọ để cho đông vui, cho oai. Còn các giáo sư tiến sĩ nhà ta dù chẳng thuộc lĩnh vực mình nghiên cứu cũng nhận lời viết bài tham gia. Người thì tham gia cho vui, kẻ thì vì một vài cái phong bì, kẻ thì cũng chẳng cần gì cả ngoài việc hy vọng được giới thiệu trân trọng, được nghe vỗ tay và thiên hạ nhớ được học hàm học vị của mình. Hầu hết các tham luận của giới KHXH hiện nay rơi vào tình trạng sao chép, lý luận kinh viện. Rất hiếm tham luận phát hiện được vấn đề, giải quyết những vấn đề bức xúc của đời sống theo một định hướng đúng. Chúng tôi vì ý thức trách nhiệm nên viết thư báo cáo với địa phương và trung ương, cả hai hội thảo kể trên đều xuyên tạc lịch sử và xúc phạm đến tình cảm thiêng liêng của dân tộc. Nếu các đ/c cho phép họ tiếp tục tổ chức, các đ/c phải chịu trách nhiệm. Chúng tôi cũng thẳng thắn phê phán ý thức tổ chức kém cỏi, thái độ cơ hội của ông Trần Trọng Đăng Đàn và thái độ làm lơ vô trách nhiệm của ông Nguyễn Duy Quí.
Trong bản thư kiến nghị, chúng tôi cũng đã nêu rõ nguyên tắc : hội thảo khoa học phải nhằm phục vụ cho sự phát triển của đất nước. Chúng ta mở cửa giao lưu kết bạn với tất cả các nước, sẵn sàng tiếp nhận mọi nguồn đầu tư, tài trợ của bè bạn quốc tế nhưng không được quên phương châm tự lực cánh sinh, không được bán hồn cho quỉ. Tuyệt đối không được để các nguồn tài trợ chi phối chủ quyền đất nước, chân lý lịch sử và lương tâm chúng ta.
Chúng tôi hoan nghênh sự đồng tình của lãnh đạo thành phố và mệnh lệnh kịp thời của Trung ương đình chỉ cuộc hội thảo Việt Nhật lần thứ hai.
Có một số người thiếu hiểu biết hoặc bị tổn hại đến quyền lợi riêng lại chê trách chúng tôi là cứng rắn, bảo thủ, cản trở khoa học phát triển. Chê hay khen là quyền của họ. Còn phê phán sai lầm và đề ra hướng sửa chữa là trách nhiệm của chúng tôi cũng như tất cả những người có lương tri muốn đối xử tử tế với lịch sử, với chân lý và dân tộc.
Gần đây, chúng tôi được tin, phía Nhật đã gửi công văn yêu cầu Viện KHXH tại TPHCM hoàn trả 17.000 USD (mười bảy ngàn đô la Mỹ). Dư luận trong Viện, ngoài Viện xôn xao bàn tán về chuyện ông Mạc Đường - cựu viện trưởng - được chia 16 triệu, ông Nguyễn Thế Nghĩa - tân viện trưởng - được chia 8 triệu, còn ông Đinh Văn Liên và đồng bọn chia chác nhau bao nhiêu thì hiện nay chưa rõ.
Chuyện ăn chia của họ hoặc lót tay cấp dưới cấp trên thực hư như thế nào, chúng tôi không cần quan tâm. Chỉ biết rằng liệu bảo nhau gom lại cho đủ mà trả lại đủ cho người ta. Đừng có để nhục đến quốc thể. Và cấm không được phép lấy tiền ở quĩ Viện cũng như bất cứ quĩ két nào của nhà nước, không được bắt nhân dân trả nợ đậy cho họ.
Nhân đây, chúng tôi cũng xin nói thêm về vấn đề hội thảo trong thời kỳ đổi mới hiện nay. Trước hết xin được phép nhắc lại : đổi mới là nhu cầu của dân tộc và thời đại. Không ai được quyền bàn lùi. Cũng không được đổi mới vô nguyên tắc. Cái đúng, cái tốt sao lại có thể bỏ đi được, sao lại có thể thay thế được với lý do vì nó đã cũ. Người ta chỉ có thể bỏ cái cũ nếu nó hủ bại lỗi thời. Nực cười cho những người ngụy biện này trong khi tìm cách phỉ báng, hủy bỏ cái ĐÚNG, cái TỐT lại lục ra cái HỦ BẠI, cái LỖI THỜI rồi tô son trát phấn cho rằng làm như thế mới là "nối tiếp truyền thống", giữ gìn được bản sắc dân tộc.
Đổi mới kiểu này thử hỏi sẽ đưa nhau đi đến đâu ? đến được định hướng nào ?
Lại nói đến cái MỚI. Mới mà đúng, mà tốt, mà tiến bộ không theo sao được ? Nhưng thử hỏi MỚI mà lố lăng, lai căng, mất gốc thì có theo được không ?
Chúng tôi nói đến hội thảo Gia Long và hội thảo Việt Nhật cũng là nhằm mục đích để tất cả chúng ta - giới lãnh đạo, giới quản lý, giới nghiên cứu và giới báo chí - xem xét lại toàn bộ vấn đề nằm gọn trong bốn chữ TỰ DO NGÔN LUẬN đã được ghi ngay trong Hiến pháp năm 1946. Sau Cách Mạng Tháng Tám, căn cứ vào Hiến pháp, Bác Hồ cũng đã ký một sắc lệnh cho phép ra báo tư nhân. Tất nhiên, trong thời gian kháng chiến chúng ta không áp dụng nữa. Vì tất cả cho "trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi" và sau này là "tất cả cho cuộc kháng chiến chống Mỹ thắng lợi". Không ai có quyền nói ngang bàn ngang làm ảnh hưởng đến cuộc kháng chiến. Trong 30 năm kháng chiến, chúng ta chỉ có báo Nhà nước, không có báo tư nhân. Áp dụng luật thời chiến như thế là hoàn toàn đúng.
Nhưng còn thời bình, khi chúng ta đi vào làm kinh tế, làm khoa học kỹ thuật, có nên giữ nguyên vẹn tình hình như thế không ? Có nhiều người vẫn nghĩ rằng không thể tự do báo chí và xuất bản theo kiểu tư sản được. Ngay bà luật sư Ngô Bá Thành (đại biểu quốc hội) và một số vị trí thức đã từng hoạt động trong thời Mỹ ngụy tạm chiếm cũng nói rằng "không nên" vì họ cho rằng tự do báo chí của ngụy quyền cũng chỉ là hình thức, không có thực chất. Do đó ta không thể cho phép ra báo tư nhân hoặc nhà xuất bản tư nhân để tránh bị địch lợi dụng. Cảnh giác như thế là đúng.
Nhưng đã đến thời kỳ tất cả chúng ta phải bình tâm xem xét lại tình hình thực tế của đất nước để nếu cần thì điều chỉnh lại hiến pháp, chủ trương chính sách và mọi thứ luật lệ, sắc lệnh của chúng ta.
Phải thẳng thắn mà nói rằng đã nhiều năm ta duy trì một nếp nghĩ không đúng và không tốt mà ta thường gọi là lối suy nghĩ giáo điều, duy ý chí, bao cấp v.v. nghĩa là có những cái chỉ đúng trong một thời nhưng chúng ta lại cố giữ lại và áp dụng cho muôn thuở. Không ai dám nghĩ khác và cũng không cho ai nghĩ khác, nói khác. Nếp nghĩ này gây ra sự trì trệ. Cuối cùng, chúng ta vẫn phải thay đổi vì nếu trì trệ mãi thì chết. Nhưng cứ gần chết mới chịu thay đổi. Và chúng tôi cũng đã từng phê phán cái lối nói xu nịnh của giới báo chí và giới lý luận của ta : Đúng thì khen ngợi là sáng suốt đã đành. Sai cũng khen ngợi. Rồi khi người ta sửa sai đáng lẽ phải phân tích cho ra lý ra lẽ để làm bài học kinh nghiệm lịch sử, nhưng không làm thế, lúc nào cũng vỗ tay khen ngợi, ca tụng.
Đảng thì dứt khoát là sáng suốt rồi. Nhưng từng Ban chấp hành, từng ủy viên trung ương thì cũng là người thường cả thôi, có lúc đúng lúc sai, lúc sáng suốt lúc kém sáng suốt, phải chân thành mà khen ngợi hay phê phán cho khách quan công bằng, giúp đỡ nhau tiến bộ. Cớ gì cứ làm ầm ĩ lên khiến cho những người lãnh đạo hoặc quản lý bối rối không còn biết mình đúng sai ra làm sao.
Khi biết ra được thì thường là quá muộn, xảy ra những tổn thất nặng nề không đáng có.
Không nói ra ai cũng biết rằng những lực lượng chống lại CHXH hay nói khác đi chống lại cái tiến bộ là tồn tại thường trực trên hành tinh này và chúng cũng chưa vội biến mất trong một vài thế kỷ tới. Việc gì phải sợ, việc gì phải thần hồn nát thần tính để tự mình lại làm tổn hại nguyên khí, thần khí của mình. Chẳng khác gì các vị bác sĩ non gan lúc nào cũng nghĩ đến vi trùng với vi rút rồi bản thân mình cũng như vợ con không còn dám ăn uống làm việc vui chơi một cách bình thường.
Đáng lẽ những đài báo thiếu thiện chí của nước ngoài xuyên tạc tình hình thực tế của ta, ta nên tổ chức những bộ phận nghiên cứu phân tích và luận chiến đàng hoàng. Đó là cách giải độc tốt nhất đối với những bộ phận bị nhiễm độc. Cần gì phải bưng tai bịt mắt, giấu giấu giếm giếm giữ thái độ A.Q. lỗi thời : "Mày chửi ông cũng như mày chửi bố mày". Cần nhớ rằng chúng ta đang sống trong một thời đại thông tin với đủ các phương tiện hiện đại, đâu phải như cái thời chơi ga-len bán dẫn ngày nào.
Thử hỏi mấy chục năm qua họ thường xuyên phản tuyên truyền, dùng đủ luận điệu và thủ đoạn xuyên tạc chống phá ta thì đã làm gì nổi ta chưa ?
Xin thưa rằng : chống phá ta mà đạt hiệu quả lại chính là các vị ở trong chăn của chúng ta đó.
Đáng lẽ khi Dân đã kêu, dư luận đã bàn tán về những kẻ cường hào, tham nhũng, quan liêu thì ta phải nghiên cứu xem nguyên nhân tại đâu và có đối sách kịp thời. Nhưng ta còn mải đi điều tra, chụp mũ cho những người phát hiện tình hình rồi gọi ngay là những phần tử "lợi dụng tự do, dân chủ", "chống lãnh đạo", "chống chế độ". Vậy, người tố cáo bọn tham nhũng và bọn tham nhũng : ai là kẻ chống Chế độ ?
Chính vì một thời gian dài chúng ta chỉ lo trù dập những cán bộ trung thực và làm tình làm tội những người dân lương thiện, đồng thời "buông lỏng" hay nói thẳng ra rằng dung túng, bao che cho bọn tham nhũng nên mới trở thành quốc nạn (ngay vừa qua, tại Tòa án nhân dân TPHCM phúc thẩm vụ Tân Trường Sanh mà ông chánh án còn cắt lời bị cáo khi họ khai ra tội lỗi của ông Phan Văn Dĩnh và đoàn thanh tra của Tổng cục Hải quan) thì đủ hiểu cái nếp bao che nó ăn sâu vào máu sâu sắc nhường nào.
Tóm lại, cứ để cho Dân nói, Dân kiểm soát mọi việc và kịp thời tố giác công khai thì tất cả sẽ trở nên tốt đẹp.
- Anh tố cáo sai phải không ?
- Anh xuyên tạc vu cáo phải không ?
- Anh bôi nhọ chế độ phải không ?
- Anh đả kích cán bộ, đả kích lãnh tụ phải không ?
Không cần biết anh là ai (dân thường hay phản động, gián điệp), xin mời anh ra tòa.
"Xuyên tạc lịch sử" là một tội danh hẳn hoi được ghi trong điều 22 của Bộ luật Báo chí và xuất bản, thế mà các ông Hồng Vinh, Trịnh Gia Ban, Trầ n Trọng Đăng Đàn v.v. lại xúm vào bênh vực chúng, thử hỏi các ông là loại người nào ?
Viết đến đây, chúng tôi lại thấy cần phải kính cẩn nghiêng mình trước hương hồn thiếu tướng Tô Ký. Hồi anh Ba Tô Ký còn sống và đang giữ chức chủ tịch Hội cựu chiến binh thành phố, đọc xong bài phê bình hội thảo Gia Long, anh đã nói ngay với đ/c Trần Viết Tá - Tổng biên tập báo Cựu chiến binh thành phố :
- Tôi không quen biết tác giả bài này, nhưng đây là một bài viết tốt có quan điểm đúng, anh cứ cho đăng rồi ta gặp tác giả sau.
Khi nhận được báo biếu và tiền nhuận bút, chúng tôi ngạc nhiên liền hỏi số điện thoại và nói chuyện với Thiếu tướng Tô Ký :
- Thưa anh, chúng tôi không gửi bài đến tòa báo mà anh lại ra lệnh cho đăng. Đó là một việc làm sai nguyên tắc, nhưng các anh đã sai nguyên tắc một cách rất đáng yêu. Nếu ai cũng "sai" được như các anh thì tình hình đỡ quá. Xin cảm ơn các anh.
Đấy, những người cách mạng và cộng sản thứ thiệt đều nhạy cảm với chân lý khoa học và có ý thức bảo vệ lịch sử, bảo vệ dân tộc như thế đó. Đúng là cái máu Vân Tiên, Tử Trực của bà con Nam Bộ. Máu "nghĩa sĩ Cần Giuộc", Nam Kỳ khởi nghĩa, Nam Bộ kháng chiến cũng là cùng một thứ máu này đây.
Như thế là đăng hay không đăng, đăng cái gì hay không đăng cái gì, thật là một tình trạng hết sức tùy tiện. Tình hình xuất bản cũng tương tự.
Ở TPHCM, tháng 10 vừa qua, xảy ra một vụ án hiếm có : tác giả kiện nhà xuất bản. Giám đốc NXB là ông Đinh Quang Nhã, một nhà văn Nam Bộ nổi tiếng. Tác giả đi thưa kiện là ông Lương Vĩnh Kim, luật sư, con nhà liệt sĩ, dân tập kết đã được miền Bắc XHCN nuôi dưỡng đào tạo. Trước khi đến NXB Văn Nghệ để ký hợp đồng liên kết xuất bản, ông Kim đã đưa tác phẩm của mình đến hai nhà xuất bản - NXB Cà Mau và NXB Trẻ. NXB nào cũng đưa giấy phép rồi lại tìm cách rút lại. Đến NXB Văn Nghệ, ông Kim mới được ông Nhã giao giấy phép cho in. Sách đang in thì ông Nhã đòi lại giấy phép. Ông Kim không trả lại giấy phép và cứ đưa sách ra thị trường. Thị trường tiếp nhận, sách bán chạy, ông lại in tiếp. Ông Nhã liền ký quyết định thu hồi sách của ông Kim. Sở văn hóa thông tin cũng phối hợp với NXB Văn Nghệ ra công văn nội bộ yêu cầu các cơ sở phát hành quốc doanh không nhận phát hành sách của ông Kim. Sau khi nhận đơn kiện của ông Kim, Tòa án dân sự TPHCM hoãn đi hoãn lại khoảng 4 lần mới mang ra xét xử. Tình tiết vụ án thì có nhiều nhưng có hai vấn đề mà những người dự phiên tòa và dư luận quan tâm là:
1. Ông giám đốc Đinh Quang Nhã có thẩm quyền ký quyết định thu hồi sách hay không ?
2. Giấy phép xuất bản cho in 1000 cuốn, ông Kim có quyền in thêm không ?
Tất nhiên, dù biện bạch kiểu nào thì việc ông Đinh Quang Nhã ký quyết định thu hồi sách vẫn là sai pháp luật. Luật báo chí và xuất bản đã ghi rõ thẩm quyền này thuộc ông Bộ trưởng Bộ Văn hóa hoặc ông Chủ tịch UBND thành phố. Còn ông Kim thấy sách của mình bán chạy, muốn in thêm thì phải xin phép, như thế cũng là sai pháp luật.
Nhưng Tòa sẽ kết án và phạt ông Nhã hay ông Kim như thế nào, điều đó chúng tôi không quan tâm nhiều lắm. Vấn đề chủ yếu mà chúng tôi muốn nói đến là có nên để cho các NXB cản trở việc các tác giả chân chính đưa sách của mình ra thị trường hay không ? Luật xuất bản ghi rõ nước ta không có chế độ kiểm duyệt nhưng thực tế một vị sử gia kiêm cách mạng lão thành đã nhận xét : hiện giờ ta còn kiểm duyệt khắc nghiệt hơn thời Pháp thuộc.<!--nextpage-->
Chúng tôi thấy vừa khắc nghiệt vừa chẳng khắc nghiệt gì cả. Nếu kiểm duyệt khắc nghiệt sao vài chục năm qua, sách vụ án, tình dục, bạo lực, sách cổ động quảng cáo cho vương triều Nguyễn, cổ động cho Nho giáo, hương ước, bói toán, dịch số ... và ngay hiện nay thì sách Tam tông miếu, tử vi ... cứ in và phát hành tơi tới. Chưa kể các vụ băng đĩa in lậu và bán công khai trên đường phố.
Còn một cuốn tiểu thuyết hay một tập thơ phải viết dăm ba năm mới xong, một tập sách nghiên cứu phải viết hàng chục năm mới xong, đưa đến cho các NXB, vị nào cũng lắc đầu : sách tốt, nhưng phải cái kén khách khó bán lắm ! Họ chỉ chấp nhận loại sách tốt nhưng với điều kiện tác giả nộp tiền "quản lý phí" cho họ (nói nôm na là mua giấy phép và trả công biên tập cho họ, tiền nộp tỷ lệ nghịch với mức độ khắc nghiệt), và tác giả phải tự bỏ tiền túi ra mà lo liệu từ A đến Z.
Cái hay là sách xấu ra đời tràn lan nhưng chưa một vị giám đốc xuất bản, một vị giám đốc Sở Văn hóa Thông tin hoặc Cục trưởng, Vụ trưởng, Thứ trưởng, Bộ trưởng Văn hóa nào bị đưa ra tòa.
Sách làng nhàng nhạt nhẽo, vô thưởng vô phạt bao giờ chẳng chiếm số đông và cũng chẳng cần ai chịu trách nhiệm về nó.
Chỉ thương cho số phận những cuốn sách tốt và các tác giả của nó long đong lận đận trong cuộc đời. Họ chỉ còn biết nuôi hy vọng ở hậu thế.
Một câu hỏi được đặt ra : chúng ta có đặt quyết tâm tha lôi tình trạng này sang thế kỷ mới hay không ?
Hẳn các vị đang hưởng đặc quyền đặc lợi trong lĩnh vực báo chí và xuất bản sẽ đưa ra đủ thứ lý lẽ lỗi thời và ngụy biện đủ kiểu để chứng minh rằng phải giữ nguyên trạng độc quyền báo chí và xuất bản mới có thể bảo vệ được chế độ và định hướng XHCN.
Vâng, nếu quả các vị đúng và các vị tiếp tục thắng thế thì chúng tôi đành nhường quyền cho lớp con cháu đến sau phân xử ?
Chỉ biết rằng báo chí và xuất bản chơi kiểu vừa qua là kém hiệu quả chưa kể có những trường hợp còn gây ra tai hoạ. Cụ thể là nếu báo chí ta từ trung ương đến địa phương làm ăn tử tế , xử lý thông tin kịp thời, thảo luận vấn đề cho ra môn ra khoai và hiến kế cho trung ương đầy đủ thì đâu đến nỗi có những vụ như vụ Thái Bình gây kinh động dư luận toàn quốc, làm gì có những vụ tham nhũng khủng khiếp như dệt Nam Định, rừng Tánh Linh, Tamexco, Tân Trường Sanh, Eỉpco- Minh Phụng,.. Làm gì có các vụ hội thảo Gia Long, hội thảo Việt Nhật. Và thử hỏi còn biết bao vụ việc nữa ta chưa được biết.
Thế mới biết, khi báo chí là phương tiện thông tin đã biến thành phương tiện bưng bít và cản trở thông tin thì nguy hại biết chừng nào. Còn nhìn ra thế giới chẳng lẽ hằng trăm nước họ cho tự do báo chí và xuất bản, chế độ của họ đều sụp đổ cả chăng ?
Dù có nhiều người không hài lòng, chúng tôi cũng xin phép được nói thẳng một sự thật là tự do báo chí theo kiểu của ta hiện nay thực ra chỉ là trao quyền tự do cho những kẻ cơ hội tham lam và dối trá. Trong tình hình tự do như thế này, những người cầm bút chân chính bị bịt miệng, bó tay, không thể thực thi sứ mệnh của mình : cầm bút như cầm một thứ vũ khí để bảo vệ Nhân Dân, bảo vệ Cách Mạng và Công Lý. Người cầm bút nào quên sứ mệnh cao cả, thiêng liêng này, nên đọc lại truyện ngắn "Bút máu" của nhà văn Vũ Hạnh. Nỗi lo lắng của chúng tôi là nếu không chỉnh đốn thực sự tình hình báo chí và xuất bản hiện nay thì thế hệ cầm bút trẻ kế cận sẽ không sao tránh khỏi bị ô nhiễm, học tập các đàn anh, đàn chị cơ hội mà trở thành hư hỏng. Cũng nên nói thẳng với các em, cái cháu rằng : nếu chỉ đặt mục đích cuộc đời một cách bình thường là lo kiếm cơm và làm giàu thì chớ lựa chọn nghề cầm bút. Cuộc đời, dù chấp nhận bao cấp hay cơ chế thị trường tác oai tác quái vẫn có những nghề cực kỳ cao quí, đòi hỏi nhiều kiên trì, nhẫn nại và hy sinh. Nghề giáo, nghề y, nghề luật, nghề văn, nghề nghiên cứu ... là những nghề như thế. Đặc biệt nghề cầm bút, dù anh viết báo, viết văn hay viết nghiên cứu cũng phải vì chân lý, công lý và sự phát triển của dân tộc mà viết.
Mới nghe qua thì có vẻ như lý thuyết cao xa, quan trọng hóa vấn đề, nhưng nếu không hiểu đúng như thế thì người ta lý giải sao được tình cảm quí trọng của Nhân Dân dành cho những người cầm bút. Quyền gì đâu, chức gì đâu mà lại được trọng thị một cách thật đặc biệt. Chỉ cần nhắc đến tên những người đã từng xông pha nơi trường văn trận bút như Tản Đà, Nguyễn An Ninh, Phan Văn Trường, Nguyễn Ái Quốc, Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu, Ngô Đức Kế, Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn Thị Minh Khai, Vũ Trọng Phụng, Vũ Bằng, Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Hải Triều v.v. là mọi thế hệ đều cảm thấy ấm lòng, tin yêu thêm cuộc đời và vững lòng tiến bước.
Thử hỏi nếu những người cầm bút Việt Nam không kế thừa xứng đáng những ngọn bút Chu Văn An, Lê Cảnh Tuân, Ngô Thì Nhậm, Hồ Xuân Hương, Tú Xương, Nguyễn Đình Chiểu, Phan Văn Trị, Nguyễn Trường Tộ, Phan Đình Phùng, Huỳnh Mẫn Đạt, Bùi Hữu Nghĩa, Học Lạc v.v. thì giá trị của họ sẽ ra sao ? Đất nước này sẽ ra sao ?
Không thể viết mơ hồ như nhà văn Hoàng Lại Giang : "Phan Thanh Giản nghĩ rằng : Dân ta còn thì nước ta còn" (Phan Thanh Giản - nỗi đau trăm năm). Cũng chẳng khác, ông Phạm Quỳnh từng hô hoán : "Truyện Kiều còn - tiếng ta còn, tiếng ta còn - nước ta còn".
Vấn đề là còn như thế nào chứ ?
Còn trong cảnh rạng rỡ sạch bóng quân thù và làm người tự do, hay còn trong cảnh đất nước đầy vết giày đinh quân xâm lược và làm thân trâu ngựa ?
Nếu quan niệm còn theo kiểu các ông Phan Thanh Giản và Phạm Quỳnh thì hóa ra các ông Trương Định, Nguyễn Trung Trực, Thủ Khoa Huân, Phan Trung, Nguyễn Thông, Hoàng Hoa Thám, Nguyễn Thái Học v.v. và tất cả những người đã dẫn dắt nhân dân vùng dậy chống ngoại bang xâm lược đều là kém thức thời, ngu tối, dở hơi, hiếu chiến cả hay sao ? Phải công bằng mà đánh giá rằng anh Hoàng Lại Giang là một ngòi bút tài năng và đã viết được một số tác phẩm tốt, nhưng chúng tôi không hiểu vì sao khi viết về Phan Thanh Giản anh lại nhầm lẫn nghiêm trọng đến thế ! Viết tiểu thuyết lịch sử mà anh hư cấu một cách vô nguyên tắc. Anh lại cho nhân vật Phan Thanh Giản của anh đọc Binh thư yếu lược của Trần Hưng Đạo, ngẫm nghĩ về thơ Nguyễn Trãi rồi trăn trở suy tư hết hồi này đến hồi khác về DẤN, về NƯỚC; rồi nhân vật của anh lý sự về địch mạnh ta yếu nên cần phải ký nhượng ba tỉnh Nam Kỳ rồi bị kẻ địch đánh lừa mà mất nốt ba tỉnh miền Tây còn lại; rồi nhịn ăn 15 ngày, rồi uống thuốc độc tự tử. Rồi anh lại hư cấu thêm một nhân vật là Phan Dĩ Thử, một người gần như tâm huyết tri kỷ của Phan Thanh Giản, cảm phục quá, thương cảm quá, cũng uống thuốc độc tự tử theo. Và thế là tác phẩm kết thúc. Tư tưởng chủ đề gần như được đúc kết trong câu : Lá cờ ba sắc không thể phấp phới ở nơi mà Phan Thanh Giản và Phan Dĩ Thử còn sống.
Anh Hoàng Lại Giang thử hình dung xem nếu đồng bào Nam Bộ hay nói rộng ra là đồng bào cả nước ta lại suy nghĩ, sống và hành động theo kiểu Phan Thanh Giản thì đất nước Việt mình sẽ ra sao ? Và nhà văn Hoàng Lại Giang thử nằm mơ gặp các cụ Trương Định, Nguyễn Trung Trực, Phan Văn Trị rồi thuật lại cho bạn đọc chúng tôi xem các cụ phán bảo ra sao ?
Thấy tác phẩm của anh bán chạy, tái bản đi, tái bản lại mấy lần, chúng tôi cũng mừng cho chuyện thu nhập của anh nhưng quả thật là lo lắng nhiều hơn.
Những người hiện được cử đi giao lưu hợp tác liên doanh, liên kết mà mang cái tâm thế Phan Thanh Giản thì nguy hiểm biết chừng nào ! Họ mạnh về vốn, về kỹ thuật và công nghệ, ta yếu đủ thứ, phải tỏ ra biết người, biết mình chứ. Thế là bảo nhau thức thời thỏa hiệp vô nguyên tắc.
Họ có biết đâu rằng khi cần thỏa hiệp thì Cụ Hồ vẫn thỏa hiệp, nhưng không bao giờ Cụ bỏ nguyên tắc. Thỏa hiệp hay nhân nhượng mà vi phạm đến chủ quyền đất nước là không thể chấp nhận được.
Vậy, "nỗi đau trăm năm" là thế nào ? Đó là nỗi đau của một người, một nhà hay là nỗi đau của cả dân tộc ? Kỹ thuật viết trong tác phẩm này là khá cao nhưng hình như càng cao tác phẩm lại càng hỏng.
Chúng tôi cũng chân thành chia buồn với nhiều nhà văn nhà thơ hiện nay chạy theo kỹ thuật mà làm hỏng tài thơ tài văn của mình.
Chúng tôi cũng lấy làm lạ cho giới nghiên cứu lý luận và giới phê bình của ta. Đối với những cuốn sách hư hỏng như cuốn "Phan Thanh Giản - nỗi đau trăm năm", hai tập kỷ yếu của hội thảo Việt Nhật và một số cuốn khác thì họ im lặng không phê phán (riêng cuốn truyện danh nhân Phan Thanh Giản còn được giáo sư Hoàng Như Mai, chủ tịch Hội nghiên cứu văn học và giảng dạy - tổ chức và thân chinh đứng ra giới thiệu và cổ động coi như một cuốn tiểu thuyết lịch sử chân chính. Tháng 12 vừa qua, trong một cuộc trả lời phỏng vấn báo Tuổi Trẻ , nhà văn Hoàng Lại Giang còn nhấn mạnh ý chúng ta "không nên quá khắt khe với cha ông". Chúng tôi thấy anh Hoàng Lại Giang đặt vấn đề như thế không đúng.
Lớp hậu sinh chúng ta làm gì có quyền khắt khe hay không khắt khe với tiền nhân. Nghiên cứu khoa học cũng như sáng tác văn học nghệ thuật đều rất cần tình cảm nhưng dừng lại ở cảm tính sao được. Không thể theo lẽ phải thông thường "yêu nên tốt ghét nên xấu" hoặc "yêu nhau củ ấu cũng tròn, ghét nhau bồ hòn cũng méo". Từ cảm nhận phải nâng lên cấp độ thức nhận với những tiêu chí chuẩn mực rõ ràng mới có khả năng đánh giá người và việc.
Chúng tôi đã từng nêu rõ một chuẩn mực hết sức quan trọng của dân tộc ta là :
- Giặc đến thì đánh. Đánh có thể thắng, có thể thua. Không có chuyện hòa. Càng không có chuyện hàng (*1).
Chúng tôi cũng đã làm hai sự so sánh :
- Trương Định quan nhỏ, chức thấp (quản cơ, lãnh binh) học vấn tầm thường nhưng dũng cảm lãnh đạo nhân dân chống giặc, chết nhưng vẫn thành bất tử mà lưu danh thơm muôn thuở.
- Phan Thanh Giản quan to chức trọng (khâm sai đại thần) học vị cao (tiến sĩ) nhưng gan thỏ đế, vâng mệnh triều đình dâng đất cho giặc nên lưu tiếng xấu muôn đời (2).
Chúng tôi cũng so sánh Phan Thanh Giản với Nguyễn Tri Phương và Hoàng Diệu.
- Hoàng Diệu chiến đấu đến cùng và chết theo thành.
Sao lại có thể xếp cùng loại với cái chết của Phan Thanh Giản.
Dứt khoát không thể đánh đồng sự hy sinh hoặc tuẫn tiết của những người có trách nhiệm với dân với nước và cái chết của những người vô trách nhiệm.
Chúng tôi cũng xin nhắc lại : cần phải công bằng đối với Phan Thanh Giản. Về mặt phẩm chất cá nhân, ông là một người học giỏi, làm thơ hay, làm quan thanh liêm và giàu lòng nhân ái ... Về trách nhiệm đối với lịch sử, cũng không thể dồn hết tội lỗi cho ông. Dù làm đến cơ mật Viện đại thần, ông vẫn chỉ là người thừa hành. Chịu trách nhiệm chính phải là người ra lệnh tức là vua Tự Đức.
Cũng chính do không nắm vững chuẩn mực nên giáo sư, tiến sĩ Trần Hữu Tá đã viết hẳn một công trình nghiên cứu khẳng định ông Trương Vĩnh Ký là người yêu nước và là nhà văn hóa lớn của dân tộc (Kiến thức ngày nay số ........).
Thế nào là danh nhân văn hóa ?
Ở phần trên, chúng tôi đã nêu cái nhầm của giáo sư Hoàng Như Mai và tiến sĩ Mai Quốc Liên khi hai ông khẳng định các vua Minh Mệnh, Tự Đức là những ông vua văn hóa, những nhà văn hóa. Không thể căn cứ vào việc người này sáng tác một số tập văn, tập thơ hoặc biên soạn công trình này công trình khác, người kia thì bỏ công của xây dựng một số cung điện, lăng tẩm, hoặc đôn đốc quốc sử quán biên soạn bộ Thực lục này, bộ Hội điển khác mà coi họ là nhà văn hóa được.
Chúng ta đã nhiều lần phải nhắc nhau phân biệt cho rõ khái niệm văn hóa và học vấn. Anh học nhiều hay học ít, đỗ cao hay đỗ thấp, uyên thâm hay thiển cận, đó là thuộc trình độ học vấn của từng người hoặc từng nhóm xã hội. Trình độ văn hóa của một người không phải lúc nào cũng phụ thuộc vào trình độ học vấn hoặc tỷ lệ thuận với trình độ học vấn. Nhiều người có trình độ học vấn bình thường nhưng lại có trình độ văn hóa rất cao, ngược lại có những người trình độ học vấn rất cao nhưng trình độ văn hóa lại rất thấp. Người có nhân cách văn hóa là người biết thương yêu đồng loại và giúp cho đồng loại phát triển.
Chúng tôi đã có vài dịp trình bày với giới nghiên cứu một cái định nghĩa về bản sắc văn hóa dân tộc. Đó là toàn bộ nếp cảm, nếp nghĩ và nếp sống của dân tộc trong quá trình phát triển. Còn toàn bộ y phục, ẩm thực, lễ hội, tập quán phong tục, tác phẩm văn học nghệ thuật, công trình kiến trúc v.v. chẳng qua là sản phẩm, là kết quả cụ thể của nếp cảm, nếp nghĩ và nếp sống đó.
Cho nên nói kế thừa truyền thống văn hóa hay bảo vệ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, trước hết và chủ yếu là kế thừa bảo vệ, phát huy nếp cảm, nếp nghĩ, nếp sống tốt đẹp của dân tộc. Tất nhiên, nếp nào, thói nào, tục nào đã hủ lậu, lỗi thời thì cũng nên đào thải, như thế mới phát triển được.<!--nextpage-->
Có những người làm lý luận không tinh, nghiên cứu văn hóa không tinh, lại hô hào phục hồi đủ các thứ hủ bại lỗi thời. Rồi bản thân mình thân danh là bí thư huyện ủy, tỉnh ủy mà lại đi tổ chức ma chay cưới xin, sinh nhật rình rang tốn kém làm gương xấu cho mọi người. Cho nên người thì thật lòng muốn khôi phục truyền thống tốt đẹp bị đứt đoạn, lãng quên, kẻ thì cũng dựa vào danh nghĩa bảo vệ bản sắc dân tộc, dùng toàn một giọng mị dân tộc. Như thế là họ muốn cho dân tộc phát triển theo kịp với anh chị em trong khu vực và thế giới hay họ muốn cho dân tộc giậm chân tại chỗ và suy thoái.
Cho nên khi nói đến nhân cách văn hóa của một ai đó chính là người ta tính đến nếp cảm, nếp nghĩ, nếp sống có phù hợp với sự phát triển của dân tộc hay không chứ đâu có dừng lại ở phạm vi hạn hẹp ăn uống, ăn mặc hội hè, lễ lạy ra sao. Ắn canh cua, cà pháo, mắm tôm là một đặc điểm của Việt Nam, nhưng đâu có phải không biết ăn cà pháo, mắm tôm thì không thành người Việt Nam.
Có mấy ông thi sĩ viết được dăm ba tác phẩm kha khá thế là khủng khỉnh làm cao rồi lại đem thơ dán lên mẹt đem triển lãm, cứ tưởng thế là dân tộc.


Dân tộc là phải từ trong máu, trong não chứ có đâu phải là hình thức bề ngoài. Đâu có phải cứ khăn đóng áo dài, sì sụp lễ lạy, đình đám xôi thịt tưng bừng tốn kém mới là dân tộc. Cũng không phải cứ cầm bút viết văn, làm thơ, làm nghiên cứu là tự nhiên có nhân cách văn hóa.
Chúng tôi cũng không hiểu giáo sư Hoàng Như Mai, giáo sư Trần Hữu Tá khi mở trường dân lập Trương Vĩnh Ký thì sẽ giáo dục học sinh học tập truyền thống của "danh nhân văn hóa" này ra sao ? Chẳng lẽ lại giáo dục các cháu học sinh rằng : khi giặc ngoại xâm đến cứ thức thời cộng tác với giặc hoặc viết thật nhiều sách phục vụ cho mục đích đô hộ của giặc. Chớ có dại dột chống lại kẻ địch mạnh hơn mình như các ông Trương Định, Thủ Khoa Huân, Nguyễn Trung Trực. Chính bản thân ông Trương Vĩnh Ký cũng đã phải viết : "Cuốn sổ bình sinh công với tội".
Chúng ta thông cảm với lòng ăn năn hối hận của ông và đánh giá đúng những gì mà ông đã đóng góp được cho văn hóa nước nhà, dù là vô tình. Ông Trương Vĩnh Ký trong thư từ giao dịch với bọn ngoại xâm Pháp lúc bấy giờ cũng đã ý thức được rằng mình soạn sách chữ Quốc ngữ là để giúp cho bọn thực dân thống trị thực hiện việc đồng hóa theo nền văn minh chữ La tinh, tìm cách cắt đứt truyền thống với văn hóa chữ Hán, cắt đứt hẳn ảnh hưởng của văn minh Trung Hoa mà các nho sĩ ta đã thấm nhuần trong nhiều thế kỷ.
Trong giới nghiên cứu chúng ta thường hay có sự nhầm lẫn giữa mục đích và hệ quả : các giáo sĩ Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Pháp .. làm ra chữ Quốc ngữ với mục đích truyền đạo cho nhanh, mở nước Chúa cho rộng (thực chất là mở rộng thị trường cho CNTB phương Tây). Họ đều lợi dụng tôn giáo để phục vụ cho bọn tư bản, thực dân để nô lệ hóa dân mình. Còn sau này ta lợi dụng chữ Quốc ngữ để làm phương tiện phát triển văn hóa của mình, đó là sự khôn ngoan của dân mình. Phải coi đó là một hệ quả tất nhiên chứ không được lẫn với mục đích của người sáng tạo ra những thứ đó. Do vậy, việc gì mình phải hội thảo để tưởng nhớ công ơn ngài Alexandre de Rhode, rồi lại bàn nhau dựng lại tượng và đặt tên đường phố để kỷ niệm công ơn của ngài.
Nếu thế thì tại sao lại có chuyện "nhất bên trọng, nhất bên khinh" được ? Sao không hội thảo về ngài Sĩ Nhiếp rồi cũng dựng luôn tượng và đặt tên đường để ghi nhớ công ơn ngài về việc ngài có công phổ biến chữ Hán và văn hóa Hán tộc. Và cả các ngài thái thú Nhâm Diên, Tích Quang nữa chứ. Các cụ hủ nho xưa đã nhầm, đã dạy dân là phải biết ơn "công khai hóa" của các ngài, và tôn ngài Sĩ Nhiếp là "Nam Giao học tổ" Bao thế kỷ trước các vị hủ nho đã nhầm, bây giờ cuối thế kỷ 20 lại có các vị hủ Mác cũng nhầm. Nghĩ mà thấy sợ ! Thật chẳng khác gì một ông chủ nhà sau khi đánh đuổi được bọn cướp rồi nhặt được con dao sắc do chúng cuống cuồng bỏ chạy đánh rơi lại, rồi dùng dao vừa thái thịt, vừa chặt củi, vừa tấm tắc : May quá, nhờ nó bỏ lại mới có con dao tốt này ! Rồi lại dặn con cháu phải biết ơn bọn cướp. Đứa nào cãi và vạch ra mục đích của bọn trộm cướp thì lại qui ngay cho là : vong ân bội nghĩa. Thật là ngớ ngẩn !
Tượng Hai Bà Trưng, tượng Lý Thường Kiệt, tượng Bà Triệu, tượng Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du, Tú Xương, Nguyễn Đình Chiểu, Phan Văn Trị, Thủ Khoa Huân, Tạ Quang Bửu, Trần Đại Nghĩa, Tôn Thất Tùng, Đặng Văn Ngữ ... và bao nhiêu danh nhân lịch sử, danh nhân văn hóa Việt Nam khác không lo dựng mà đi lo mấy việc tá ơm. Đúng là "việc nhà thì nhác, việc chú bác thì siêng".
Xin phép trở lại vấn đề sách xấu, sách tốt. Sách xấu thì lờ đi không phê phán, không thu hồi, nhưng cứ có quyển sách tốt nào, vừa thò mặt ra thì hò nhau xúm đánh làm cho tác giả thất điên bát đảo, bại hoại gân cốt.
Tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài tuy có khuyết điểm này, sai lầm khác, nhưng vẫn là những tác phẩm hay, đánh dấu một giai đoạn phát triển mới của văn xuôi Việt Nam.


Cuốn "Cơ hội của chúa" của Việt Hà cũng là một tiểu thuyết hiện thực có giá trị. Gần đây, phần văn xuôi của Trần Đăng Khoa được đông đảo bạn đọc ưa thích, vì trong cái giọng văn bình dị sáng sủa của anh đã chứa đựng một loạt vấn đề có khả năng kích thích và thúc đẩy sự phát triển của tư duy xã hội.
Thế mà người ta cứ làm ầm ĩ như sắp sập trời sập đất, rồi kéo nhau xúm lại đánh đòn hội chợ, phang đập túi bụi. Trường hợp cuốn "Cơ hội của Chúa" thì lại sinh ra một tiền lệ mới : Sở Văn hóa Thông tin TPHCM lại triệu tập cả Ban Tư tưởng văn hóa thành ủy, P.A.25, Hội liên hiệp văn học nghệ thuật TPHCM và một số đại biểu khác họp bàn và nhất trí làm công văn kiến nghị với Bộ Văn hóa Thông tin yêu cầu thẩm định lại giá trị cuốn sách.
Thế là, trong khi cuốn tiểu thuyết được dư luận tán thưởng và được những cây bút phê bình đứng đắn khen ngợi thì cơ quan phụ trách văn hoá của thành phố lại phản đối.
Dư luận lại được một phen xôn xao bàn tán và nhiều người, trong đó có chúng tôi, thực sự tỏ ra phân vân về một loạt vấn đề mang tính nguyên tắc:
- Phải chăng trình độ thẩm định tác phẩm của Sở Văn hóa Thông tin địa phương ?
- Phải chăng mọi người - kể cả Bộ Văn hóa - nên nghe theo ý kiến của ông Lê Hồng Liêm - giám đốc Sở VHTT, ông Trần Văn Tạo - trưởng Ban Tư tưởng văn hóa thành ủy, đại biểu phòng P.25, ông Bảo Định Giang - chủ tịch Hội LHVHNT TPHCM và những người khác ..., tất cả đều là không có thời gian, không có điều kiện hoặc không có trình độ để chuyên tâm nghiên cứu lý luận văn học và cập nhật về lý luận văn học, hay nên nghe theo ý kiến của những nhà phê bình chuyên nghiệp, làm ăn đứng đắn tử tế như các ông Hoàng Ngọc Hiến, Lại Nguyên Ấn, Vương Trí Nhàn ... ?
- Phải chăng cứ có dư luận quần chúng hoặc dư luận của giới lãnh đạo xôn xao về một tác phẩm nào đó, là ta hoảng hốt đến mức mất cả tỉnh táo sáng suốt, trông gà hóa cuốc, giặc chẳng bắt lại đi bắt thầy tu. Các cụ xưa đã dạy : người ba đấng, của ba loài. Dù là quần chúng hay lãnh đạo cũng cần phân loại cho rõ. Nghe theo ý kiến bộ phận tiên tiến chứ nghe theo ý kiến bộ phận trung bình và lạc hậu sao được ?
Nhớ lại ngày nào, người ta căn cứ vào ý kiến của một vài cá nhân lãnh đạo và một bộ phận quần chúng chưa phải là tiên tiến rồi xúm vào đánh dập đánh vùi Con nai đen, Nguyễn Trãi ở Đông Quan của Nguyễn Đình Thi; Sắp cưới của Vũ Bão, Phở của Nguyễn Tuân, Đống rác cũ của Nguyễn Công Hoan, Vào đời của Hà Minh Tuân, Con chó xấu xí của Kim Lân, Phá vây của Phù Thăng, Cây táo ông Lành của Hoàng Cát, Chín mươi chín chân dung nhà văn của Xuân Sách. Đặc biệt trong vụ đánh tiểu thuyết Cù Lao tràm của Nguyễn Mạnh Tuấn, ông Trần Bạch Đằng huy động cả một đội ngũ thủ túc ở TPHCM và cả mấy tỉnh đồng bằng sông Cửu Long nhất tề xông tới lấy thịt đè người. Cũng may lý lịch và nhân thân của tác giả thuộc loại tốt và tác phẩm thuộc loại lành mạnh, tốt, nên cả Nguyễn Mạnh Tuấn và anh Hà Mậu Nhai - giám đốc NXB Văn Nghệ TP đều thoát hiểm. Chúng tôi nhớ mãi lời khuyến cáo của anh Hà Mậu Nhai khi duyệt xuất bản tập thơ Gửi nhà thơ quên sứ mệnh : " Ông còn làm ăn lâu dài ở đất này nên tránh mặt họ ra", do đó chúng tôi vui lòng rút đi một khổ thơ sau đây :
Nhà thơ hỡi !
Anh không căm phẫn chăng ?
Khi anh em nhà Tư Hoan
đang hè nhau cắn xé Cù Lao Tràm
ngậm máu phun vào tác giả.
(Trần Khuê - Gửi nhà thơ quên sứ mệnh)
Nghĩ lại một thời ấu trĩ, đọc lại những bài được gọi là "phê bình" của các ông Hoài Thanh, Vũ Đức Phúc, Lê Đình Kỵ, Hà Xuân trường, Hà Minh Đức, Phan Cự Đệ v.v. và một số cây bút khác, thi nhau bốc thơm tác phẩm này, vùi dập tác phẩm khác mà không tránh khỏi rùng mình. Mượn danh nghĩa bảo vệ đường lối văn nghệ của Đảng, người ta thản nhiên làm thui chột biết bao tài năng, hủy hoại biết bao trí tuệ của dân tộc. Chúng tôi cũng thông cảm và dư luận cũng thấy cần phải thể tất với ông Hoài Thanh khi nghe tin lúc sắp từ giã cõi đời, ông đã tỏ ra ân hận và chỉ mong ông Xuân Sách sửa lại cho một chữ trong bức chân dung của mình để đúng với hoàn cảnh thực tế hơn. Đó là chữ phải thay cho chữ lại trong câu :
Vị nghệ thuật mất nửa đời
Còn lại nửa đời lại vị người trên
Đ/c Tố Hữu trước sau vẫn xứng đáng là ngọn cờ đầu của thơ ca cách mạng nhưng đồng chí có phải chịu trách nhiệm gì không trong thời kỳ đ/c làm Trưởng ban tuyên huấn của Trung ương Đảng, trực tiếp chỉ đạo đánh hết vụ này đến vụ khác ? Đ/c Tố Hữu cũng như tất cả những người phụ họa có khi nào cảm thấy lương tâm mình bị cắn rứt không ? Chẳng lẽ khi nghĩ đến những văn nghệ sĩ suốt cả một đời đi theo Đảng, phục vụ cách mạng, phục vụ dân tộc mà bỗng chốc vì bị "xưng xuất" điều này điều khác mà đến nỗi phải treo bút ba chục năm liền, có những người chết mòn trong đói khổ nhục nhã, oan khuất mà không ai có một chút động tâm nào chăng ?
Cần nhớ rằng mọi chuyện xảy ra trên đời này đâu phải chỉ có ta với ta trong hiện tại mà còn con cháu chúng ta nữa chứ, khinh thường bia miệng thế gian sao được !
Muộn còn hơn không, nếu ai trong chúng ta đã trót lầm lỗi mà biết sám hối hẳn có thể thanh thản ra đi và hưởng được sự khoan dung của cuộc đời.
Ông Đặng Tiểu Bình được Trung Quốc coi là một người có công lao lớn và là một nhà lý luận hiện đại, trước lúc sắp qua đời còn nói được một câu tỏ ra ân hận về vụ đàn áp ở Thiên An môn. Trung Quốc. Những người có lương tri trên thế giới này chỉ càng thấy đáng quí trọng ông hơn mà thôi.
Ông Khơ-rut-sốp quyền lực tót vời, đã một thời dọc ngang trời đất, khi thất thế vẫn còn biết tỏ ra ân hận vì đã ra lệnh đàn áp những người chân chính như nhà văn Patesnak. Và ông cũng chân thành thú nhận rằng ông chưa hề đọc tác phẩm "Bác sĩ Zivago" (một tác phẩm văn học được coi là chống chế độ Xô Viết). Chỉ thế thôi cũng đủ cho nhân dân và lịch sử thể tất cho Khơ-rut-sốp.
Có thể nói, đây là một nếp rất xấu trong lề lối suy nghĩ và hành động của những người lãnh đạo cao cấp trong các đảng cộng sản ở phe XHCN trước đây. Kẻ thù giai cấp của chúng ta khi làm sai còn biết cử nhau lên đài truyền hình để công khai xin lỗi công chúng, ta thì không. Họ xin lỗi đấy nhưng rồi họ vẫn tiếp tục làm sai vì đó là thuộc bản chất của họ. Còn ta sao ta lại có thể tiếp tục cũng làm sai như họ. Mà làm sai mấy chục năm liền, không cho ai nói động đến. Nói thì vu cho đủ tội rồi ra tay trấn áp với danh nghĩa tưởng như rất đúng đắn : trấn áp kẻ thù giai cấp để bảo vệ nhân dân. Nhưng thực chất là họ đang trấn áp nhân dân và làm lâm nguy chế độ. Chúng tôi quan niệm rằng những người trí thức chân chính là tinh hoa của dân tộc, là đại diện chân chính của nhân dân ở bất cứ thời đại nào. Đàn áp họ chính là đàn áp nhân dân. Và bất cứ lực lượng nào đã đàn áp nhân dân thì phải sụp đổ. Đó là qui luật tất yếu không một giai cấp thống trị nào thoát khỏi



Trần Khuê - Nguyễn Thị Thanh Xuân
Trong bài "Chính đốn để tồn tại và phát triển" chúng tôi đã nói rằng chúng ta phải xem xét nhận thức lại cái cơ chế : "Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, nhà nước quản lý".
Trước đây, chúng ta đã nhất trí hoàn toàn với nhau về cơ chế này. Nếu tất cả đều suôn sẻ, xuôi chèo mát mái, chẳng có gì cần bàn thêm. Nhưng thực tiễn hoạt động và thực tế xã hội chứng tỏ rằng nếu không duyệt lại nhận thức và sửa lại cơ chế thì dứt khoát không ổn.  
Trước hết, hãy nói về sự cầm quyền của Đảng. Từ xưa tới nay, vai trò độc quyền lãnh đạo được chúng ta nhấn đi nhấn lại, coi đó là một chân lý tuyệt đối, nhất thành bất biến. Đó là một điều đúng, nhưng rất tiếc có nhiều người lại nhận thức một cách rất sai. Trong khi họ vẫn tự nhận rằng họ trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh nhưng trong suy nghĩ và hành động, họ đều tỏ ra phi biện chứng Mácxít.
Mác cũng như tất cả các nhà duy vật chân chính đã khẳng định rằng trên đời này không có cái gọi là chân lý tuyệt đối. Và có lẽ chỉ có nhận thức đó là mang ý nghĩa chân lý tuyệt đối. Còn lại tất cả chỉ là chân lý tương đối mà thôi.
Kiến thức sơ đẳng nhất mà ai đã học về phép biện chứng đều phải biết : mọi vật đều biến chuyển theo hướng hoặc đi lên (phát triển) hoặc đi xuống (suy vong). Đó là qui luật của muôn đời. Các quá trình phát triển, suy vong có thể nhanh hay chậm là tùy thuộc vào chủ thể và vào môi trường. Trong môi trường xã hội loài người thì chủ thể đó là con người. Không nói thì ai cũng biết, con người hiện nay là kết quả của quá trình phát triển tiến hóa của hàng triệu năm. Nếu tính nguồn gốc của người cũng như mọi thứ sinh vật trên hành tinh này thì nguồn gốc và quá trình phát triển sự sống lại phải tính đến hàng chục, hàng trăm triệu năm. Điều đó chưa rõ vì khoa học còn đang tiếp tục khảo sát. Điều mà khoa học đã chứng minh được đó là sự sống bắt đầu bằng tế bào. Mặc dù tế bào chưa hề có cái gọi là ý thức hay tư duy thì cũng đã "ý thức" được rằng phải tách đôi, lại phải cứ thế mà tách đôi tiếp. Nhờ có quá trình tách theo cấp số nhân liên tục của tế bào một cách tự nhiên như thế mà có chúng ta ngày nay và đủ các thứ chúng ta chén được để mà tồn tại và phát triển.
Ngừng phát triển có nghĩa là ngừng tồn tại và là hủy diệt hoặc tự hủy diệt. Việt Nam ta không chịu bị hủy diệt và cũng không ngớ ngẩn đến mức tìm cách tự hủy diệt mình nên đã không ngừng tìm đường để có thể phát triển.
Hồ Chí Minh đã tìm ra con đường cho Việt Nam phát triển. Tất nhiên phải trả giá bằng 30 năm xương máu, đó là những điều chúng ta không muốn. Nhưng chúng ta không thể làm khác. Chính những sử gia thế giới trong đó có sử gia người Pháp nổi tiếng De Villers trong tác phẩm của mình (Sài Gòn - Paris - Hà Nội), bằng những dữ liệu chính xác và đầy đủ đã chứng minh rằng năm 1946, Cụ Hồ Chí Minh bị giới chính trị và quân sự Pháp dồn vào thế buộc phải phát động cuộc chiến tranh vệ quốc. Cụ Hồ là người yêu hòa bình và không muốn chiến tranh. Thế mà đến năm 1995, tại hội nghị quốc tế Việt Nam học ở Aix-En-Provence, trong tham luận của mình, tiến sĩ thần học Nguyễn Văn Trung lại có ý bác bỏ cuốn sách với những luận điểm đúng của De Villers mà không đưa ra chứng cứ gì. Trong nghiên cứu khoa học, người ta không chấp nhận chuyện hồ đồ như thế. Một lần nữa cũng xin thưa với tiến sĩ triết học Đỗ Huy và những ai còn cho rằng 30 năm kháng chiến của chúng ta là cản trở sự phát triển văn hóa thì cũng nên nghĩ lại.
Vừa qua, Đại hội VI cũng đã tìm ra được con đường phát triển. Chỉ tiếc rằng nếu biết nghe đ/c Kim Ngọc và nhân dân Vĩnh Phú sớm hơn thì đâu có phải trả giá một cách vô ích như thế. Cũng có những nhà lý luận cãi rằng : do hoàn cảnh kháng chiến nên buộc phải giữ lại hợp tác xã mặc dù biết nó có nhiều khuyết tật. Vậy, chúng tôi xin thưa rằng nếu biết khoán như Kim Ngọc là đúng thì tại sao sau ngày đại thắng không khoán ngay để đến nỗi cuộc khủng hoảng trì trệ kéo dài 10 năm liền (1976-1986). Phải nói thẳng rằng khoán chậm cũng như làm 5 thành phần kinh tế chậm và nhiều thứ chậm chạp khác là do nhận thức sai lầm về mặt lý luận chứ không thể chỉ đổ cho khách quan, hoàn cảnh thế này, hoàn cảnh thế nọ. Cũng đáng tiếc cho đ/c Trường Chinh vĩ đại, giá như khi nhận ra sai lầm, đ/c Trường Chinh dám công khai xin lỗi đ/c Kim Ngọc, tỉnh ủy và nhân dân Vĩnh Phú thì hẳn là đ/c còn vĩ đại hơn nhiều. Nhân dân ta vốn rất độ lượng, các cụ đã từng dạy : trước không phải, sau phải vẫn nên coi là phải", "đánh kẻ chạy đi không ai đánh người chạy lại".
Nhân đây, chúng tôi cũng nhắc đ/c Tố Hữu và những ai đã tham gia đánh vụ nhân văn giai phẩm cũng nên can đảm xin lỗi những người bị đánh oan. Không nên để những người còn sống như Lê Đạt, Hữu Loan, Thái Vũ, Hoàng Cầm, Phù Thăng, Văn Tâm .... và những người đã mất như Văn Cao, Trần Dần, Phùng Quán .... cùng với gia đình con cháu họ cứ phải ngậm hờn, ai oán mãi mãi.
Tiếc rằng đ/c Lê Đức Thọ và những người tham gia vụ tiêu diệt "nhóm xét lại Hoàng Minh Chính" hầu hết đều đã không còn nữa. Vậy thì Trung ương hiện nay của ta nên giải quyết cho rành mạch.
Vừa qua, nhân chuyến đi công tác Hà Nội, chúng tôi có dịp tiếp xúc với ông Hoàng Minh Chính và các ông Trần Độ, Lê Hồng Hà, Hoàng Hữu Nhân, Hoàng Tiến, Thanh Giang, Nguyễn Kiến Giang v.v. . . nghĩa là những người từng bị bắt giam hoặc mới bị khai trừ Đảng, với mục đích tìm hiểu xem họ đúng sai ra sao. Về mặt quan điểm tư tưởng, phương pháp và cách thức trình bày những quan điểm của họ có điểm chúng tôi tán thành, có điểm chúng tôi không tán thành. Chúng tôi đã thẳng thắn tranh luận với họ và nghĩ rằng còn cần phải tiếp tục tranh luận. Nhưng cần phải công bằng mà nhận định rằng, họ đều là những con người trung thực, có trí tuệ, có tâm huyết đối với dân tộc và cách mạng. Có thể họ sai, có thể chúng tôi sai. Cần có thời gian, biết lắng nghe nhau và biết chờ đợi thuyết phục nhau. Không ai có thể giữ độc quyền đúng hoặc độc quyền sai. Không được phép áp đặt cho nhau. Trong lĩnh vực tư tưởng càng phải tôn trọng nguyên tắc và luật pháp. Không được dùng biện pháp hành chính hoặc hình pháp một cách tùy tiện. Ngay giai cấp tư sản và chế độ tư bản cũng không dám tùy tiện. Nếu không thì đ/c Mác và đ/c Ắnghen của chúng ta làm sao ngồi yên mà viết sách chống họ và xuất bản ngay trước mũi họ. Và chắc nhiều người chưa quên khi bộ máy chuyên chính của giai cấp tư sản Pháp động đến nghị sĩ cộng sản Jacque Duclos thì cả nước Pháp làm ầm lên như thế nào. Cả thế giới tiến bộ lên tiếng phản đối như thế nào. Anh còn nhận anh là dân chủ, bắt buộc anh phải chùn tay. Còn khi anh đã đi vào con đường phát xít hóa như Đức, Ý, Nhật thì anh tiêu vong.
Giai cấp tư sản Pháp và đảng cầm quyền ở Pháp lúc bấy giờ hiểu rằng phải dừng lại ở đâu, không dám làm bừa làm tới. Cũng lạ cho các đảng cộng sản trong phe ta, nhiều khi không tính rõ tương quan rồi cũng chẳng biết nên dừng ở chỗ nào. Liên Xô, Trung Quốc trước đây cũng thế. Cứ bắt bớ, tù đày, bắn giết, thủ tiêu ngầm .... không đếm xỉa gì đến lẽ công bằng, đạo lý và pháp lý. Chuyện Nga thì còn xa xôi, thôi thì lấy ngay dẫn chứng ở cái nơi "núi liền núi, sông liền sông" với ta đây này. Thân danh làm đến ủy viên thường vụ Bộ Chính trị, làm đến chủ tịch nước, công lao hãn mã mấy ai bì kịp, thế mà Lưu Thiếu Kỳ được các chiến hữu chí thiết của mình giam cầm, đánh đập, hành hạ đến chết. Lúc hấp hối chỉ còn nắm da bọc xương và trút hơi thở cuối cùng dưới một mảnh bao tải rách giữa một mùa đông giá lạnh Trung Quốc. Đ/c Lưu Thiếu Kỳ và hàng chục triệu đảng viên cộng sản Trung Quốc khác chết đau đớn nhục nhã còn kém thân phận của những kẻ ăn mày. Càng xót xa hơn khi nghĩ đến tình cảnh gia đình, con cái cháu chắt họ bị ngược đãi. Chuyện Stalin và những thủ hạ của Stalin ngược đãi, giết hại những người đảng viên cộng sản Liên Xô như thế nào, những người có lương tri ở đó đã nói quá đủ rồi, ở đây không nói nữa.
Điều đáng nói là cho đến những ngày cuối thế kỷ, chúng ta vẫn chưa hết giật mình kinh hãi khi nghĩ đến một bộ máy cầm quyền vĩ đại như Đảng cộng sản Liên Xô mà phút chốc sụp đổ tan rã một cách thảm hại. Chúng tôi đã từng chê trách những người làm lý luận ở ta không chịu nhìn thẳng vào sự thật, khảo sát lơ mơ, phân tích theo kiểu khuôn sáo nên không giúp cho ta rút ra được những bài học thích đáng.
Ngoài ba nguyên nhân chủ yếu mà chúng tôi đã phân tích trong bài trước (bệnh chống qui luật, bệnh chống trí tuệ, bệnh kiêu ngạo cộng sản), chúng tôi xin nêu thêm một nguyên nhân nữa đã khiến cho Đảng cộng sản Liên Xô sụp đổ nhanh. Đó chính là điều 6 ghi trong Hiến pháp của nhà nước Xô Viết mà chúng tôi đã trích dẫn ở phần trên.
Đảng cầm quyền thì cứ việc cầm quyền chứ ghi vào Hiến pháp thế nào được. Giai cấp tư sản vốn bản chất là thô bạo nhưng phải công bằng mà khen họ ở điểm này là rất tế nhị. Thử hỏi khi họ không ghi vào Hiến pháp cái sự cầm quyền của họ nhưng có quyền lớn, quyền nhỏ nào trong thế giới tư bản lại vuột khỏi tay các ông chủ của những tập đoàn tài phiệt, quân phiệt, các công ty xuyên quốc gia. Giai cấp tư sản cũng thừa khôn ngoan để hiểu rằng bất cứ đảng Cộng hòa hay đảng Dân chủ, đảng Tự do hay đảng Xã hội thiên chúa giáo; đảng Xanh hay đảng Vàng ... dù cầm quyền thì cũng không bao giờ đủ số đảng viên có năng lực để rải khắp từ cấp chính phủ trung ương cho đến cấp phường xã cơ sở. Vả lại cái gương tày liếp cũng vẫn còn treo đó : các vị hoàng đế từng vỗ vào ngực : "Nhà nước là ta, pháp luật là ta" đều đã tiêu vong rồi. Dại gì mà làm trò quay ngược bánh xe lịch sử. Chẳng nhẽ các đ/c lãnh đạo Liên Xô trước đây lại không biết rằng : mình ở cấp trung ương mình hiểu biết, còn có thể tự kiềm chế; còn các vị đảng viên cấp cơ sở, lúc nào cũng giơ quyền ra rồi tùy tiện lạm quyền, lộng quyền thì ai ngăn cản nổi, dân nào dám động đến họ. Chúng tôi tin chắc rằng nhân dân Liên Xô không hề chán ghét lý tưởng cộng sản. Nhưng họ thật sự gớm mặt ba vị đảng viên hằng ngày hoạnh họe, bóp nặn, khinh khi họ. Dân chán đến mức thấy mặt đã ghét mà lại không sụp đổ thì mới là chuyện chưa từng có trong lịch sử loài người.
Vậy phải truy xét xem ai là người đã tham mưu cho Trung ương đưa điều 4 vào Hiến pháp của ta năm 1980 ? Họ nhầm : Họ không hiểu rằng chép lại cái điều 6 từ Hiến pháp Liên Xô thành điều 4 ở Hiến pháp Việt Nam là tạo điều kiện cho tiêu cực, tham nhũng mặc sức sinh sôi nảy nở. Chúng tôi trân trọng đề nghị Đại hội IX và Quốc hội khóa mới của ta nghiêm túc duyệt lại điều này, bàn xem có nên để điều 4 ở trên Hiến pháp nữa hay không.
Hồ Chí Minh của chúng ta tuyệt vời lắm. Hỏi nước ta ai có quyền to hơn Cụ, không những thế uy của Cụ còn vượt cả biên giới. Thế mà lúc nào cũng : "Tôi chẳng qua chỉ là một người lính được quốc dân giao phó trách nhiệm ra trận". Mà Dân ta biết Cụ nói chân thật. Cho nên Cụ bảo gì, ra lệnh gì mà không vâng theo. Cụ bảo phải đánh Pháp ta đánh Pháp. Cụ bảo lên Điện Biên Phủ, ta lên Điện Biên Phủ. Cụ bảo đánh Mỹ, ta đánh Mỹ. Cụ bảo phải cứu bà con ruột thịt miền Nam, phải hỗ trợ cho anh em bè bạn quốc tế, ta đi B, đi C. Cụ bảo miền Bắc có trách nhiệm chi viện miền Nam, thế là mẹ ta gạt nước mắt tiễn chồng, tiễn con lên đường và bát cơm mẹ xẻ làm tư.
Cụ Hồ thực thi quyền lực một cách có lương tâm, có đạo lý để phục vụ lý tưởng cao cả của dân tộc, đáp ứng nhu cầu của thời đại, làm sao những người có lương tri lại không tuân theo được. Còn nhiều đảng viên rất nhố nhăng, được giao phó một chút ít quyền lực thế là đã tưởng rằng mình thành ông vua con, ông giời con, coi thường nhân dân, coi thường tập thể, coi thường Trung ương, mặc sức hoành hành ngang ngược, xem địa phương, xem đất nước như một chốn rừng hoang, không kỷ cương, không luật pháp.
Quyền lực nhỏ mà đã láo lếu chơi luật rừng. Láo lếu chán rồi rủ nhau "ngự" Đường Sơn quán. Nhưng khi họ nắm được quyền lực lớn mới kinh khủng.
Cứ xem như trường hợp đ/c Lê Đức Thọ thì biết. Cho đến giờ phút cầm bút viết những dòng này, chúng tôi - và chắc rằng rất nhiều người khác - vẫn tin rằng Đảng ta không bao giờ nỡ đối xử với các thành viên của mình một cách quá đáng. Trung ương ta cũng không bao giờ nỡ đối xử với đồng chí, với cấp dưới của mình một cách nhẫn tâm, tàn bạo như thế. Hồi các ông được gọi là trong "nhóm xét lại chống Đảng" như Hoàng Minh Chính (viện trưởng Viện Triết học), Đặng Kim Giang (thiếu tướng quân đội nhân dân Việt Nam), Vũ Đình Huỳnh (vụ trưởng Vụ Lễ tân), Lê Liêm (thứ trưởng Bộ Giáo dục), Chu Văn Tấn (thượng tướng) bị xử trí, người thì bị tù đày, người thì bị khai trừ, quản thúc.
Nhân dân, trong đó có chúng tôi cứ yên chí họ là những phần tử chống Đảng thật sự, toan tổ chức vũ trang lật đổ chính quyền cách mạng hoặc thông đồng với ngoại bang chơi trò cõng rắn cắn gà nhà.
Cháy nhà mới ra mặt chuột. Nhờ đổi mới mà nhiều sự thật mới lòi ra. Chính nhờ đ/c Nguyễn Trung Thành, người hồi đó được đ/c Lê Đức Thọ và Trần Quốc Hoàn giao cho trực tiếp phụ trách tra xét vụ này, dư luận mới hiểu rằng mấy ông "xét lại" này chẳng qua có những quan điểm lý luận khác với các đ/c Lê Đức Thọ, Lê Duẩn chứ chẳng có tổ chức, có mưu đồ lật đổ ai. Mà những quan điểm lý luận này cũng chỉ mới tranh luận với nhau bằng mồm chứ chưa viết thành văn bản. Tất nhiên cũng chưa phạm tội tán phát tài liệu chống Đảng.
Có thể chúng tôi nhầm vì thiếu thông tin. Nhưng thực tế đã xác nhận rằng rất nhiều người, kể cả giới nghiên cứu KHXH không hiểu tường tận vụ việc này, nhưng vì nhát sợ nên cũng không dám điều tra tìm hiểu để đi đến kết luận chính xác. Chỉ biết rằng khi tiếp xúc với ông Hoàng Minh Chính, tranh luận một cách thân ái và thẳng thắn với ông cựu viện trưởng Viện Triết học này về chủ nghĩa xã hội và về vai trò của Đảng trong giai đoạn cách mạng mới, thì trước mắt chúng tôi là một con người tuy cao tuổi (80 tuổi) nhưng vẫn hết sức minh mẫn, cứng cỏi, hiểu biết rộng rãi sâu sắc cả sách vở lẫn cuộc đời. Chia tay với con người thanh nhã lịch thiệp này, ấn tượng còn lại vẫn là đã gặp một triết nhân đầy nhiệt huyết với dân tộc và cách mạng. Quái, một con người hồn hậu, dung dị lại giữ được bản lĩnh, bản sắc Việt Nam như thế, sao lại có thể thành phần tử xét lại chống Đảng được nhỉ. Mà về mặt lý luận xem ra ông còn có phần "chống xét lại". Thế mới biết việc đời, người đời không phải là điều dễ hiểu !
Với chúng tôi, ông Hoàng Minh Chính vẫn là một bậc cách mạng lão thành chân chính đáng cúi đầu thi lễ, nhưng vấn đề chủ yếu không phải ở chỗ đó. Vấn đề chủ yếu là ông Hoàng Minh Chính và tất cả những người đã bị bắt bớ giam cầm hay quản thúc trong thời kỳ đ/c Lê Đức Thọ làm trưởng ban tổ chức Trung ương Đảng và đ/c Trần Quốc Hoàn làm bộ trưởng Bộ Công an, họ có tội hay không có tội. Nhân dân cần biết rõ sự thật. Vấn đề không thuộc của riêng ai mà nó thuộc về công lý của Dân tộc và Thời đại. Chính trên bình diện đạo lý và pháp lý mà chúng tôi thẳng thắn đặt lại vấn đề này. Trong thời đại Hồ Chí Minh, không ai có quyền chỉ vàomặt nhau : "anh là kẻ chống Đảng, chống chế độ !" rồi tùy tiện bắt, tùy tiện giam, tùy tiện thả, không cần chứng cứ, không cần xét xử. Sự tùy tiện liên tục xảy ra đến nỗi, trong một bữa giỗ, ngay em ruột đ/c Lê Đức Thọ (Phan Đình Khải) là đ/c Đinh Đức Thiện (Phan Đình Dinh) cũng phải nổi khùng với anh mình : "Anh không thể làm những việc thất đức như thế được. Anh đừng có làm nhục dòng họ Phan, anh không lo rồi họ đào mả bố chúng ta lên à ?".
Khi người ta là thành viên của cộng đồng (một Dân tộc vĩ đại, một Đảng vĩ đại) mà người ta quên mất danh dự của Dân tộc, của Đảng, quên mất cả danh dự của dòng họ và bản thân mình thì thật là cực kỳ hết ý rồi. Sở dĩ còn phải lục ra bàn lại vì nó có ảnh hưởng đến các thế hệ con cháu chúng ta. Theo chỗ chúng tôi biết thì trên đời này chưa có một đảng phái nào dám ra văn bản qui định việc bắt bớ tù đày, bắn giết đảng viên của mình. Trước khi từ biệt thế kỷ cũ, chúng ta có trách nhiệm phải làm sáng tỏ những hành động phi lý và phi pháp này để khi bước vào thế kỷ mới, toàn Dân, toàn Đảng ta mang một tâm thế mới, mới hy vọng phát triển được. Nếu không, mọi người cứ sống trong tâm trạng nơm nớp lo sợ bị hoạnh họe, bị chèn ép, trù dập, bị bắt bớ tù đày .... Một người dân sống trong thôn xóm, xã, phường .... ngay cả những công dân nhỏ tuổi trong nhà trường mà lúc nào cũng bị thằng thúc đóng hết khoản lệ phí nọ đến khoản lệ phí kia. Thử hỏi làm thế nào để có thể sống yên ổn, no đủ.
Vừa qua, đ/c Nguyễn Văn Yểu, phó chủ tịch Quốc hội dẫn một đoàn đại biểu về kiểm tra TPHCM về tình hình bắt oan, xử tù oan những người vô tội. Không thấy công bố số lượng người bị bắt oan, xử tội oan cụ thể là bao nhiêu. Chỉ thấy báo đưa tin đ/c Yểu đã biểu dương tình hình có nhiều tiến bộ, nghĩa là tỷ lệ bắt oan đã giảm được 5% so với cùng kỳ năm ngoài. Dư luận đặt dấu hỏi : Vậy mỗi phần trăm ấy là bao nhiêu người ? Chẳng lẽ đ/c Yểu lại không hiểu rằng dù còn bắt oan đến một người cũng vẫn là nỗi đau đớn, nhục nhã cho bản thân và gia đình người ta rồi, vẫn là nỗi xấu hổ cho nền pháp chế dân chủ của ta. Sao lại còn có chuyện biểu dương và đánh giá cao thành tích ở đây ? Đã đến lúc chúng ta phải nhận thức lại toàn bộ vấn đề, đổi mới những phần cơ bản trong nhận thức của chúng ta về mặt pháp chế.
Ta thử đặt địa vị mình vào địa vị một đ/c cán bộ cách mạng nguyện suốt đời tận tụy vì đất nước và cách mạng, hay địa vị một văn nghệ sĩ nguyện suốt đời sáng tác để phục vụ nhân dân và cách mạng, một nhà khoa học nguyện suốt đời nghiên cứu để phục vụ khoa học và đất nước .... chỉ vì sự bất đồng ý kiến hoặc quan điểm, hoặc vì những lý do vu vơ nào khác mà đột nhiên bị đấu tố, bị vô hiệu hóa, bị loại trừ danh dự và mất tư cách công dân trong cộng đồng trong vài ba chục năm trời liên tục thì bản thân họ và gia đình họ đau khổ nhục nhã đến thế nào. Rồi cũng lại đột nhiên lẳng lặng trả tự do cho họ, không công khai xin lỗi, không công khai phục hồi danh dự cho họ. Như thế liệu có được không ?
Ở nước ta cũng có một hiện tượng rất lạ : đối với những người bị coi là "nhân văn giai phẩm" hoặc phần tử "xét lại" thì lên án rất mạnh mẽ, bài bản, có sách vở, có nghị quyết hẳn hoi, tạo nên một phong trào rất sôi nổi dữ dội. Mà trên thực tế, họ là những người vô tội. Nếu ai có khuyết điểm sai lầm nào đó thì cũng chưa gây nên một hậu quả tác hại lớn lao nào về mặt tinh thần cũng như vật chất.
Trong khi đó, nhưng phần tử giáo điều đã gây nên những thiệt hại trầm trọng cho Nhân dân, cho Đảng cả về mặt tinh thần và vật chất, lại không hề bị lên án hay kết tội. Chưa hề có một nghị quyết nào lên án những phần tử giáo điều tương đương như Nghị quyết 9 lên án những phần tử xét lại. Nếu chúng tôi không nhớ nhầm thì chính các đ/c Cuba đã có nêu thắc mắc về vấn đề này. Họ ngạc nhiên khi thấy chúng ta chỉ có "nghị quyết chống xét lại" mà không có "nghị quyết chống giáo điều". Và cả họ lẫn nhân dân chúng ta đều không ngớt ngạc nhiên khi thấy Đảng và Nhà nước ta lại còn tiếp tục giao quyền lực lãnh đạo và quản lý cho nhiều phần tử giáo điều để họ tiếp tục hưởng đặc quyền đặc lợi và tác oai tác quái.
Thế là đám gọi là "xét lại" chưa gây thiệt hại cụ thể gì thì coi là có tội và tuy chưa hưởng quyền được xét xử vẫn bị trừng phạt rất nặng. Ngược lại, đám giáo điều (không phải là "giáo điều" mà chính cống là giáo điều) gây thiệt hại một cách cụ thể có chứng cứ rõ ràng, cả nước cả thế giới đều biết thì đã không bị kết tội lại còn được o bế. Như thế là công bằng chăng ? Thiết tưởng, trước khi bảo nhau đi tới một xã hội công bằng văn minh, chúng ta phải thực tập dần dần để củng cố nhận thức : thế nào là công bằng ?
Lại nhớ đến một bài thơ giàu ý nghĩa triết lý của nhà thơ kiêm triết gia Ba Tư là ông Xa-a-đi :
Lẽ công bằng
Một anh chăn cừu hỏi cha :
- Thưa cha, thế nào là lẽ công bằng ?
Người cha trả lời:
- Con nên nhớ rằng khi con muốn công bằng với chó sói tức là con đã bất công với cừu !
Hội nghị Trung ương vừa qua thi hành kỷ luật cảnh cáo hai ủy viên Trung ương là đ/c Ngô Xuân Lộc và đ/c Cao Sĩ Khiêm, đó là lẽ công bằng, đó là kết quả của những ý muốn tốt đẹp, muốn thực sự lập lại kỷ cương công bằng. Có dư luận cho rằng cảnh cáo là còn nhẹ, nương tay quá. Xin thưa với quí vị rằng đừng quên các cụ xưa đã dạy : "Có hoa mừng hoa, có nụ mừng nụ", chớ có nóng vội ! Không bao giờ nên quên nước ta là một nước tiểu nông, căn bản vẫn là một nền sản xuất nhỏ, bất cứ việc gì cũng không được đốt cháy giai đoạn, phải tiến mạnh nhưng phải tiến thật vững chắc, nhất là trong lĩnh vực nhận thức cũng cần phải dần dần, càng phải biết chờ đợi nhau.
Đến như đ/c Hữu Thọ, trưởng Ban tư tưởng - văn hóa Trung ương có vấn đề còn nhận thức chưa ra, nói gì đến người khác. Một quyết định kỷ luật của Trung ương mạnh mẽ như thế khiến dư luận rung động xôn xao như một luồng gió mới mang lại phấn khởi cho đất nước, thế mà đ/c Hữu Thọ lại cho rằng : "Việc công khai đó cũng là điều bình thường". Trời ạ ! Một việc kỷ luật công khai những người tưởng như không thể kỷ luật được, lần đầu tiên được ghi trong văn bản nghị quyết của Trung ương công bố cho toàn Đảng, toàn Dân và toàn thế giới biết. Thế mà đ/c lại bảo là việc bình thường thì quả là kỳ lạ thật. Xin đ/c vui lòng cho biết từ khi thành lập Đảng ta đến nay đã có văn bản nghị quyết nào ghi kỷ luật những ủy viên Trung ương một cách cụ thể như thế chưa ? Chúng tôi chưa hề thấy một nghị quyết nào như thế. Mới đến như thế mà đ/c Hữu Thọ lại bảo rằng : "Đây cũng không phải là điều gì mới đâu !" (Trích trả lời phỏng vấn báo Tuổi trẻ TPHCM số 133/98 ngày 13-11-99).
Đối với những người có cái kiểu suy nghĩ như đ/c Hữu Thọ thì cuộc đời này chẳng có gì đáng gọi là mới cả, chẳng có gì là khác thường cả. Đ/c Hữu Thọ còn đưa dẫn chứng : "Tôi còn nhớ khi Bác Hồ còn sống, lúc vỡ đê Mai Lâm, Bác đã kiên quyết cách chức Bộ trưởng thủy lợi vì liên quan đến trách nhiệm của đ/c ấy, dù chỉ mới nhận chức bộ trưởng được mấy tháng".
Dẫn chứng như thế là chính xác và lập luận như thế quả là khó bác bỏ, đầy sức thuyết phục. Chẳng thế mà đ/c Hữu Thọ trả lời hôm trước ở báo Tuổi trẻ thì hôm sau báo Sài Gòn giải phóng đã tung hô ngay. Đúng là "tâm phục, bút phục" ! (Xem báo SGGP ngày 15-11-99).
Trước hết, hãy xin phép thảo luận với đ/c Hữu Thọ thế nào là bình thường và thế nào là không bình thường. Thảo luận theo nề nếp tư biện thì chúng ta lấn sang sân của Viện Triết học và Hội đồng lý luận của Trung ương. Chúng ta cứ tuân theo lời Bác Hồ dạy là "lý luận liên hệ với thực tiễn" để bà con ta dù học ít hay học nhiều đều có thể hiểu được. Đ/c Hữu Thọ cho rằng việc Trung ương thi hành kỷ luật công khai hai đ/c ủy viên Trung ương Cao Sĩ Kiêm (cựu thống đốc Ngân hàng quốc gia và đương kim phó trưởng Ban kinh tế Trung ương) và Ngô Xuân Lộc (đương kim phó thủ tướng Chính phủ) là điều bình thường. Vậy, việc Trung ương ta chưa công khai thi hành kỷ luật ủy viên Trung ương Nguyễn Thiện Luân (đương kim thứ trưởng Bộ Nông nghiệp) có là điều bình thường không ? Trước khi được đề bạt thứ trưởng, ông Luân còn là giám đốc nhà máy bột ngọt Thiên Hương. Do một báo cáo dối trá của ông mà 51 tấn bột ngọt trong kế hoạch hoàn thành của nhà máy chỉ có trên giấy, sau đó được báo cáo là bị mất trộm. Thế là Công an, rồi Viện kiểm sát, và suýt nữa cả Tòa án đều phải vào việc. Phúc đức làm sao ông Sấm bà Ao và những người có liên quan khác đang bị giam giữ chờ ngày ra tòa thì được Công an TPHCM cứu thoát. Theo Công an TPHCM điều tra thì chẳng có một ký bột ngọt nào bị mất trộm cả nên những người bị bắt bớ giam cầm oan uổng đều được phóng thích.
Chắc đ/c Hữu Thọ hồi đó đang đương chức đương quyền ở báo Nhân dân còn nhớ rõ : Báo chí ở thành phố và một vài tờ báo Trung ương thông cảm với nỗi oan ức đau khổ của những người cùng giai cấp đã làm om lên như thế nào. Rồi Ban thanh tra TP và tiếp đến là Ban thanh tra Trung ương đã ra tay như thế nào và đều kết luận nhất trí với Công an ra sao. Rồi dư luận nhân dân phản ứng ra sao, rồi Đoàn đại biểu Quốc hội TP lo ngại vụ việc bị chìm xuồng hoặc để lâu thì "hóa bùn" tất cả nên kỳ họp Quốc hội nào cũng lên tiếng kiến nghị. Thế mà đột nhiên có một lệnh riêng nào đó từ Hà Nội (chúng tôi đang điều tra để có chứng cứ đích xác là ai đã ra lệnh phi pháp này), báo chí im tịt luôn, đoàn đại biểu Quốc hội cũng im tịt luôn và mọi người thì không dám bàn tán công khai nữa. Miệng thì không được nói, nhưng lòng nhức nhối, mà đ/c Hữu Thọ biết đấy, lòng dân đã nhức nhối không yên thì lôi thôi lắm, sao lại coi là bình thường được.
Đức Nguyễn Trãi đã dạy :
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
(Bình Ngô đại cáo)
Nếu chúng ta không nỗ lực giúp đỡ Trung ương ra tay trừ bạo nghịch, bạo ngược để làm sáng tỏ nhân nghĩa Hồ Chí Minh, nhân nghĩa cộng sản thì thật là vô trách nhiệm biết chừng nào.
Hãy giả thiết, bản thân ông Nguyễn Thiện Luận hoặc những người bao che có đủ chứng cứ để chứng minh rằng ông Luân và đồng bọn đều vô tội thì chúng tôi yêu cầu cũng nên công khai minh oan cho họ. Và vấn đề buộc phải chuyển hướng : cần truy cứu trách nhiệm hình sự đối với Công an TP, Ban thanh tra TP và Ban thanh tra Trung ương. Vu cáo, bôi nhọ danh dự một đ/c ủy viên Trung ương, Thứ trưởng lại là chuyện đùa giỡn với pháp luật được chăng ?
Xin hỏi thêm đ/c Hữu Thọ, vậy việc bà con nông dân ta ở Thái Bình, vừa qua nổi dậy chống lũ cường hào quan lại tham nhũng, như thế là bình thường hay không bình thường?
Xét theo logic lịch sử thì bình thường quá đi chứ. Phải không đồng chí ?
Thế sao các đ/c lại hoảng lên rồi kẻ thì bàn việc đánh dẹp, người thì bàn việc né tránh, còn đ/c thì lại làm bộ đứng giữa để chữa đôi bên, lại còn cao giọng khuyên bảo những vị lão thành cách mạng và những vị cựu chiến binh không nên "cầm đầu" cuộc nổi dậy của Thái Bình. Thế hóa ra "sống chết mặc bay" à !
Trong văn bản "Chỉnh đốn để tồn tại và phát triển", chúng tôi đã khẳng định : Nhân dân Thái Bình không chống Đảng, Đảng này do người ta đẻ ra, người ta yêu thương bao nhiêu cũng chưa đủ, sao lại nói chuyện "chống" ở đây. Nhân dân Thái Bình cũng không chống chế độ, chế độ này do bao nhiêu xương máu, mồ hôi người ta đổ ra mới tạo dựng nên, sao lại nói chuyện chống ở đây !
Lại đưa luận điệu do bị xúi giục, kích động thì cũng là trí nhớ và thần kinh không bình thường. Hãy mở lịch sử coi lại xem. Thế thì các ông Nguyễn Hữu Cầu, Nguyễn Danh Phương, Hoàng Công Chất ...., rồi trước đó là các ông Nguyễn Huệ, Lê Lợi, Nguyễn Trãi không nắm vững chính nghĩa, không hiểu nỗi oan khổ và nguyện vọng của dân thì các ông "kích động" nổi ai để làm nên nghiệp lớn và tiếng tăm lưu sử xanh.
Nếu anh là phi nghĩa, anh có ý đồ xấu thì giỏi lắm anh kích động được dăm ba chục người, vài ba xã. Chứ khi hàng vài trăm xã người ta đồng tình nổi dậy thì mong đ/c Hữu Thọ cũng như bất cứ ai chớ có đánh giá thấp bà con nông dân ta như thế.
Theo chỗ chúng tôi khảo sát lịch sử, trong khoảng vài ba ngàn năm qua, bà con nông dân ta chẳng bao giờ nổi dậy nhầm cả. Và tất cả những ai thiếu tài năng và bản lĩnh cũng chẳng bao giờ dám đứng ra kích động và cầm đầu ai cả.
Gần đây (30-10-1999), chúng tôi đọc được trên báo Sài Gòn Giải Phóng bài "Bài thuốc cứu nguy" của đ/c Trần Trọng Tân, cựu trưởng Ban tư tưởng văn hóa Trung ương Đảng. Có thể nói không quá đáng rằng đây là một bài báo đầy tâm huyết có nhiều ý kiến sâu sắc, táo bạo. Chỉ hơi tiếc, có vài điểm đ/c Tân chưa kịp đổi mới tư duy lý luận. Hạn chế này có lẽ do đ/c chưa quan tâm vận dụng phương pháp so sánh lịch sử, phần khác là do đ/c Tân cũng như nhiều đảng viên liêm khiết khác, vì quá lâu ngày tự khuôn mình vào những "tín điều" đã bị thực tiễn và đời sống loại bỏ. Khi đ/c viết : "Nhiều người dân ở thành phố này, qua nhiều năm, đã biết Đảng cộng sản là đảng duy nhất dám lãnh đạo nhân dân đương đầu đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược hung bạo, đã thấy được tận mắt nhiều cán bộ đảng viên của Đảng từng sống chết vì dân nên họ còn quí Đảng, không chịu mang tiếng chống Đảng". Quái ! Tại sao chống lũ đảng viên tiêu cực, tham nhũng lại là "chống Đảng" ?
Đ/c Tân sớm quên rằng xưa kia chống vua có nghĩa là phạm tội đại nghịch, ngoài tội chết chém còn thêm cái họa "tru di tam tộc". Chưa nói đến chuyện vua đó lại còn là dòng dõi của những dòng họ công lao hiển hách như họ Trần, họ Lê v.v. Ơn nghĩa cứ ghi nhận ơn nghĩa, chứ dân ta đâu có ngán cái chuyện "mang tiếng".
Còn vùng đất Lục tỉnh này, nhất là vùng đất Sài Gòn - Gia Định một thời đã phò giúp chúa Nguyễn Ánh dựng nghiệp lớn, lại còn là đất quê ngoại của nhà vua từng được hưởng bao ơn mưa móc, cơm nặng áo dày, tình nghĩa lắm đấy chứ ! Ơn nghĩa với vua cha (hoàng đế Gia Long) nhưng vua con (hoàng đế Minh Mệnh) lại cứ ban hành chính lệnh hà khắc để dung dưỡng cho lũ tham quan ô lại, cường hào ác bá thì nhân dân Lục tỉnh cũng phải bảo nhau nổi dậy thôi. Chỉ tiếc người cầm đầu là Lê Văn Khôi chưa đủ tài năng và bản lĩnh để đưa một cuộc khởi nghĩa lớn như thế đến thắng lợi. Chuyện trăm năm gần đây lại càng rõ. Nhân dân Gia Định và cả dân Gò Công nữa cũng chẳng sợ mang tiếng gì cả :
Viên đạn nghịch thần treo trước mắt
Lưỡi gươm địch khái nắm trong tay.
Nếu dân vùng đất này chỉ vì sợ mang tiếng mà không nắm chắc lưỡi gươm địch khái thì chắc chắn hồn nước rồi bản lĩnh, bản sắc cũng tiêu lâu rồi, lấy đâu ra Nam Kỳ khởi nghĩa, Nam Bộ kháng chiến, lấy đâu ra Thành đồng Tổ quốc và những ngày vẻ vang tốt đẹp như hôm nay. Đ/c Tân lại lo dân đất Thành đồng này vì sợ "mang tiếng" mà chịu thua kém Thái Bình chăng ?
Không ! Theo chỗ hiểu biết cạn hẹp của mình, chúng tôi chưa thấy nhân dân ở đâu lại yêu Đảng của mình như nhân dân mình. Cũng là lẽ tự nhiên thôi. Có bậc cha mẹ nào lại không yêu thương con cái của mình ? Nhưng con không chịu học hành lại rượu chè, buôn lậu, ma túy rồi về nã tiền bố mẹ, hở đâu lấy đấy, còn thông đồng với cả trộm cướp dọa nạt hành hạ bố mẹ. Thử hỏi có bố mẹ nào chịu đựng được mãi không ?
Chúng tôi cho rằng nhân dân Liên Xô cũng chẳng bao giờ chán ghét lý tưởng cộng sản hoặc chán ghét Lênin. Và khi họ đồng lòng bảo vệ Đảng thì đừng có lực lượng nào hy vọng động đến Đảng. Nhưng khiếu tố, khiếu nại mãi mà vẫn cứ bảo nhau ôm ấp, bao che cho bọn quan liêu, tham nhũng, cưỡi đầu cưỡi cổ, đục khoét nhân dân thì ai chịu nổi. Lý tưởng thì thấy còn xa vời mà hàng ngày mặt giáp mặt chỉ thấy một lũ hống hách, tham lam, bỉ ổi . . . hỏi ai chịu nổi mà không sập tiệm ?
Nói cho ngay, dân ta hiện nay cũng chưa chán Đảng mình đâu. Nhưng với lũ đảng viên tiêu cực thoái hóa quan liêu tham nhũng thì thực sự dân mình đã ngấy đến tận cổ rồi.Ta phải thực sự xúm lại mà bàn bạc cho ra nhẽ, chứ không thể để cho lũ này lại còn nhung nhăng phê với tự phê !
Dân ta có một bộ phận rất đông mắc bệnh sĩ diện do lây nhiễm từ giới nho sĩ thời Nguyễn chịu ảnh hưởng Tống nho, nhưng nói chung khi đã lâm vào tình thế nước sôi lửa bỏng thì cũng chẳng còn "sĩ " nữa, chẳng sợ "mang tiếng" gì hết !
Đã chơi là chơi. Được làm vua, thua làm giặc. Làm giặc cũng chẳng xấu. Thất nghiệp, chết đói mới là "đại sự" (đối với các nho sĩ Tống nho thì chết đói là "tiểu sự", thất tiết mới là "đại sự").
Trong lịch sử, cứ khi nào dân đói quá khổ quá thì lập tức vứt trả mọi thứ "dầu bôi trơn" - đói khổ là do số phận, do mệnh trời hoặc do tiền kiếp - rồi rùng rùng nổi dậy. Nho sĩ bình dân thì chưa đến nỗi đói nhưng nhục quá không chịu được thì đi làm trách nhiệm "cầm đầu". Hai bên gặp nhau thế là khởi nghĩa bùng nổ, triều đại suy sụp. Và thế là lịch sử phát triển. Tất cả các giới thống trị phong kiến, thực dân, phát xít, đế quốc. . . đều muốn ngăn cản sự phát triển này nhưng bánh xe lịch sử cứ lăn tới và nghiền nhừ hết.
Ô hay, sao đ/c Trần Trọng Tân lại lo ngại vô cớ như thế này :
"Khó thứ ba là dân chống bọn cầm quyền thống trị trước đây trong chế độ xã hội cũ thì có Đảng lãnh đạo, nay không có ai lãnh đạo cho nên đã bị bọn cơ hội chính trị lợi dụng kích động thì có nguy cơ lớn hơn. Cấp trên ở xa không hiểu thấu, đảng viên tốt ở cơ sở, sát dân có muốn xông vào tiếp sức với dân thì sợ bị qui là đi xúi giục dân gây rối, vi phạm kỷ luật Đảng".
Không nên đánh giá thấp nhân dân. Lối nhìn nhân dân theo kiểu các tác giả phim "Chuyện làng Nhô" là lối nhìn quáng gà. Không đáng nói nữa. Chắc đ/c Trần Trọng Tân và rất nhiều người còn nhớ thời kỳ 45, dân mình vừa mù chữ, vừa đói mờ cả mắt, thế mà Việt Quốc, Viết Cách, Đại Việt .... đầy cả đường, lại thêm cái loa ở đường Quan Thánh ra rả suốt ngày suốt tháng nói xấu Cụ Hồ, nói xấu Việt Minh. Ở Thủ đô, ở Huế và nhiều tỉnh khác, chúng còn xuống đường diễu hành hô đả đảo. Thế mà dân mình cũng có nhầm đâu ! Huống chi bây giờ, người nào tốt, kẻ nào xấu, người nào chân chính, kẻ nào cơ hội qua làm sao nổi mắt dân !
Còn chuyện đ/c Tân lo "nay không có ai lãnh đạo cho" thì đó là lo xa quá đấy thôi, nói theo kiểu các cụ xưa : đó là chuyện "lo bò trắng răng, vội vàng mua thuốc nhuộm răng cho bò". Cấp trên của ta bây giờ luôn luôn xuống sát cơ sở để nắm vững dân tình, đâu có như vua chúa ngày xưa năm thì mười họa mới vi hành, đâu phải chỉ "đảng viên tốt ở cơ sở" mới nắm vững tình hình. Thế đ/c không tin rằng những "đảng viên tốt" ở Trung ương cũng nắm vững tình hình à ? Đảng viên tốt ở cơ sở muốn xông vào tiếp xúc với dân thì sợ bị qui là đi xúi giục dân gây rối đã đành, chẳng lẽ những "đảng viên tốt" ở Trung ương lại cũng sợ thế chăng ?
Nếu đảng viên tốt ở cơ sở và đảng viên tốt ở Trung ương lại đều bảo nhau đánh vần chữ "sợ" như thế thì hỏi các vị có còn xứng đáng là học trò Cụ Hồ nữa không ?
Và nếu trên dưới đều sợ và mang tâm lý bất lực trước bọn quan liêu, cường hào, tham nhũng thì Đảng ta phải đổi tên thành Đảng gì ?
Nói cho hết nhẽ thế thôi, nhận thức nhầm thì ta tự điều chỉnh lại chứ chẳng có gì đáng phải bi quan cả. Chúng tôi tin rằng còn nhiều đảng viên tốt ở mọi cấp đều nhớ rằng mình là cộng sản. Lãnh đạo nhân loại bị áp bức bóc lột, đấu tranh giành quyền sống, quyền hưởng tự do và hạnh phúc trong thời đại hiện nay, chẳng lẽ không còn phải là trọng trách không thể thoái thác của bất kỳ ai ý thức được rằng mình là cộng sản ?
Tất nhiên, ở đời, thật giả khó phân : ông tổng thống ngụy Nguyễn Văn Thiệu quả là đáng ghét nhưng trước khi hốt hoảng bỏ chạy khỏi đất nước cũng được một câu nói đáng cho ta ngẫm nghĩ : "Không nên nghe cộng sản nói mà nên xem cộng sản làm".
Ta cũng thường nói : thực tiễn là thước đo chân lý. Cứ xem việc làm thì biết ngay ai là cộng sản chân chính, ai là cộng sản giả hiệu.
Có điều đáng buồn là, không hiểu mắt nhắm mắt mở thế nào mà trong một thời kỳ dài, những Phạm Nhật Hồng, Phùng Long Thất, Lê Minh Xư, Nguyễn Xuân Trường .... và một lô một lốc lũ cướp ngày, trộm ngày khác lại được bầu và duyệt là đảng viên 4 tốt. Thậm chí có những kẻ còn được báo chí ca tụng, được truyền thanh, truyền hình phỏng vấn, nêu gương cho đời học tập, và chúng không lên chức lên lương sao được, không cưỡi hẳn 1000 con trâu sao được.
Đúng như Cụ Hồ đã nói : "Không phải cứ dán hai chữ cộng sản vào trán họ là họ thành cộng sản" (Hồ Chí Minh toàn tập, tập ....... trang ....). Thế mà trong đợt phê bình, tự phê bình này, Trung ương đã bảo phải làm thật nghiêm chỉnh mà có những vị vẫn cả gan dán lên trán mình mấy chữ "đảng viên loại 1". Mà có mấy cái tập thể đảng bộ chẳng hiểu nhận thức ra sao, hữu khuynh a dua như thế nào mà lời Cụ Hồ cũng chẳng nhớ, lời ông Phiêu cũng chẳng chịu nghe. Lại nhất trí bầu nhau loại 1. Đến nỗi toàn là 80% đến 90% loại 1, lại đúng vào những địa chỉ bê bối mà nhân dân cứ nghe đến đã đủ lắc đầu cười khảy rồi.
Chúng tôi cũng không muốn nói nhiều đến bọn quan liêu tham nhũng nữa. Không cần phải quan trọng hóa chúng nó chỉ vì chúng đang giữ một chức hoặc một quyền nào đó trong bộ máy nhà nước ta. Không nên nghĩ một cách mặc cảm tự ti rằng số phận của chúng ta là đang nằm trong tay chúng mà phải khẳng định dứt khoát rằng chính số phận chúng đang trong tay Dân ta, Đảng ta. Dân đã kiên quyết, Đảng cũng kiên quyết, vậy thì chúng độn thổ đi đằng nào ?
Xin phép hỏi thẳng, những đảng viên nào còn giữ được chất cộng sản mà lại nói rằng chúng đông lắm không chống được đâu. Vô lý thật ! Chúng lại đông bằng Nhân dân à ? Chúng lại mạnh ngang với vua chúa và thực dân đế quốc à ? Chắc các đ/c lại cho là còn vướng ô dù chứ gì ? Mà chắc những ô dù này còn mạnh hơn cả siêu cường Mỹ chăng ?
Cho nên nói thẳng ra là : Dân thì dứt khoát chống và dứt khoát thắng. Còn Đảng mà không lãnh đạo nhân dân trong cuộc này thì rõ ràng Đảng tự loại mình ra khỏi đời sống dân tộc. Nỗi lo lắng của đ/c Lê Khả Phiêu là đúng : Đảng không lãnh đạo chống quan liêu tham nhũng thắng lợi thì Đảng mất vai trò lãnh đạo. Ai đồng tình với Tổng bí thư Lê Khả Phiêu thì tiến lên đi - "Tiến lên toàn thắng ắt về ta". Dân thì ký cả hai tay rồi. Còn Đảng viên nào chần chừ do dự là tự đánh mất phẩm chất của mình. Vị trí của bọn tham nhũng là vành móng ngựa và nhà tù. Vị trí của người cộng sản là đi tiên phong trong mọi cuộc đấu tranh. Không cần sợ tai tiếng gì cả. Vì lý do cơ bản của sự có mặt của những người cộng sản, của những đảng cộng sản chân chính trên đời này là để cầm đầu mọi cuộc đấu tranh chống áp bức bất công. Chính những ai định lái Đảng đi chệch con đường này mới đúng là "mang tiếng". Không chỉ "mang tiếng" mà còn là "mang tội" trước lịch sử. Còn nói như Fidel Castro : "Nếu xét xử tôi một cách oan ức thì đã có lịch sử minh oan cho tôi".
Hãy giả thiết lại thêm một lần nữa những người chân chính bị ném vào tù hay phải dẫn ra pháp trường thì đâu có phải vì thế mà mất nhuệ khí đấu tranh. Lời đ/c Trần Phú chẳng hãy còn văng vẳng bên tai chúng ta hay sao : "Hãy giữ vững chí khí chiến đấu !". Và xin phép được nhắc thêm một lần nữa lời Cụ Hồ : "Một người yêu nước không sợ gì hết và nhất thiết không được sợ gì".
Chúng tôi cũng không tán thành ý kiến đ/c Trần Trọng Tân, cho đến hôm nay, sắp chào từ biệt thế kỷ này mà đồng chí vẫn còn đồng nhất cá nhân với tập thể Đảng : "Đ/c Tổng bí thư ngồi học lại bài "Dân vận" (...). Làm việc đó, chứng tỏ Đảng ta không bao giờ quên ơn, không phụ lòng những liệt sĩ, thương binh, những bà mẹ anh hùng, những người dân đã có công theo Đảng giành chính quyền về tay nhân dân, chứng tỏ Đảng ta muốn dân ta được làm chủ thực sự, không phải là lời tuyên bố suông" (Vẫn bài báo trên).
Nhận thức đồng nhất giữa cá nhân và tập thể như thế sẽ làm cho tư tưởng Dân chủ không phát triển được và cũng sai thực tế.
Đảng ta có bao giờ quên Dân và Đảng này không bao giờ tuyên bố suông cả. Lịch sử xác nhận như thế chứ không phải vì yêu quí Đảng rồi bốc Đảng lên. Đảng không quên, vậy những đảng viên nào quên, những tổng bí thư nào quên, thì mang họ ra mà phê bình kiểm điểm. Họ phải nhận lỗi chứ không thể đổ lỗi cho Đảng được. Còn đ/c Lê Khả Phiêu nhớ và học tập tử tế lời Bác Hồ thì khuyên cho đ/c một dấu son vào trang sử hiện nay.
Từ nay, chúng tôi kiến nghị :
- Chấm dứt hoàn toàn và triệt để sự đồng nhất giữa cá nhân đảng viên với tập thể đảng. Một bí thư cấp cơ sở nói đúng sai phải trái chưa phân tích để nhận thức cho rõ lại bảo nhau : Đảng đã chỉ thị như thế, ta phải phục tùng. Thử hỏi Đảng nào ở đây ? Ông bí thư tỉnh ủy tổ chức việc buôn lậu thì phải phản đối và báo cáo ngay cho Trung ương biết. Ông bí thư huyện ủy thông đồng với bọn lâm tặc thì phải phản đối ngay cho tỉnh ủy biết và tỉnh ủy phải lập tức điện theo đường dây nóng báo cho Trung ương và Chính phủ biết. Tập trung dân chủ đúng theo nguyên tắc như thế thì làm gì có vụ Tánh Linh với Tân Trường Sanh hay Epco Minh Phụng, thủy cung Thăng Long ...
Tuy nhiên, đó cũng là chuyện nhỏ thôi. Chuyện đáng nói là nếu tập trung dân chủ có tính nguyên tắc (không phải theo cái kiểu vô nguyên tắc như xưa nay ta vẫn làm) thì làm sao nẩy nòi ra được những hiện tượng "cộng sản" quái gở như Goócbachốp, như Enxin. Cần rà soát lại một cách nghiêm khắc, không thể chấp nhận lối phê bình, tự phê bình một cách qua loa tắc trách vì đây là vận mệnh của Đảng, của Chế độ, của Dân tộc, không phải chuyện đùa !
Chúng tôi thấy đ/c Hữu Thọ có một ý rất đúng : "Trong nghị quyết Trung ương 7, chúng ta có nhận ra một thiếu sót. Đó là nhiều chức năng, nhiệm vụ còn chồng chéo, rồi chế độ, qui định trách nhiệm chưa được rõ ràng, cho nên nhiều người có trách nhiệm hiện nay lại chưa có đủ quyền hạn thực thi nhiệm vụ của mình. Do vậy, tôi nghĩ rằng thi hành kỷ luật về chế độ trách nhiệm thì phải đồng thời thực hiện nghị quyết Trung ương 7 trong việc phân định trách nhiệm rõ ràng. Người ta có quyền đầy đủ thì mới có trách nhiệm đầy đủ". (Vẫn trích bài phỏng vấn). Rất tiếc, đ/c Hữu Thọ nói đúng ý nghị quyết nhưng lại không gắng giải thích cho "rõ ràng và đầy đủ".
Chế độ ta đã kéo dài một tình trạng không hay. Thủ tướng chính phủ là người có quyền lực cao nhất trong bộ máy hành pháp mà không thể ký lệnh cách chức bất cứ ai dưới quyền mình. Vì trên thực tế, Thủ tướng có được hưởng quyền bổ nhiệm đâu mà có quyền cách chức. Do đó, thấy có những Bộ trưởng làm hỏng việc, Thứ trưởng phạm pháp, Phó thủ tướng phạm tội cũng phải làm ngơ. Bộ trưởng thấy người phó giúp việc mình không có năng lực, có Cục trưởng, Vụ trưởng bê bối cũng phải làm ngơ. Tình hình ở các địa phương cũng tương tự. Ông chủ tịch tỉnh hay chủ tịch thành phố cũng chẳng bao giờ dám cách chức ai hết.
Thủ tướng và các Bộ trưởng quyền được giao lớn như thế mà khi về kiểm tra địa phương, kiểm tra ngành lại không dám khiển trách một ai cả, dù rằng dư luận nhân dân cũng như dư luận báo chí đã nêu rõ những địa chỉ phạm pháp. Điều tai hại là những người có quyền hạn trong bộ máy hành pháp không thể thực thi quyền hành của mình, cũng không ai nói gì. Lâu ngày, người ta cảm thấy không thể cách chức hoặc kỷ luật một ai và cấp dưới làm đúng, làm sai mình cũng chẳng chịu trách nhiệm gì. Do đó, không biết từ lúc nào nảy sinh một tình hình kỳ lạ vào loại số 1 trên hành tinh : ai cũng có thể được cử làm chủ tịch, bộ trưởng, tổng cục trưởng, thống đốc ngân hàng .... mà những người được cử cũng không hề từ nan, không thấy ai băn khoăn, lo lắng về năng lực của mình đối với trọng trách quản lý một địa phương hoặc một ngành chuyên môn. Thậm chí làm Phó thủ tướng, Thủ tướng hoặc Chủ tịch nước ở đất nước ta nhiều người còn quan niệm đơn giản hơn nhiều. Nghe đâu Trung quốc cũng có thời kỳ tương tự như ta nhưng họ có thận trọng hơn.
Thử hỏi tình hình vì sao nên nỗi ?
Bây giờ lại đi trách Thủ tướng, Bộ trưởng, các chủ tịch tỉnh, chủ tịch huyện, .... cũng là oan cho họ. Họ có được toàn quyền bổ nhiệm ai đâu ? Bản thân họ cũng "bị" bổ nhiệm. Vì ở ta do quan niệm đề cao tập thể và ý thức làm chủ tập thể nên việc gì cũng do tập thể quyết định hết. Tập thể lãnh đạo cấp trên bổ nhiệm các cá nhân cấp dưới mà danh sách bổ nhiệm lại nằm trong tay phòng tổ chức hay ban tổ chức. Ban tổ chức chính quyền cấp nào thì tham mưu cho chính quyền cấp đó. Cán bộ ta dù là đảng viên hay không đảng viên đều hiểu rõ quyền lực của ban tổ chức (phòng, vụ) là rất lớn. Vì thế những phần tử cơ hội muốn tiến thân đều "chạy chọt" ở cửa này.
Tuy nhiên, ban tổ chức Chính quyền, tiếng rằng quyền hạn to như thế vẫn phải nằm dưới ban tổ chức Đảng. Tất nhiên, ban Tổ chức Trung ương có quyền lực cao nhất. Ông trưởng ban Tổ chức Chính phủ cũng phải thỉnh thị ý kiến của ông trưởng ban Tổ chức Trung ương.
Nếu các vị trưởng ban tổ chức cao cấp này đều biết khiêm tốn học tập Phụng Dương công chúa đời Trần thì thực là đại hồng phúc cho Đảng ta và Nhà nước ta.
Như phần trên chúng tôi đã nói, do Bộ Giáo dục ta có sơ khoáng trong việc thi cử, nhiều năm không cho thi môn lịch sử. Mặt khác lại cũng do các đồng chí ta mải mê "công tác tổ chức" nên cũng ít thời giờ học lại các bài học lịch sử nước ta nên nhiều người quên biến hoặc không biết Phụng Dương công chúa là ai ?
Xin thưa rằng : Phụng Dương công chúa là con vua Trần Thánh Tông là phu nhân của thượng tướng Trần Quang Khải, một vị tướng giỏi võ hay thơ nhưng lười tắm táp. Bà Phụng Dương cùng với Linh từ Quốc mẫu (phu nhân Thái sư Trần Thủ Độ) đều là những người phụ nữ quí tộc giỏi nhất vào thời Trần. Nói theo ngôn ngữ hiện nay, một người được giao làm Tổng cục trưởng Tổng cục hậu cần, một người là trợ thủ đắc lực trong việc quản lý và điều khiển gia trang nhà Trần. Công lao của hai bà lớn quá đến mức dẫu các sử gia phong kiến sẵn máu khinh thường phụ nữ cũng thấy vẫn cần phải chép vào Quốc sử.
Riêng bà Phụng Dương với thành tích tổ chức và quản lý đã được Trần Quang Khải tạc công đức vào bia đá. Văn lòng bia chính tay thượng tướng Trần Quang Khải viết. Và bia hiện còn nguyên vẹn tại xã Mỹ Thành, huyện Mỹ Lộc (cũ), tỉnh Nam Định, là đất Thái ấp của ông bà Thượng tướng (*1). Ở đây, chúng tôi chỉ nêu vắn tắt cái nguyên tắc làm việc của bà : "Ai không có tài thì không thể cho chức vụ, nếu thiếu tiền thì cho tiền. Đối với người trong hoàng tộc hay ngoài hoàng tộc cũng thế".
Đấy, học người xưa là học cái thần, cái cốt tử của nếp nghĩ, nếp hành động của người xưa.
Xin thưa với các nhà nghiên cứu văn hóa, nếu tất cả chúng ta bảo nhau, từ công dân cho đến chủ tịch nước, học tập kế thừa có phê phán nếp cảm, nếp nghĩ, nếp sống .... của ông bà ông vải thì lo gì mà không đậm đà bản sắc dân tộc. Cổ động cho việc phục hồi y phục, ẩm thực, lễ hội .... cũng nên vừa phải thôi. Chứ chẳng giúp cho dân tộc phát triển thêm đâu. Còn việc phục hồi hương ước giả phả, gia lễ , xây nhà thờ họ, xây mồ mả .... cũng nên vừa phải thôi.
Xin mời các nhà nghiên cứu quá bộ về nông thôn mà khảo sát tình hình. Quan niệm về dòng họ không đúng nên đã có chuyện tương đối phổ biến : "Chi bộ họ ta và chi bộ họ chúng nó", "chi bộ họ ta dứt khoát phen này phải nắm cái bí thư, còn bên chi bộ họ chúng nó thì cao nhất là chân phó bí thư". Mặc dù trên thực tế "chi bộ họ ta" không ai giỏi bằng người bên các chi họ khác.
Cũng mang tiếng là đảng viên cộng sản, thật đáng xấu hổ với hương hồn Phụng Dương công chúa, Thái sư Trần Thủ Độ và bao bậc tiên liệt anh hùng khác.
Trách các đ/c ta ở nông thôn một phần thôi. Người đáng trách nhất là các nhà nghiên cứu lý luận và các nhà quản lý văn hóa. Tế lễ thần thánh là việc thiêng liêng không bao giờ có thể bỏ được, nhưng khi quí vị đã đi tiên phong trong việc ẩm thực và tế lễ thì các cụ Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan hẳn là không thể yên nghỉ dưới mộ được rồi. Sợ nhất là các vị lại đồng tình với những quan điểm đáng ngờ của giáo sư Léon Vandermessh (Pháp) và tiến sĩ Tu Weiming (Đỗ Duy Minh) (Đài Loan), nhất là quan điểm của ngài Lý Quang Diệu (Singapore) trong việc ca ngợi và phục hồi Khổng giáo. Mà cũng lạ, không rõ ngài Lý Quang Diệu nghiên cứu ra sao mà trong phương châm tu, tề, trị, bình, ngài lại giải thích rằng bình thiên hạ là đem lại hòa bình cho thiên hạ. Chẳng lẽ các hoàng đế Trung Quốc từ xưa đến nay đều hiểu rằng bình thiên hạ nghĩa là bình định, dẹp yên thiên hạ để đặt được được ách thống trị lên đầu lên cổ các chư hầu và tứ di lại là hiểu sai cả chăng ? Xin thưa đó chính là chủ nghĩa bá quyền đấy ạ !
Cũng may vừa qua cơn bão tài chính thổi từ Hoa Kỳ sang vùng Đông Nam Á ta, khiến cho các tiểu long một phen nhào lên lộn xuống, ngay đại long Nhật Bổn tận vùng Đông Á cũng liêu siêu một phen. Thế là nhiều học giả của ta đã có thời kỳ khen nức khen nở các nước rồng, rằng nhờ văn hóa Khổng giáo mà cất cánh được, ta nên mau mau học tập, mau mau phục hồi Khổng giáo, giờ đây đã giật mình và đã có phần nào tỉnh ngộ.
Chúng tôi nói phần nào vì có bài thu hoạch của giáo sư Phương Lựu sau kỳ hội thảo quốc tế về Khổng giáo nhân dịp kỷ niệm 2550 năm ngày sinh Khổng tử tại Thủ đô Bắc Kinh. Chúng tôi chưa được đọc toàn văn bài tham luận của ông Phương Lựu nhưng chỉ cần xem cái tinh thần tóm tắt bài tham luận của ông, chúng tôi thấy ngay một điểm cơ bản là ông Phương Lựu chỉ nói chuyện quá khứ chứ không dám đề cập một vấn đề nào của hiện tại. Nghiên cứu khoa học mà không nhằm phục vụ hiện tại, phục vụ cho sự phát triển của dân tộc và đất nước trong hiện tại thì nghiên cứu như thế bổ ích gì ? Mà ngay nói chuyện quá khứ ông cũng né tránh những những chuyện đau buồn của dân tộc ta do chủ nghĩa bá quyền Khổng giáo gây ra.
Cũng phải thông cảm với các giáo sư. Các vị được người ta trân trọng mời sang, nói những chuyện đau buồn ấy trên đất nước người ta sao được, cho dù người ta cũng là xã hội chủ nghĩa chứ không còn là phong kiến nữa. Nhưng điều đáng lưu ý là đối với những học giả ngoài Trung Quốc có ý kiến phê phán mặt tiêu cực của Khổng giáo thì nghe giọng văn của giáo sư Phương Lựu cũng thấy ông chẳng đồng tình với họ. Chúng tôi cũng chẳng lạ gì giáo sư Phương Lựu vì toàn bộ phần nghiên cứu của ông từ trước đến nay có bao giờ giáo sư đề cập và giải quyết rốt ráo một vấn đề gì thuộc về lý luận giúp cho đất nước phát triển.
Cũng không thể đòi hỏi nhiều hơn ở ông Phương Lựu được. Do đó chúng tôi chỉ thẳng thắn thưa với ông Phương Lựu cũng như tất cả những vị đang nghiên cứu về nho giáo ở nước ta rằng : xin các vị hãy thận trọng !
Dân ta không lạ gì Khổng giáo và trong vài ngàn năm qua, Dân ta đã khôn ngoan thu hút những mặt tốt đẹp tinh hoa của Khổng giáo. Vì thế mà chúng ta có bao nhiêu nho sĩ khí tiết, bao nhiêu nhân tài lỗi lạc nhờ sự tiếp nhận tinh hoa Khổng giáo. Thử hỏi các ông : chúng ta còn bỏ sót không tiếp nhận phần tinh hoa nào ?
Còn những phần hủ bại chưa đào thải hết, hãy còn bị dị ứng trong cơ thể tư duy Việt Nam liệu có nên giữ lại hoặc khuếch trương nữa không ? Người ta xây dựng CNXH mang màu sắc Trung Quốc thì người ta khai thác Khổng giáo và những thứ quá khứ cần thiết cho họ. Đó là công việc của người ta. Ngài Lý Quang Diệu và tất cả những người lãnh đạo khôn ngoan nào khai thác được Khổng giáo, lợi dụng được quá khứ để phục vụ cho giai cấp người ta. Đó cũng là công việc của người ta, là cái "thuật" của người ta. Mình háo hức bắt chước thế nào được. Mình cầu viện quá khứ một cách vô nguyên tắc thế nào được ? Dứt khoát chúng ta không thể chủ trương đóng cửa về mặt tư tưởng, cũng như về mọi lĩnh vực khác. Phải lo mà học lấy cái hay của thiên hạ. Phải nghiêm túc học tập Đức thánh Khổng và mọi đức thánh của thiên hạ, nhưng thử hỏi những bài học của Đức thánh Trần và Đức thánh Hồ và các Đức thánh khác của Việt Nam chúng ta đã học đầy đủ và kỹ lưỡng chưa ? Còn bao nhiêu bài học trị nước và đối nhân xử thế của các vua anh minh thời Lý, thời Trần, thời Lê .... chúng ta đã học nghiêm chỉnh chưa ? Đã bảo nhau vận dụng sáng tạo vào đời sống hiện nay chưa ?
Chúng ta chớ quên rằng mình đang sống trong thời kỳ toàn cầu hóa, đâu người ta cũng có chiến lược toàn cầu cả, không tinh tường thì nguy. Đừng thấy người ta bắt tay, vỗ tay đã vội mừng.
Mình đứng trấn cả một vùng Đông Nam Á, các đại quốc thời nào cũng muốn tràn xuống, muốn mở rộng ảnh hưởng muốn "bình thiên hạ" (ngài Lý Quang Diệu mà không nghiên cứu kỹ cái nghĩa này thì nguy !). Việt Nam mình lúc nào cũng như cái gai trong mắt thiên hạ, như khối đá tảng cản bước tiến "bình thiên hạ" của người ta.
Trung Quốc sắp vào WTO rồi đấy ! Mà đến năm 2003 thì thấy nhau ngay chứ đâu xa. Thôi chuyện AFTA và phải đối phó ra sao sẽ bàn sau.
Trở lại chuyện quyền hạn của Ban tổ chức các cấp bổ nhiệm đủ thứ người, đủ thứ cán bộ mà rồi cũng chẳng chịu trách nhiệm gì cả. Ở nước ta bây giờ lại phổ biến một lối nói : "chúng ta có khuyết điểm buông lỏng lãnh đạo", "chúng ta" đây là gồm những ai ? Buông lỏng là thế nào ? Dân tin anh, Đảng tin anh giao cho anh quyền quản lý đất nước, anh lại "buông lỏng" để cho chúng nó đục khoét ăn cắp đầu ăn cắp đuôi. Để mất hàng trăm, hàng ngàn tỷ lại kêu là "khuyết điểm". Làm cho dân đói khổ, mất cả lòng tin vào Đảng, làm lung lay cả Chế độ lại gọi là khuyết điểm. Theo luật Gia Long thì phải khép vào tội đại nghịch. Chúng tôi kiến nghị Quốc hội ta nên bổ sung vào luật hình sự rồi giải thích cho rõ "buông lỏng" có nghĩa là vô trách nhiệm, là thông đồng với giặc nội xâm. Kẻ giật hụi ở quận 5 cướp trắng 1 tỷ đồng của các tư nhân thì bị kết án tử hình. Vậy bọn làm mất của nhà nước hàng trăm, hàng ngàn tỷ thì phải xử tử chúng bao nhiêu lần cho đạt lẽ công bằng ?
Chúng tôi cũng chẳng chủ trương nên bắn nhiều làm gì. Tiền với người dẫu mất thì cũng mất cả rồi. Vấn đề là đến bao giờ chúng ta bàn với nhau một cách thẳng thắn, nghiêm chỉnh để tìm ra lối thoát khỏi những bế tắc này.
Từ trước, chúng ta vẫn phê phán những người theo chủ nghĩa cải lương, thế mà giờ đây chúng ta lại làm nhiều việc rất nửa vời, rất cải lương. Cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước là một chủ trương lớn phù hợp với thực tế, đúng qui luật. Thế mà nhiều người cứ dật dờ không chịu thực hiện. Họ kéo dài ngày nào thì nhà nước tức là Bộ Tài chính bù lỗ ngày ấy. Hãy hỏi các ông giám đốc đang tạ đủ các thứ lý do để trì hoãn, các ông có khả năng bù lỗ không ? Sao lại vì sợ mất chức, mất đặc quyền đặc lợi rồi cản trở ? và cũng xin hỏi luôn hai ông bộ trưởng Bộ Công nghiệp và Bộ Tài chính : lương giám đốc của họ và lương của cả hai ông có đủ để bù lỗ không ? Dư luận cho thấy rằng : tình hình bù lỗ hàng trăm tỉ, hàng ngàn tỉ cho các xí nghiệp làm ăn thua lỗ đã kéo dài hàng mấy chục năm rồi, không được phép tiếp tục kéo dài hơn nữa. Ai tìm cách kéo dài và ai cho phép họ kéo dài, phải chịu trách nhiệm trước pháp luật.
Lại nói về vấn đề pháp luật. Chúng ta vất vả bao năm mới xây dựng được một nền pháp chế mới, được gọi tên là pháp chế XHCN. Còn nhớ có thời kỳ cứ nói đến nhà nước pháp quyền là nhao nhao phản đối rồi chụp ngay cho người ta cái mũ "luận điệu tư sản", "quan điểm tư sản". Sau khi chúng ta xây dựng xong các bộ luật, thì vẫn những kẻ ấy, lại quay ra cản trở việc thực thi các đạo luật. Tất nhiên, giờ đây họ không dám to mồm nói ngược mà ngấm ngầm chống phá rất tinh vi xảo quyệt. Bằng rất nhiều thủ đoạn khác nhau, họ tìm cách vô hiệu hóa các bộ luật của Nhà nước chúng ta.
Có lẽ một trong những thủ đoạn lớn nhất, công khai nhất và xảo quyệt nhất là thường xuyên mang tình nghĩa đối lập với pháp lý.
- Pháp lý, nguyên tắc là như thế nhưng người Việt Nam mình bao giờ chẳng coi trọng tình cảm, tình nghĩa. Không nên cứng nhắc, máy móc để mang tiếng là cạn tàu ráo máng.
- Các ông cứ làm như ta đang sống ở phương Tây không bằng. Lúc nào cũng giở lý. Người Việt Nam mình bao giờ cũng đặt tình lên trên hết.
Mới nghe thì thấy đúng quá.
Nhưng cũng cần phải ngẫm nghĩ suy xét cho kỹ tại sao người Việt Nam ta lại nặng tình nặng nghĩa.
Cùng là dân quần cộc, dân áo ngắn với nhau, cùng là chân lấm tay bùn, chân dầu tay mỡ, thân cò cũng như thân chim mà còn không biết thương nhau thì thử hỏi mượn ai đến thương hộ đây ? Cho nên bát canh cua cũng đưa qua bờ dậu, bát cơm hẩm cũng chia đôi sẻ ba, tối lửa tắt đèn có nhau, cùng cảnh nghèo hèn thì dựa vào nhau mà sống, chung lưng đấu cật với nhau mà sống, còn gì dư dả nữa đâu ngoài tình nghĩa.
Do đó phải thấy rằng tình nghĩa là sở hữu của những cộng đồng nghèo khổ. Những người nghèo hèn trong xã hội bao giờ cũng thương yêu nhau, an ủi nhau, cố kết với nhau mới có thể tồn tại được.
Tình nghĩa trở thành một phương tiện để tồn tại và cũng là phương tiện dùng để đấu tranh.
Khi chưa đủ điều kiện cầm vũ khí nổi dậy thì còn gì ngoài lời kêu xin : xin thầy lý thương cho; xin quan lớn thương cho; xin ông lớn đèn giời soi xét, giơ cao đánh sẽ; chúng con là phận dân đen con đỏ, xin bệ hạ rủ lòng thương, ...
Nghĩa là bằng mọi cách "mẹ chưa đánh roi nào đã khóc" để tìm một sự độ lượng khó thấy ở giai cấp thống trị, nhưng vẫn có hy vọng hão huyền từ ngàn đời : may ra được ngài thương !
Cái dấu vết xin xỏ hèn hạ đáng thương đó hiện còn đầy rẫy trên các đơn từ gửi đến các "đầy tớ" của mình trong nhà nước dân chủ của ta mà chúng tôi đã nhiều phen đề nghị bằng văn bản, nhưng Quốc hội và Chính phủ ta cũng chưa thấy ra lệnh bãi bỏ. Tuy vậy, chúng tôi cũng chưa bao giờ hết hy vọng rằng một ngày đẹp trời nào đó chữ "xin" sẽ biến hết trên mọi đơn từ giao dịch với cơ quan nhà nước để khỏi gây cho các vị "đầy tớ" trung thành của nhân dân sự ngộ nhận.
Có một điều cũng cần phải giải thích. Vua quan nói chung là tham lam tàn bạo, nhưng trong lịch sử nước nhà lại có nhiều ông vua, ông quan tử tế thương dân đến nỗi cho đến nay vẫn là gương sáng cho những người cầm quyền của chúng ta.
Cũng là do hoàn cảnh Việt Nam mình thôi. Một đất nước thường xuyên phải cảnh giác với ngoại bang phương Bắc cũng như phương Nam, các ông vua Lý, vua Trần, vua Lê khôn ngoan nào mà không cần phải thương dân, sát cánh với dân. Bởi một lẽ rất giản đơn nếu các ngươi không hết lòng chống giặc thì thái ấp của ta cũng như ngai vàng của dòng họ ta đâu có còn mà mồ mả tổ tiên các ngươi cũng mất. Giá như các vua Nguyễn cũng biết nối tiếp truyền thống thân dân của các ông vua khôn ngoan thời Đại Việt trước thì đâu đất nước Đại Nam nên nỗi ! Khi vua đã xa dân, không thương dân, không tin dân thì làm sao có gan dám phát động chiến tranh vệ quốc. Rồi khi biết mình đã sai lầm thì đành đầu hàng nhượng đất. Đồng thời lại vẫn muốn tỏ ra mình là người sáng suốt, thức thời, có đạo đức nên mới có chuyện làm đủ thứ thơ văn, nói đủ lời ngụy biện, viết thay cả giặc ngoại xâm lời dụ hàng nghĩa quân đang nguyện một lòng sống mái với kẻ thù (người xưa có phần đáng trách nhưng mấy ông giáo sư tiến sĩ bây giờ lại còn cứ ra sức bào chữa cho sự sai lầm và nói liều lĩnh rằng "mất nước là tất yếu" mới thực đáng thương. (Xem thư dụ hàng của Phan Thanh Giản và bài Phê phán hội thảo Gia Long của Trần Khuê).
Và có những người còn vẫn cố bào chữa cho các vua Nguyễn và triều đình Huế rằng họ vẫn là những người yêu nước "yêu nước theo kiểu của họ". Cũng là một kiểu ngụy biện thôi. Khi một triều đại đã thoái hóa, chế độ phong kiến đã thoái hóa thì các nhà vua chỉ còn biết yêu cái ngai vàng và quyền lợi của dòng họ mình thôi, làm gì có chuyện yêu nước với thương dân ở đây).
Luôn luôn chống lại nhân dân, nhưng các vua chúa phong kiến khôn ngoan sáng suốt vẫn phải nêu bật lên cái chiêu bài "pháp bất vị thân". Đó là một chân lý mà ngay giai cấp tư sản sau khi lật đổ chế độ phong kiến cũng không dám bỏ nguyên tắc này. Vì thế mới có chuyện bộ trưởng, thủ tướng, tổng thống mà có tội vẫn bị khởi tố như thường. Ta mang tiếng là chủ nghĩa xã hội ưu việt mà có thời kỳ một ông giám đốc xí nghiệp hay một ông bí thư Đảng ủy vi phạm pháp luật mà vẫn không dám động tới họ. Nếu có đồng chí kiểm sát nào có công tâm, cương trực dám ký lệnh bắt, dám khởi tố ra tòa thì chánh án lẫn quan tòa ngồi xử mà lòng dạ không yên, ngó trước ngó sau, nghiêng phải nghiêng trái xem ý cấp ủy Đảng thế nào. Thế là họ có căn cứ vào các bộ luật để xét xử đâu, họ chỉ căn cứ vào mấy đ/c cấp ủy. Gặp đ/c cấp ủy nào thẳng thắn cương trực, hiểu biết pháp luật thì họ bảo thẳng : tòa án cứ theo luật pháp mà xử. Còn gặp những đ/c cấp ủy mà không hiểu luật pháp lại tâm niệm rằng người Việt Nam ta trọng tình nghĩa.Thế là vì một vài lý do tế nhị nào đó, dưới danh nghĩa lãnh đạo Đảng phải chỉ đạo sát sao, toàn diện, thế là cứ can thiệp (thư tay hoặc điện thoại) suốt từ đầu vụ án cho đến cuối vụ án khiến cho các tòa án khốn khổ, hoãn đi hoãn lại, thỉnh thị lên thỉnh thị xuống, lúng túng như gà mắc tóc.
Thực ra, chuyện "tình nghĩa" cũng là một thứ chiêu bài thôi để dễ bề bao che cho người thân, cho phe cánh hoặc cho bọn đút lót. Vụ 51 tấn bột ngọt của ông Nguyễn Thiện Luân mà chúng tôi phải nhắc đi nhắc lại nhiều lần là vì, đó là nỗi nhức nhối của nhân dân TPHCM chứ nó đã thấm gì so với hàng trăm hàng ngàn vụ khác. Vấn đề đáng nói là : 51 tấn bột ngọt gian lận làm tù oan bao nhiêu người lại được trả lời dư luận bằng sự khen thưởng, thăng chức và lấy chuyện "tình nghĩa" mà lờ đi hơn chục năm trời. Nhưng năm cháu thiếu niên dại dột ăn trộm 5 con vịt thì lập tức được mở phiên tòa xét xử ngay và kết án thẳng cánh 5 năm tù. Chuyện vịt thì không thấy nói đến "tình nghĩa" mà chỉ thấy nói đến "nghiêm trị" để giáo dục thế hệ trẻ. Ông chủ hụi "Vườn Tre"chỉ giật hụi lường gạt 1 tỷ của nhân dân thì xử tử, ông Kiểm là Tổng giám đốc Dệt Nam Định làm thất thoát 800 tỷ (trong đó có 200 tỷ đi đút lót cấp trên) thì xử 20 năm tù. Thi hành luật pháp một cách coi thường nhân dân và thách thức dư luận như thế thì làm thế nào để bàn dân thiên hạ có thể "khẩu phục tâm phục" được.
Đáng lẽ mỗi quan tòa của mình phải là một Bao Công mới xứng đáng là quan tòa XHCN. Thế mà cả Trung Quốc lẫn Việt Nam ta, ngàn năm qua vẫn cứ chỉ một Bao Công. Cứ làm như lý tưởng công bằng cao vời vợi, xa vời vợi, hầu như không bao giờ với tới.
Đã mấy chục năm nay, giới lý luận cũng như giới nghiên cứu luật pháp của ta, phần đông vẫn gièm pha chê trách không chấp nhận cái gọi là "tam quyền phân lập" của pháp chế tư sản. Vậy thì ta phải thảo luận với nhau như thế nào để tạo ra được một thể chế, nếu không tốt đẹp hơn thì ít nhất cũng phải tương đương chứ sao lại chịu thua kém được. Dù sao cũng phải công bằng mà nhận định rằng cái thiết chế "tam quyền phân lập" được tạo dựng trên cơ sở bản "khế ước xã hội" (Contrat social của Jean Jacque Rousseau) là một thành tựu, một bước phát triển để đảm bảo quyền sống của con người trong xã hội. Ai dám bảo nó không tốt hơn thiết chế phong kiến ? Tất nhiên, nhiều khi giai cấp tư sản cũng vờ vịt hình thức; nhưng chẳng lẽ ta kế thừa những cái tốt đẹp của nhân loại rồi ta chơi thật, lại không tốt hay sao ?
Nếu giới luật pháp cũng như giới quản lý của ta vẫn kiên quyết cho rằng tình hình luật pháp của ta cứ như hiện nay là ổn định được tình hình xã hội, là tốt đẹp và không cần thay đổi thì xin cứ thế mà tiếp tục, chẳng cần bàn bạc gì cả. Những ai quan niệm và chủ trương như thế thì xin nêu rõ tên tuổi chức vụ để cho con cháu ta, lịch sử ta nhận diện cho chính xác. Và tất nhiên, họ phải chịu trách nhiệm chứ không đổ chung chung cho Dân, cho Đảng, cho tập thể và cho khách quan được.
Theo ý chúng tôi thì tình hình hiện nay như thế là rất không tốt. Nếu không sửa thì hậu quả là rất không ổn định cả về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội.
Chúng ta có bộ phận công an điều tra để bắt bằng được mọi loại kẻ thù có hành vi xâm hại đến quyền lợi của nhân dân và cách ly chúng ra khỏi xã hội. Thế mà có những đ/c công an của chúng ta làm ăn tắc trách, điều tra lớt phớt, bắt giam cả người vô tội rồi lại đánh đập, nhục hình, ép cung, mớm cung thế nào đến nỗi người ta không phạm tội giết người mà phải nhận, ký vào bản cung.
Chúng ta cũng có những đ/c kiểm sát viên và những đ/c thẩm phán mà chúng ta hết sức tin cậy. Nếu chưa phải toàn vẹn về mặt năng lực thì cũng là về mặt phẩm chất. Thế mà chẳng đ/c nào chịu nghiên cứu kỹ hồ sơ để phát hiện ra những tình tiết chứng cứ đáng ngờ, vô lý rồi chất vấn lại bộ phận công an điều tra. Với những người có lương tâm và trách nhiệm đầy đủ còn phải bố trí thời gian gặp người phạm tội để hỏi rõ ngọn ngành và bằng độ nhạy cảm của tâm linh mà tìm ra sự thật rồi giao Tòa án Nhân dân để tỏa ánh sáng công lý cho đời. Cả ba phía gồm công an, kiểm sát, tòa án họp nhau lại nhất trí đồng thanh kết tội : tù chung thân.
Thế là, theo luật sư Lương Vĩnh Kim, đúng vào "một ngày đẹp trời", người bị giết lại lù lù trở về nhà.
Thế là các đ/c công an, kiểm sát, tòa án lại họp lại nhất trí với nhau và đồng thanh tuyên bố : phóng thích. (Lương Vĩnh Kim : Một ngày đẹp trời - Báo Tuổi Trẻ số ......./1998).
Vấn đề gay cấn nhất của chúng ta hiện nay là : mình với ta tuy ba mà một, ta với mình tuy một nhưng vẫn phải là ba. Tuy có một sự lãnh đạo chung nhưng phải nghĩ cách tạo ra một cơ chế vận hành như thế nào để ba anh lập pháp, hành pháp và tư pháp trong khi cùng chung mục đích phục vụ nhân dân vẫn giữ được vị thế độc lập tương đối với nhau, giám sát và kiểm soát lẫn nhau trên cơ sở hiến pháp và luật pháp. Có như thế mới hy vọng thực thi được những chức năng chủ yếu của nhà nước chuyên chính dân chủ nhân dân.
Tất nhiên, cũng không thể mơ hồ rồi lại rơi vào tình trạng dập khuôn. Đừng thấy ông Clintơn ra lệnh đánh hết Irắc lại đến Nam Tư, tiếp tục cấm vận Cuba rồi lại lăm le cấm vận Pakistan, khích hết sắc tộc này đến tôn giáo khác bắn giết lẫn nhau mà tưởng nhầm rằng đó hoàn toàn là ý chí và quyền hành của tổng thống.
Không, các vị tập đoàn lái súng ở hậu trường chính trị chỉ đạo cả đấy thôi. Cũng như vụ Monicagate giải quyết theo hướng nào đâu có hoàn toàn phụ thuộc vào tập đoàn báo chí, hay hạ nghị viện, hay thượng nghị viện, hay tòa án tối cao.
Không, tất cả đều nhận một lệnh từ các vị tài phiệt ở đường phố Wall đấy thôi !
Chúng tôi cũng chân thành nhắn với những ai có dịp xuất ngoại Đông Tây đừng ngỡ rằng nước Mỹ là dân chủ nhất đời, thế giới tư bản là thế giới tự do nhất trên đời. Phải tinh tường, khảo sát cho kỹ và thường xuyên cập nhật. Nhẹ dạ cả tin trong lĩnh vực này là cực kỳ nguy hiểm. Vả lại, lâu lâu cũng nên giở Truyện và ký của Nguyễn Ái Quốc và Bản án chế độ thực dân của Nguyễn Ái Quốc mà học lại để cho kiến thức giữ được cấu trúc hệ thống.
Trước khi đi vào bàn một số vấn đề thực sự nghiêm trọng của đất nước, chúng tôi thiết nghĩ cần nhắc lại một lời chỉ dạy mang tính chất chiến lược của Cụ Hồ :
"Nước được độc lập, nhưng dân không có tự do hạnh phúc thì độc lập ấy cũng chẳng có nghĩa lý gì".
Nhắc lại như thế không phải là chúng tôi nhất nhất cái gì cũng "Cụ Hồ". Khi Cụ Hồ sai cũng được quyền phê bình Cụ Hồ, nhưng khi Cụ Hồ nói ra những điều chân lý thì không vâng theo sao được. Cho nên trong bài "Chỉnh đốn để tồn tại và phát triển", chúng tôi phê bình đ/c cựu Tổng bí thư Đỗ Mười và cả hai Đại hội Đảng lần thứ VII và lần thứ VIII là căn cứ vào những chân lý đó. Cá nhân đ/c Đỗ Mười nhầm còn có thể hiểu được nhưng sao cả tập thể đại hội Đảng lại có thể nhầm theo ? Độc lập đã hoàn thành từ sau ngày đại thắng 30-4-75 lại nói rằng phải nhắm vào mục tiêu phấn đấu cho độc lập rồi lờ đi mục tiêu dân chủ, tự do. Mà đã không có tự do thì lấy đâu ra hạnh phúc ! Cụ thể là được tự do cầy cấy thì đang đói kinh niên lập tức no ấm ngay, thậm chí còn dự gạo bán để làm giàu. Mới ngày nào đề ra chỉ tiêu 21 triệu tấn mà trầy trật không giải quyết nổi, thế mà "tự do" thì 33 triệu tấn giải quyết dễ như chơi. (Còn chuyện khốn khổ vì lúa chất ngập nhà ngập sân mà vẫn khổ thì sẽ bàn sau nhưng có thể nói ngay rằng vẫn là vấn đề "tự do" thôi. Sẽ có nhiều người cãi : so với trước đây thì ta cũng no ấm hạnh phúc lắm rồi, cái gì cũng phải giải quyết từ từ. Vâng, xin từ từ.
Chẳng lẽ dân Thái Bình và một số tỉnh đã có hạnh phúc rồi mà vẫn còn nổi dậy chống đối thì quả là điên thật.
Nhưng dân Thái Bình cũng như dân Việt Nam từ thượng cổ đến nay có bao giờ "điên" ?
Cũng nên có một cuộc trưng cầu dân ý xem có nên hưởng tự do hạnh phúc từ từ không, nếu cần từ từ thì từ từ ở mức độ nào và giới hạn cụ thể ra sao ?
Cứ theo chỗ khảo sát của chúng tôi và những người hiểu biết thì từ từ kiểu ta đang đi bây giờ để đến mục tiêu tự do hạnh phúc là Dân ta không chấp nhận và thời đại cũng không chấp nhận.
Thực tế cũng cho thấy một mâu thuẫn : trong khi khuyên Dân cứ an tâm, cứ từ từ thì họ lại hết sức gấp gáp "hy sinh đời bố, củng cố đời con". Họ cũng thấy cần phải làm giàu nhưng họ lại giữ độc quyền làm giàu. Họ cũng thấy thế hệ thanh thiếu niên là quan trọng nhưng nói phát triển thì lại phải ưu tiên cho "con cháu các cụ". Dân cứ yên tâm xếp hàng chờ đấy !
Cho nên chỉnh đốn về mặt tổ chức, nhân sự là rất quan trọng. Nhưng quan trọng trước hết là phải chỉnh đốn về mặt nhận thức và lý luận. Có như thế mới hy vọng chấm dứt được tình trạng đã tồn tại quá lâu đời trên đất nước ta : quan phủ đi quan tri nhậm. Chấm dứt được lối nói châm biếm, mỉa mai của Dân đã thịnh hành từ hồi chưa khoán :
- Dù sao thì ông ấy cũng ăn no rồi, xây nhà xây sân đủ rồi. Chớ có thay ông chủ nhiệm khác mà thêm rách việc !
Hồi ấy, nhiều người không hiểu lại tưởng Dân ta "sờ đầu gối nói chân thật", e ngại, cam chịu không muốn thay đổi gì. Có biết đâu đó là một lối kêu thật to, thật vang xa "Ới Trung ương Đảng ơi ! Chúng nó đang tham nhũng quá lắm !".
Cũng như gần đây, Dân lại bàn tán : chúng ta nên làm đơn kiến nghị với Trung ương không nên khai trừ các Đảng viên hư hỏng thoái hóa biến chất. Vì cho họ về làm "quần chúng" là Trung ương coi thường Dân. Cứ giữ lại trong Đảng mà giáo dục nhau. Nếu số hư hỏng đông quá thì Trung ương phải kiếm một cái đảo, tổ chức cho họ sống riêng chứ không thể cho họ sống lẫn lộn với nhân dân lương thiện được.
Những người cầm quyền và cả những nhà nghiên cứu văn hóa dân gian nên nghiền ngẫm về cái kiểu : "nói đây nhưng chết cây Hà Nội" của bà con lao động áo ngắn.
Đã đến lúc cần phải nhất trí với nhau rằng : Đổi mới ở ta thực chất là một cuộc cách mạng. Cuộc cách mạng này nên làm từ trên xuống chứ không nên để từ dưới làm ngược lên. Trên phải chủ động để tránh mọi sự hỗn loạn, đổ vỡ. Dứt khoát không được dùng những biện pháp, cải lương cải cách nửa vời. Tuyệt đối không dùng những thủ đoạn chắp vá lặt vặt.
Sở dĩ chúng tôi đề nghị sửa tận gốc chính là với ý nghĩa như thế. Gốc vững thì nước yên, chế độ vững vàng. Có tự do thì có hạnh phúc. Đã no ấm hạnh phúc mà xã hội lại không ổn định thì ai thấy ở đâu có tình hình như thế xin mách giùm !
Còn không có tự do hạnh phúc mà xã hội vẫn ổn định thì mong các sử gia "trong biên chế" cũng vui lòng chỉ giúp : Có thời kỳ lịch sử nào ở nước ta cũng như ở thế giới có tình hình như thế không ?
Đại hội VI yêu cầu toàn Đảng, toàn Dân "nhìn thẳng vào sự thật, nói đúng sự thật, nói hết sự thật" đánh dấu một bước tiến quan trọng về mặt nhận thức.
Nhưng chúng tôi thấy cần bổ sung :
- Còn phải chân thành, dũng cảm, thẳng thắn bàn bạc về sự thật cho ra lý ra lẽ và tìm mọi biện pháp thích hợp giải quyết đạt hiệu quả.
- Ai đã chót tham gia giới lý luận mà thấy mình thiếu dũng cảm, thẳng thắn hoặc thiếu trình độ hiểu biết thì hãy vui lòng tạm rút, dành thời gian trau dồi kiến văn, tôi luyện bản lĩnh rồi hãy tham gia. Không được dựa vào quyền được hưởng tự do ngôn luận mà nói nhảm nhí lung tung được. Tự do phải có giới hạn chứ không thể tự do "quá trớn". Các cụ xưa đã dạy : biết thì hãy thưa thốt, và phải chịu trách nhiệm rõ ràng trước pháp luật.
Thảo luận về những vấn đề lớn lao và quan trọng như : nhận thức và tổ chức lại Đảng, Quốc hội, Chính phủ, Tòa án các cấp, .... đâu có thể tùy tiện, khinh suất mà được. Phải nghe nhìn cho thấu, suy ngẫm cho suốt, tâm phải thành, trí phải sáng mới có thể bàn chuyện quốc gia đại sự được.
Trước khi bàn cụ thể từng vấn đề và kiến nghị những giải pháp để thực hiện trong thế kỷ XXI, chúng tôi thấy cũng cần phải chỉnh đốn lại một nhận thức đã quá phổ biến và không biết còn đeo đẳng chúng ta tới năm tháng nào trong thiên niên kỷ mới.
Đã sống hơn một nửa thế kỷ trong chế độ dân chủ với một nhà nước dân chủ, hằng ngày hằng giờ hít thở không khí dân chủ, thế mà không hiểu sao, không ai bảo ai lại cùng lưu giữ những thứ cấm kỵ hết sức cổ lỗ. Rồi lại mang đủ các thứ cổ lỗ ấy ra để hù dọa nhau và hầu như ai cũng cảm thấy mình khôn ngoan thận trọng chín chắn khi biết tôn trọng hoặc lánh xa những điều "cấm kỵ".
Chẳng lẽ họ lại mau quên quá khứ đến thế. Xưa thì vua chúa phong kiến, mới gần đây là chủ nghĩa thực dân cũ, lại gần hơn nữa là chủ nghĩa thực dân mới. Ừ thì chuyện tru di tam tộc tạm cho là đã xa lơ xa lắc, nhưng còn chuyện Hỏa Lò Hà Nội, Khám Lớn Sài Gòn, Côn Đảo và nhất là chuyện ông tổng thống tay sai Ngô Đình Diệm kéo lê máy chém khắp một nửa đất nước, tất cả cũng chỉ chung mục đích khiến cho người ta sợ, ngậm mồm ngậm miệng lại để cho chúng dễ bề đè đầu cưỡi cổ. Nhưng dân Việt ta đâu có ngán.
Phải công bằng mà xác nhận rằng về những trò dọa dẫm, bắt bớ, tù đày, tra tấn, thủ tiêu ngầm, nhục hình, bắn giết,... thì các vị phong kiến và thực dân cũ, mới đều đáng mặt bậc thầy cả.
Ta cần gì học tập chúng. Và xuất sắc về những mặt ấy để làm gì ? Nó trái hẳn với bản chất nhân văn, nhân đạo của nòi giống ta. Mà KGB Liên Xô, đại cách mạng văn hóa Trung Quốc cũng đã chơi những trò này rồi. Để đi đến đâu ? Còn đ/c nào của ta do nhận thức sai lầm lại đi học đòi những điều xuẩn ngốc đó thì ta liệu lấy lời hơn lẽ thiệt bảo ban, dạy dỗ, giác ngộ cho họ. Hà cớ gì phải sợ ? Ắn không dám ăn, nói không dám nói. Lúc nào cũng dúm dó, nơm nớp, mất cả tư thế của người chủ đất nước.
Vào sinh ra tử, mấy chục năm liền quyềt sống mái với kẻ thù dân tộc và giai cấp thì không sợ. Cất lên nói dăm ba câu phải trái thì lại sợ. Thế nghĩa là thế nào ? Chẳng lẽ đi theo cách mạng, đi làm cách mạng bằng ấy năm trời để rồi lại tự nguyện cam tâm ôm cái tâm lý tôi đòi để trở thành những nô lệ mới hay sao ?
Thật đáng cười và cũng đáng thương cho những ai cầm bút nghiên cứu khoa học, cầm bút sáng tác văn học nghệ thuật lại ôm ấp cái tâm lý khốn khổ như thế. Dân tộc và cách mạng hẳn phải xấu hổ khi đã sản sinh ra một bộ phận trí thức ươn hèn như thế. Chính những người đó lại mỉa mai rằng chúng tôi lên mặt dạy đời.
Xin thưa rằng chúng tôi quả thật không hề muốn học tập những ai không đáng học tập và cũng không dám lên mặt dạy những ai thấy rằng họ chẳng cần phải học tập gì nữa.
Nghĩ sao nói vậy. Nghĩ sao viết vậy. Ai thấy rằng những điều trò chuyện dài dòng này có ít nhiều ý nghĩa, có thể chia sẻ được thì đúng là tri âm của chúng tôi. Thủy chung, chúng tôi vẫn thấy rằng đức thánh Khổng dạy là đúng : Học không biết chán, dạy không biết mỏi; lời Lênin dạy là đúng : Học, học nữa, học mãi. Và Hồ Chí Minh của chúng ta chỉ riêng về chuyện học cũng đáng là tấm gương sáng cho muôn đời.
Khi chúng tôi nói "Đảng của chúng ta", chúng tôi tự ý thức được rằng lòng mình không hẹp, trí mình không cạn, mà sự thật lịch sử là Đảng này đâu phải của riêng ai.
Ôi ! Chẳng lẽ tất cả những nô lệ Việt Nam và nô lệ trên đời này đã chọn lựa Đảng Cộng sản đều là nhầm lẫn cả chăng ?
Kẻ nào gây ra sự nhầm lẫn, kẻ đó phải chịu trách nhiệm trước Lịch sử !
Khi Mác từ bỏ mọi học hàm học vị của mình, từ bỏ cả một đời sống yên ổn, hứa hẹn nhiều vinh hoa phú quý để chọn đường này; khi F. Engels từ biệt cha mình và giai cấp của mình, vĩnh biệt cả quyền thừa kế thiêng liêng của mình; khi Hồ Chí Minh thuở đó còn mang tên Nguyễn Tất Thành, nuốt nước mắt bỏ lại cha già nơi đất khách, rời quê hương và Tổ quốc yêu quí dấn thân vào con đường đầy chông gai sóng gió, .... và tất cả những ai mang, bản chất người, có gan từ bỏ cả những gì là thân thiết quí giá của đời mình (kể cả sinh mạng) để chọn con đường này, đâu họ có nhầm !
Có thể có khuyết điểm này nhược điểm khác nhưng chúng tôi vẫn có quyền tự khẳng định rằng : chúng tôi không nhầm.
Chúng tôi chân thành chia buồn với những đồng chí nào đã suốt một đời theo cộng sản mà như theo một thứ đạo giáo, giờ đây lại thấy lòng mình "khô đạo", vỡ mộng, sụp đổ lòng tin .... xin các vị vui lòng bớt đi cho những lời chửi đổng hay phàn nàn ca cẩm. Hãy bình tâm "xét lại" xem mình đã từng mộng mị ra sao. Và các vị không được phép quên rằng Nhân dân và Tổ quốc vẫn ghi nhận đầy đủ công lao của quí vị. Phải tin rằng những gì tốt đẹp trên đời được tạo dựng bằng mồ hôi và xương máu không bao giờ có thể trở thành vô ích và bị lãng quên.
Cũng như các vị, chúng tôi thấy chúng ta có trách nhiệm đối với đương thời và các thế hệ đến sau. Chúng ta đừng hướng con cháu chúng ta vào những niềm tin vô căn cứ hoặc chỉ mang lại lợi ích nhất thời. Chức quyền, bạc tiền thì quí thật, không được coi thường, nhưng đó chỉ là phương tiện không nên coi là cứu cánh (mục đích cuối cùng). Sắp bước sang thế kỷ mới mà vẫn giữ quan niệm "bất cần danh lợi" là bảo thủ, thiếu hiểu biết hoặc đạo đức giả.
Danh hư thì không màng, nhưng danh thực thì cần lắm chứ !
Đã mang tiếng ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông
(Nguyễn Công Trứ)
Lợi bất chính, thì không thiết nhưng lợi chính đáng, sao có thể bỏ qua ?
Cho nên khi Đức Mạnh Tử hỏi có ý trách Lương Huệ vương : nhà vua cứ nói đến lợi làm gì (hà tất viết lợi ?), chỉ nên bàn chuyện nhân nghĩa (nhân nghĩa nhi dĩ hĩ) (Mạnh Tử - Lương Huệ vương). Những lời đẹp đẽ kiểu ấy xưa quá rồi, hỡi các nhà Tân khổng giáo ! - Không theo được đâu !
Phải tiếp tục bàn về nhân nghĩa nhưng không nên vì thế mà quên bàn về lợi ích.
Chẳng phải vì lợi ích, lợi quyền của tất cả những người bị áp bức bóc lột mà cần phải có mặt những người cộng sản trên đời này đó sao ?
Chúng tôi nói cộng sản thứ thiệt để phân biệt rành rọt với thứ cộng sản mỹ ký.
Cộng sản thứ thiệt là những người luôn luôn khuyến cáo nhắc nhở nhau :
"Nếu trên đời còn người nghèo khổ
Chớ thản nhiên sung sướng riêng mình"
(Trần Khuê)
Đâu có thể cứ vỗ ngực ta đây là "Việt minh", "Việt cộng" mà qua mắt được nhân dân.
Một người có thể nhầm nhất thời và nhầm cho đến hết đời. Nhân dân có thể nhầm nhất thời nhưng không bao giờ nhầm mãi mãi.
Điều đáng nói là không hiểu vì sao những "đảng viên thứ thiệt" lại quay ra sợ các "đảng viên mỹ ký". Thậm chí lại mang một tâm trạng bất lực đến nỗi đài chưa báo tin gió mùa đông bắc mà đã vội run lên với nhau cả rồi.
Thế là dựa vào tâm lý này các vị "mỹ ký" tha hồ múa may quay nồm, ăn vụng, ăn cắp, trộm cướp ngay giữa ban ngày. Tỉnh ra thì ôi thôi chúng khuân rỗng cả kho hàng, kho bạc, bán giời chán rồi đến bán đất. Xem chừng lại còn đeo công nợ quốc tế vào cổ con cháu không biết đến đời kiếp nào mới trả xong.
Thế mà khi bàn về việc sửa tận gốc tức là sửa đổi lại Đảng ta thì lại chúng khẩu đồng từ : ấy chết ! đó là việc của Trung ương chứ đâu phải chuyện "gái góa lo việc triều đình", không cẩn thận rồi lại làm mất ổn định chính trị thì gay".
Trung ương bối rối, yêu cầu mọi người nói thẳng nói thật để giúp đỡ, thì mình phải có trách nhiệm góp trí, góp một tay gỡ rối, sao lại có thể làm ngơ được. Không được quyền khinh thường, cũng không được phép sợ hãi. "Nhất ngôn hưng bang, nhất ngôn táng bang", phải nói để tỏ hết trách nhiệm của mình.
Đành rằng trong Đảng, số thoái hóa biến chất không còn là ít nữa nhưng người "cách mạng thứ thiệt" đâu có quyền bi quan. Phải nghĩ ra cách thanh lọc chứ. Và dứt khoát phải bỏ chuẩn cũ nào không thích hợp để định ra những chuẩn mới, cho phù hợp với qui luật và thời đại.
Đảng của thời kỳ xây dựng đất nước, lãnh đạo nhân dân làm kinh tế, làm khoa học kỹ thuật làm sao lại giống y nguyên Đảng thời bí mật, thời cướp chính quyền hay thời kháng chiến được ? Thử nghĩ xem một người được lòng quần chúng (cả tiến bộ lẫn lạc hậu) được lòng cả chi bộ (cả thứ thiệt lẫn mỹ ký) và đ/c Bí thư thì họ thuộc loại người nào mà ta vội "cộng sản hóa" họ ? Đưa những người trung bình và ba phải vào Đảng mà lại mong có một Đảng mạnh thì thật là chuyện hão huyền. Trước đây anh nào yêu nước dũng cảm, trung thành, lý lịch đảm bảo là rõ ngay. Vì anh dám chơi với mật thám, dám sẵn sàng vào Hỏa Lò hay đi Côn Đảo, dám mặt đối mặt với xe tăng tàu bò hoặc dám xẻ dọc Trường Sơn, coi khinh B52 thì mời anh đứng vào hàng ngũ. Cứ nhử kẹo các vị mỹ ký cũng không dám len lách vào đây.
Trong những hoàn cảnh đó cũng không thể khảo kiến thức Mác - Lênin hay lý luận cao xa này khác. Có chuyện thật nhưng cũng không nên lấy đó làm buồn cười. Có vị tỉnh ủy viên nào đó đã viết thư cảm ơn trường Đảng về một thu hoạch quan trọng rằng nhờ các đồng chí mà tôi hiểu được Mác - Lênin là hai đồng chí chứ không phải một. Không sao cả, miễn là cứ "quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh". Đáng lẽ qua mấy cuộc kháng chiến mà may mắn còn sống sót thì lo mà học hành cho chu đáo, chứ cứ đeo sắc cốt đi họp hết ngày này sang tháng khác, động học là ngủ gật thì trở thành "người thật việc thật" trong kho tàng tân tiếu lâm cũng chẳng có gì là lạ.
Chuyện cười ra nước mắt là có những người thuở ban đầu đều có bản lĩnh, thế mà tự gọt bản lĩnh mình thế nào thành tròn trặn đẩy chỗ nào cũng tới. Cấp ủy nào cũng trúng, thậm chí có người còn được đẩy tụt vào Trung ương, 5 năm "không nói không cười" nên được phong là nghiêm trang, thận trọng, chín chắn, đúng mực. Chính chúng tôi đã chứng kiến một đ/c bí thư tỉnh ủy kiêm ủy viên Trung ương Đảng được cả trên lẫn dưới công nhận là người hiền hành đức độ ít nói và biết lắng nghe. Các giám đốc sở các cấp huyện cấp xã, ai báo cáo gì, dù ngắn dù dài, đ/c ấy cũng ngồi yên lắng nghe không ngắt lời ai và cũng chẳng có ý kiến khen ngợi hay chê trách ai. Khi cần đăng đàn huấn thị thì bao giờ cũng phát bài "Ba cuộc cách mạng" mà cách mạng kỹ thuật là then chốt. Cho đến lúc đ/c này về hưu, người ta mới hiểu rằng sở dĩ đ/c ấy không giải quyết được những vấn đề nhằm đưa một tỉnh vốn có nhiều tiềm năng phát triển được, trong phạm vi quyền hạn của mình là vì một phần do thiếu trình độ và năng lực, một phần do ý thức trách nhiệm kém (không dám quyết định vì sợ trách nhiệm, còn tình hình của tỉnh không tốt đã có tập thể tỉnh ủy và cấp trên tức là Trung ương chịu trách nhiệm, một phần nữa do bản tính hiền lành, muốn giữ được đức độ cá nhân, tránh mọi sự va chạm mà trở thành nhu nhược).
Đúng như một nhà thơ đã viết :
"Những kẻ tốt đến yếu mềm chỉ là đồ giẻ rách"
(Việt Phương - Cửa mở)
Đất nước mình tồn tại được vì không phải là môi trường thích hợp cho những kẻ "tốt đến yếu mềm" sinh sôi nảy nở. Đất nước mình là đất nước của những người hiền, nông dân hiền, công nhân hiền, trí thức hiền, thần thánh lại càng hiền. Nhưng hy vọng mọi người chớ quên rằng đây là những "người hiền biết cầm gươm" (ý thơ Trần Đăng Khoa). "Hiền với bụt chứ không hiền với ma", dù đó là ma ngoại xâm hay ma "nội xâm" thì cũng phải tiêu trừ cho sạch bóng trên đất nước này. Kẻ nào khôn hồn thì hàng phục và sám hối để được hưởng lượng khoan hồng. Nói cho bọn "nội xâm" cường hào quan liêu tham nhũng rằng "hàng thì sống, chống thì chết". Chớ có mơ hồ, ỷ lại vào những ô, dù đang độ rách rồi rơi vào tình trạng "chết đuối vớ phải cọc", hối thì đã muộn.
Mong rằng mọi người cách mạng thứ thiệt xúm nhau lại họp bàn để kéo lại, giữ lại bằng được cái bản chất cách mạng của Đảng ta. Tất nhiên là phải nhận diện cho chính xác những kẻ cơ hội. Đó là cái bọn "đi với bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy" - chớ có nhìn vào áo mũ, cái ghế hay cái ô tô phải nhìn vào tim gan họ.
Đã đến lúc phải mạnh dạn chia tay với cái nếp khôn vặt, thụ động "gió chiều nào che chiều ấy". Lại phải như ngày nào, giữ thế chủ động xông thẳng vào gió mưa bão táp mà giải quyết vấn đề.
Mỗi người một ý hay góp vào, có nói nhầm nói sai cũng chẳng chết ngay đâu mà sợ. Lòng trong sáng, lo gì tập thể và nhân dân không hiểu mình. Đã yêu nhau thì bao nhiêu chỗ lệch cũng kê cho bằng được hết. Đảng mình có những chỗ sai, chỗ hỏng thì phải góp ý xây dựng để sửa chỗ sai chỗ hỏng chứ lại giữ thái độ "kính nhi viễn chi" sao được.
Như trên chúng tôi đã nói : vấn đề gay cấn nhất của Đảng mình hiện nay không phải là lo sửa chữa những sai sót cụ thể về mặt này mặt khác. Gay nhất là chỉnh đốn lại nhận thức và lý luận. Có thể nhận thức đúng và lý luận đúng, tình hình vẫn không phải lập tức tốt ngay lên. Nhưng chắc chắn tình hình cũng không thể tiếp tục xấu hơn. Câu này của Lênin vẫn là một chân lý : "Không có lý luận cách mạng thì không có phong trào cách mạng".
Khi đã có lý luận đúng thì hành động sẽ đúng và tình hình sẽ dần dần tốt lên và chắc chắn sẽ đi đến thắng lợi cuối cùng. Nếu có thất bại thì cũng là tạm thời thôi chứ không thể đột nhiên tan rã và sụp đổ như Liên Xô và Đông Ấu vừa qua


Trần Khuê - Nguyễn Thị Thanh Xuân

Theo chúng tôi, vấn đề cấp thiết nhất về lý luận hiện nay là phải hiểu cho chính xác và toàn diện về khái niệm "cầm quyền".<!--more-->
"Đảng ta là một Đảng cầm quyền" (Di chúc Hồ Chí Minh). Thêm một lần nữa, chúng tôi xin nhắc lại rằng : đó là một chân lý, một nhu cầu của Dân tộc và Lịch sử. Và đó cũng là một thực thể chính trị mà mọi lực lượng chống cộng cần nhớ rằng : động đến nó là động đến cả một dân tộc. Chớ có đùa với lửa, chớ có đùa với lịch sử. Nhưng ta với nhau thì lại phải phân biệt cho rõ : thế nào là cầm quyền ? Cầm quyền gì và không cầm quyền gì ? Ở đời có chuyện không cầm mà vẫn giữ được tất cả, ngược lại cầm hết, cái gì cũng cầm thì lại chẳng nắm giữ được gì.
Lại có chuyện cũng là cầm nhưng lại cầm lỏng cầm chặt ở cấp độ nào. Cái gì cũng cầm lỏng cả, thậm chí lại còn buông lỏng, liệu còn giữ được những gì ? Cái gì cũng cầm chặt, khư khư cầm tất cả thật chặt liệu đủ sức không ? Và giữ được bao lâu ?
Lâu nay, giới lý luận của ta hầu như không quan tâm đến vấn đề phân biệt cầm quyền lãnh đạo và cầm quyền quản lý, chỉ mải nhấn mạnh và chỉ lo mọi người quên mất rằng : Đảng phải độc quyền lãnh đạo, duy nhất lãnh đạo. Và trong khái niệm lãnh đạo này, người ta gói trong nội hàm của nó cả quyền quản lý. Họ lại luôn luôn lo sợ rằng hễ chia quyền là mất Đảng, mất CNXH. Do đó, mấy chục năm liền ở ta cũng như toàn phe XHCN, Đảng lãnh đạo tất cả mà cũng quản lý tất cả.
Hãy cứ công nhận tất cả như thế là đúng thì ngay trong cái đúng này cũng đã chứa đựng những sai lầm không thể khắc phục được.
Thử ngẫm xem trên đời này, từ cổ chí kim, từ đông sang tây, từ tế bào vi mô cho đến vũ trụ vĩ mô có cái gì một, chỉ một mà thôi và dứt khoát phải một mà tồn tại được. Tồn tại không xong chứ nói gì đến phát triển.
Độc quyền lãnh đạo, về mặt nào đó, phải coi là một nguyên tắc. Với cái nghĩa đơn giản nhất lãnh đạo là dẫn đường, vậy thử hỏi tất cả các vị, nhu cầu của chúng ta là phải cần mấy người dẫn đường ? Giả thiết có hai vị dẫn đường mà một vị thì chuyên môn hứa hão nhưng lại kiên quyết bảo mọi người rằng : cứ theo ta tất sẽ đến cõi no ấm, cõi vui vẻ; với một người : đi với ta đến cùng, chia sẻ với ta mọi nỗi đắng cay, nhọc nhằn tủi nhục, vui buồn có nhau, nói với ta rằng : con đường hạnh phúc còn xa nhưng quyết đi thì sẽ tới. Vậy thì ta chọn ai là kẻ dẫn đường ?
Chuyện đời nhiều khi nói dài dòng sinh phức tạp chứ thực ra cũng đều là giản dị dễ hiểu thôi. Ai đã từng đi đường trường đều tự biết phải đi như thế nào, phải tìm ra cách đi, sao cho đỡ tốn sức người sức của và đến mau đến được nơi cần đến. Cái khó của chúng ta là đường cách mạng lại là một loại đường quá dài, quá gai góc mà đích của nó lại là một vùng chưa có dấu chân người.
Không thể vừa đi vừa ca cẩm phàn nàn hoặc lại nằm xuống kêu mệt, kêu khổ. Thậm chí lại vừa đi vừa ngoái cổ luyến tiếc những gì đã quen hay bàn nhau vòng lại lối xưa đường cũ. Đi kiểu này hẳn là muôn thuở sau cũng chẳng đến nơi ta cần đến, chưa kể có vị vừa đi vừa mỉa mai châm biếm kẻ dẫn đường.


Đi đường thì tốt hơn cả là nên giắt trong hành trang thơ văn của người xưa, nhất là thơ văn của cụ Hồ thì giữ tâm linh được yên ổn mà đi tới, tránh được chuyện nản lòng thoái chí :
Đi đường mới biết gian lao
Núi cao rồi lại núi cao trập trùng
Núi cao lên đến tận cùng
Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non
(Nhật ký trong tù)
Đi đã khó, dẫn còn khó biết chừng nào. Người dẫn đường làm sao dám quên mang theo cẩm nang và vận dụng sáng tạo những điều ghi trong cẩm nang của các vị tiên liệt anh hùng :
- Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng.
- Quần chúng là người sáng tạo lịch sử.
- Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong.
- Dân là gốc nước, gốc vững thì nước yên.
- Dân như nước, chở thuyền là dân, lật thuyền cũng là dân.
- Miệng dân sóng bể. Tức nước thì vỡ bờ.
Và có một nguyên tắc mang tính qui luật sao có thể quên : "Mỗi người đều phải đi bằng chân của mình" không thể đi hộ người khác, càng không thể nghĩ thay làm thay người khác.
Nhân dân đi đường chắc chắn phải biết chọn ai cẩn thận để giữ hầu bao, chọn kẻ nào khỏe mạnh để giữ gươm súng đối đầu với thú dữ trộm cướp và không thể giao gạo cho những ai suốt đời "trên sống dưới khê tứ bề nhão nhoét", càng không thể giao cho những vị ú ớ, ngọng nghịu làm kẻ phát ngôn cho mình hoặc cần đối thoại khi hỏi đường hay giao lưu đổi chác mua bán. Nhất định là không giao vải cho những kẻ chưa cầm vững kéo, càng không thể dán vào trán vài ba học hàm học vị rồi cấp hàng tỉ hàng tỉ nuôi béo các vị cai đầu dài trong khoa học.
Tóm lại là cứ tin ở nhân dân, để cho họ lựa chọn những kẻ quản lý từng công việc, từng lĩnh vực.
Nhiều người tưởng đã độc quyền lãnh đạo thì đồng thời phải độc quyền quản lý. Nhầm to ! Thực tế trên đời này chưa có một đảng nào dù tư sản hay vô sản có đủ năng lực và đủ người dăng khắp mạng lưới quản lý từ chính phủ trung ương cho tới các làng xã địa phương. Càng không thể có đủ năng lực và người để quản lý mọi lĩnh vực của đời sống như kinh tế, giáo dục, văn hóa, xã hội v.v. Liên Xô là một mẫu mực về cố gắng này nhưng đã hoàn toàn thất bại. Chúng ta không thể đi theo vết xe đổ đó. Chúng ta không có đủ số đảng viên có năng lực để quản lý các loại hợp tác xã nông nghiệp cấp cao cũng như cấp thấp. Đơn giản là với một nền sản xuất nhỏ, kỹ thuật canh tác lạc hậu mà lại tổ chức làm ăn theo kiểu "cha chung không ai khóc", "lắm sãi không ai đóng cửa chùa", không thể có năng suất như ta mong muốn. Cho nên dù có lo lắng chủ nghĩa tư bản sẽ tự phát nảy nở hằng ngày hằng giờ trên từng mảnh đất riêng lẻ của nông dân, chúng ta vẫn phải giao ruộng đất cho từng hộ nông dân, từng chủ trang trại để họ quản lý thay cho các ban chủ nhiệm hợp tác xã và các ban giám đốc nông trường do tổ chức Đảng cắt cử.


Ở công nghiệp cũng thế thôi. Mấy chục năm liền chúng ta chấp nhận hai hình thức xí nghiệp quốc doanh và hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp. Không thể có chuyện cá thể hay tư nhân ở đây. Làm ăn dù có giỏi giang hiệu quả như vua Lốp thì cũng phải tìm mọi cách triệt bằng xong (cho đến nay chúng tôi cũng không rõ UBND TP Hà Nội đã trả lại nhà cửa và bồi hoàn thích đáng cho ông vua Lốp này chưa).
Và cho dù chúng ta ghê tởm CNTB và lợi nhuận đến đâu, chúng ta vẫn không dám tiếp tục ôm ấp để bù lỗ cho hàng chục ngàn xí nghiệp quốc doanh. Cho dù về mặt lý luận cũng như thực tiễn, các đ/c giáo điều tăng cường hù dọa chúng ta, vẽ ra đủ các thứ viễn cảnh đáng sợ, cuối cùng chúng ta vẫn phải tiến hành cổ phần hóa xí nghiệp quốc doanh và dò dẫm từng bước tư nhân hóa xí nghiệp quốc doanh. Bộ Công nghiệp cũng đã thử lên tiếng rao bán hoặc cho thuê xí nghiệp quốc doanh, nhưng chẳng thấy ai mặn mà hưởng ứng. Nên mừng hay nên lo ? Mừng là vẫn còn xí nghiệp quốc doanh để chủ động bổ nhiệm người tin cậy đứng ra quản lý, lo là không biết nếu trưng thu tất cả lương bổng và tài sản của bộ trưởng và tất cả nhân viên trong Bộ, cả lương tổng giám đốc, giám đốc quốc doanh có đủ bù lỗ không ?
Nói thẳng ra, ai giữ lại thì người đó chịu trách nhiệm chứ không thể kêu gọi Nhà nước và Nhân dân cùng đóng góp trong chuyện lỗ lã này.
Nói sơ sơ như thế để thấy rằng không thể mơ hồ về lý luận và tiếp tục đùa giỡn với qui luật. Như thế là Trung ương Đảng cũng như Nhân dân ta đều cùng nhận thấy rằng mình phải thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng của bản thân đất nước mình càng nhanh càng tốt. Trong cơn bão khủng hoảng tài chính ở khu vực Đông Nam châu Á vừa qua, ta thuộc loại cây thấp nên chịu ảnh hưởng ít nhưng như thế không có nghĩa là có thể tự tin vô lối đến mức bình chân như vại. Cần nhớ rằng lạm phát hay thiểu phát đều tai họa không kém gì nhau. Trong những năm 80 và sang cả đầu thời kỳ 90, chúng ta chống lạm phát có hiệu quả. Do nhiều nguyên nhân nhưng đừng quên một nguyên nhân quan trọng là : lũ "tín dụng" lừa đảo như nước hoa Thanh Hương, Đại Thành, Huỳnh Là .... đã gom gần hết tiền mặt của nhân dân vô tình đã tạo một hệ quả vào việc "chống lạm phát" một cách vô ý thức.
Còn hiện nay lại có tình hình ngược lại, Thủ tướng thấy tình hình giảm phát là nguy hiểm cho nền kinh tế nên kêu gọi và hạ lệnh kích cầu, nhưng mấy ông bộ trưởng Tài chính, Bưu điện, Tổng cục thuế, Ủy ban vật giá chính phủ .... lại ban hành đủ các thứ giá mới, thuế mới trong cùng một thời kỳ nhằm triệt tiêu sức mua của nhân dân.
Đặc biệt việc bán 4.000 tỉ công trái là cách tốt nhất để bảo rằng đừng có mua hàng nữa. Đặc biệt hơn nữa là báo chí ta lại đăng một loạt bài của các nhà nghiên cứu đả kích tâm lý tiêu thụ hàng hóa và khuyến cáo "tiết kiệm".
Tất nhiên, tiết kiệm bao giờ chẳng là quốc sách. Hiện nay, nếu đi nhà hàng mà bảo nhau uống hết két bia này đến kết bia khác, thậm chí còn dội bia lên đầu nhau, hoặc "quan tỉnh" lại cưỡi hàng ngàn con trâu (xe hơi đời mới trị giá tỷ hai) lên vùng cao "thăm nghèo hỏi khổ", hoặc các vị phóng tay duyệt những dự án như "thủy cung Thăng Long", "công viên Thế kỷ", làng văn hóa v.v. thì dứt khoát phải tập trung lũ này lại để tập huấn về bài học Tiết kiệm mà Cụ Hồ đã dạy. Chứ sao lại "dạy dỗ" nhân dân ta phải tiết kiệm. Nhưng cứ giữ chặt tiền tiết kiệm không sắm xe đạp, xe máy, ti vi và không cả uống bia bình thường v.v. thì hỏi sản xuất để làm gì và không bán được hàng thì đẩy mạnh sản xuất làm gì và xí nghiệp sẽ ra sao ? Tiết kiệm vô lối để đuổi các nhà đầu tư nước ngoài về nước và đẩy công nhân ra hè đường chăng ? Ngay nói chuyện lãng phí trong lễ hội hoặc cúng tế, xây từ đường mồ mả .... cũng là do các cán bộ văn hóa và các nhà nghiên cứu văn hóa cổ động mà nên phong trào. Ngay việc cưới hỏi ma chay mà dềnh dang lãng phí cũng là do mấy vị đầu huyện, đầu tỉnh làm gương trước.
Trách dân thế nào được !
Nói chuyện thực tế thì không biết đến bao giờ mới dứt được. Vấn đề là ta phải giải quyết trước hết về nhận thức, lý luận thôi. Có một điều có thể khẳng định được là Đảng chỉ có thể độc quyền lãnh đạo chứ không thể độc quyền quản lý.
Cần giải quyết một nhận thức chứa đựng mâu thuẫn và từ bỏ tính đồng bộ : ta đã không độc quyền quản lý về kinh tế, giáo dục, y tế và nhiều lĩnh vực khác, vậy thì tại sao hầu hết cán bộ lý luận của ta lại nói : dứt khoát ta phải độc quyền quản lý tư tưởng, báo chí và xuất bản.
Độc quyền mà đạt hiệu quả tốt trong việc củng cố chế độ và phát triển đất nước thì ta cứ việc tiếp tục độc quyền, chẳng cần phải bàn bạc gì. Nhưng thực tế cho ta thấy điều gì ?
Chúng tôi có dịp nói chuyện với đ/c Tổng biên tập báo Sài Gòn giải phóng Cao Xuân Phách :
- Tại sao anh không đề báo của anh là "cơ quan ngôn luận của Đảng bộ TPHCM" mà lại đề là "tiếng nói của nhân dân TPHCM" ?
Anh Cao Xuân Phách vặn lại :
- Thế anh thử đếm xem ở trên báo của chúng tôi có bao nhiêu ý kiến của bạn đọc ?
- Nhưng ý kiến bạn đọc lại do các anh duyệt, quyền đăng hay không lại ở trong tay các anh. Giả thiết bạn đọc tố cáo kẻ tham nhũng mà kẻ ấy lại có quan hệ gia đình họ hàng hoặc bạn bè đồng chí của anh hoặc của bất kỳ một người nào trong tòa soạn, liệu anh có đăng không ?
Đó là chúng tôi chưa kể những kẻ hư hỏng như phóng viên Minh Diện nhận tiền lót tay của bọn tiêu cục thoái hóa, quan liêu dối trá, lừa đảo, tham nhũng rồi viết bài rước chúng lên, lừa dối Nhân dân và Trung ương đến mức mọi người tưởng chúng làm ăn chân chính, có thành tích thực sự nên cứ để chúng mặc sức đục khoét, thậm chí còn nhầm lẫn đến mức thăng chức tăng lương hoặc còn tặng huân chương lao động cho chúng và cấp kinh phí cho chúng mở hội mừng công.
Đấy ! Tên Kiểm ở dệt Nam Định, lũ Tamexco, lũ Tân Trường Sanh, Phạm Nhật Hồng, Lê Minh Xư, Minh Phụng là thế đó. Chẳng lẽ tên Kiểm ở dệt Nam Định làm thất thoát hàng 600 tỉ (trong đó có 20 tỷ là tiền mua "quà cáp biếu xén" các cấp, các phóng viên báo Đảng ở Trung ương về thường trú và các phóng viên báo Đảng địa phương lại không biết gì chăng ? lại không hề sơ múi gì chăng ?
Của đau con xót, đáng lẽ mất 100 triệu, hay nói quá đi là 1.000 triệu đã phải tri hô ầm ĩ cho làng xóm và bà con hàng phố biết chứ, cho cấp dưới cấp trên biết chứ, sao lại để mất đến hàng ngàn tỉ, thậm chí 8.000 tỷ (vụ Epco Minh Phụng) mà các phóng viên cứ im như thóc ? Những chuyện sai trái tai hại này không phải chỉ công an kinh tế có phần trách nhiệm mà giới báo chí của ta cũng phải liên đới chịu trách nhiệm. Giao trách nhiệm cho các anh làm tai, làm mắt, làm miệng của nhân dân mà các anh lại giả đui giả điếc và không giả câm, nói năng viết lách tung hỏa mù làm mờ mịt cả tình hình, các anh có tội với Nhân dân không ? Có tội với Đảng không ? Điều chất vấn này chúng tôi xin dành cho Ban tư tưởng văn hóa Trung ương, Bộ Văn hóa và Hội Nhà báo Trung ương trả lời. Chúng tôi chưa thấy ai tự phê bình về sai lầm khuyết điểm này trên báo chí.
Ở đây, chúng tôi không muốn nói đến các Ban thanh tra nữa vì trong bản "Chỉnh đốn để tồn tại và phát triển", dựa trên tình hình thực tế chúng tôi đã kết luận : Các đoàn thanh tra của chúng ta đã bị vô hiệu hóa và trở thành tê liệt. Chúng tôi cũng đề nghị nên giải tán một tổ chức mang tính hình thức là các ban Thanh tra nhân dân. Chúng tôi rất mừng thấy đ/c Tổng bí thư Lê Khả Phiêu cũng nhất trí với nhận định của chúng tôi. Trong bài diễn văn bế mạc Hội nghị Trung ương lần thứ 8 vừa rồi, mọi người được xem truyền hình trực tiếp và nghe rõ ý kiến đ/c Lê Khả Phiêu nói thêm ngoài văn bản, đại ý thanh tra về cơ sở nào cũng được đánh chén và được nhận phong bì, như thế làm sao phát hiện được vấn đề.
Hiện nay, chúng ta có khoảng 650 báo hàng ngày, hàng tuần, nguyệt san, bán nguyệt san, các loại phụ san, tạp chí từ địa phương đến Trung ương. Mới nhìn qua, thật là một lực lượng hùng hậu. Nhưng thử rà soát lại xem có bao nhiêu kẻ vô tích sự hoặc cam tâm làm bồi bút cho bọn tham nhũng ?
Có một cái nếp không tốt và có lẽ người ta quan niệm phải như thế để giữ được tình đoàn kết trong nội bộ giới báo chí - nghĩa là ai sai mặc ai, không báo nào góp ý phê bình báo nào cả. Do đó, ngoài nội dung sai lầm hoặc nhạt nhẽo thì việc dùng từ sai, đặt câu sai, sửa mo-rat cẩu thả thành phổ biến và kéo dài.
Tình hình tăng về số lượng và sút kém dần về chất lượng không phản ánh đúng năng lực thực chất của giới cầm bút ở Việt Nam. Người có năng lực không sử dụng vào việc quản lý, người có gan viết sự thật không có đất dụng võ. Múa bút duyệt bài trong các ban biên tập hiện nay phần lớn là đám "bi ve" không hề có cái gọi là bản lĩnh của một nhà ngôn luận. Ngoài số người thận trọng muốn yên phận giữ ghế, làm việc theo kiểu tắc trách sự vụ, còn lại là những kẻ nghĩ đủ mưu mẹo câu khách kiếm tiền. Lại còn một số kẻ táng tận lương tâm thì hù dọa người, tống tiền các doanh nghiệp hoặc cơ quan "có vấn đề". Còn một ít người viết báo chân chính, giữ vững lương tâm của người cầm bút, thì gặp đủ mọi sức ép từ nhiều phía : cơ quan thì lo ảnh hưởng đến nồi cơm của anh em, những địa chỉ có vấn đề thì tìm cách xua đuổi hoặc hãm hại. Họ mượn chiêu bài bảo vệ cơ quan Đảng và cơ quan Nhà nước mà thực chất là bao che cho bọn cường hào tham nhũng để phê phán những người cầm bút này thiếu tính Đảng, tàn bạo hơn thì ghép cho tội cầm bút "chống Chế độ". Phùng Gia Lộc là một điển hình trong những nạn nhân điển hình của lối truy chụp và hãm hại này.
Đáng thương cho các cháu vừa mới tốt nghiệp các khoa báo chí. Trông gương các đàn anh như thế nên cũng uốn éo ngòi bút như thế nào để tồn tại. Một số bảo nhau trau giồi không phải kỹ năng viết mà là kỹ năng lách.
Chúng tôi ngờ rằng các đ/c ở Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương cũng như các đ/c có trách nhiệm ở Bộ Văn hóa chưa nhận thức hết được sự nguy hiểm cho Chế Độ và Đất Nước do tình trạng xuống cấp về chất lượng viết và nhân cách của một số đông trong giới báo chí.
Vậy, những đồng chí nào chủ trương báo chí quốc doanh phải giữ độc quyền ngôn luận có đủ khả năng biện hộ cho tình hình này không ?
Ở lĩnh vực kinh tế cũng như nhiều lĩnh vực khác, chúng ta đã nhận thức được chơi kiểu một mình một chợ là không thể phát triển được nên ta buộc phải bỏ trò quốc doanh độc quyền. Vậy ở lĩnh vực báo chí và xuất bản có chơi trò độc quyền được không ?
Nếu cho rằng độc quyền độc diễn là tốt thì ta cứ tiếp tục, chẳng ai cấm được ta. Nhưng nếu tiếp tục làm trì trệ Đất nước và làm lâm nguy Chế độ thì chớ tìm cách chạy tội trước Nhân dân và Lịch sử.
Chúng ta nên bỏ cái tâm lý và một nếp nghĩ thiếu tự tin, lúc nào cũng lo sợ những phần tử xấu lợi dụng, địch lợi dụng. Lỡ nó lợi dụng quyền tự do ngôn luận, quyền ra báo tư nhân để phá ta thì sao ? Đúng là kiểu thần hồn nát thần tính.
Những đ/c chủ trương độc quyền ngôn luận, độc quyền báo chí quên mất rằng ta đang sống trong thời đại thông tin toàn cầu hóa. Ngăn chặn thông tin trong thời buổi này cũng vô lý như là bảo nhau đừng thở nữa. Lỡ không khí có bụi và vi trùng thì sao ? "Nhân cường tật nhược" mình khỏe thì sợ quái gì vi trùng, thần trí sáng suốt thì sợ quái gì ma quỉ. Vả lại ta có cấm nổi báo chí ngoại quốc viết về ta không ? (trong đó có cả các vị lưu vong mất gốc bán hồn cho quỉ, chỉ rình rập mang lửa về quê hương). Ngay các đài BBC, VOA, RFI. . . cứ ra rả hàng ngày hàng giờ xuyên tạc một cách kiên trì hàng nửa thế kỷ, ta đâu có ngán, dân ta đâu có bị mê hoặc.
Tóm lại, địch phá ta đâu có sợ bằng chính Ta phá Ta. Càng bưng bít thông tin thực tế chỉ càng có lợi cho bè lũ tiêu cực, thoái hóa tham nhũng. Càng bịt mồm bịt miệng nhân dân thì bọn cơ hội càng dễ bề lợi dụng. Và chính kẻ địch lại lợi dụng bọn cơ hội này để phát ngôn thay cho chúng và hướng dẫn dư luận đi chệch hướng.
Đánh phá trực tiếp vào chủ nghĩa Mác thì hàng thế kỷ nay các vị chống cộng đã từng thử sức rồi và cảm thấy phải sửa chữa và khắc phục tình trạng bất lực của mình.
Cái này sáng lên, cái khác tự nhiên phải mờ đi. Đánh phá kiểu cũ là lỗi thời rồi.
Giới sử học của ta bình chân như vại trước tình hình thiên hạ hô hoán, viết lách nhằm phục hồi triều Nguyễn, thậm chí có những vị học giả, giáo sư còn phụ họa theo biểu dương công nghiệp và chạy tội cho các vua nhà Nguyễn. Hàng loạt cuốn sách, bài báo và các bài tạp chí thi nhau ca tụng các ông vua bà chúa, ca tụng từ luật lệ, thiết chế chính trị, giáo dục, văn hóa xã hội, đạo đức cho đến cả các món ăn, lối sống cung đình, lễ tống táng và mồ mả của vua chúa nhà Nguyễn. Thậm chí có những vị còn trắng trợn bào chữa cho tội "cõng rắn cắn gà nhà" và tội làm mất nước của triều Nguyễn. Thế mới là đổi mới tư duy sử học, thế mới là "thoáng" chứ !
Đành rằng, nếu chúng ta có sự đánh giá nào khắc nghiệt và bất công với triều Nguyễn, chúng ta có trách nhiệm phải điều chỉnh, phải hối lỗi để đảm bảo sự công bằng đối với lịch sử. Nhưng đối với sự thật lịch sử thì tuyệt đối không ai được phép xuyên tạc.
Không thể có chuyện trong thực tế lịch sử và trên sách sử kể cả Quốc sử quán triều Nguyễn đã ghi chép rằng vua Gia Long đã khéo léo xua đuổi các thuyền buôn nước ngoài (có cả thuyền buôn của người Pháp) mà người nghiên cứu khoa học lại dám bịa ra rằng : nhà vua có chiếu chỉ phát triển thương nghiệp và tàu bè nước ngoài ra vào buôn bán tấp nập (tham luận của Nguyễn Cẩm Thúy tại Hội thảo Gia Long). Lại còn ca tụng vua Gia Long có công mở mang kinh tế miền Nam và đã biết làm "cơ chế thị trường" (tham luận của GS Trần Quốc Vượng, của tiến sĩ Lê Hồng Liêm ...). Và còn gợi ý ta nên biết ơn học tập truyền thống "cơ chế thị trường" đó.
Trong khi sử sách ghi chép rằng vua Quang Trung có chỉ dụ cấm quân đội Tây Sơn không được cướp bóc, đốt phá thì sao lại dám viết tham luận bịa ra chuyện quân đội Tây Sơn đốt phá thành Thăng Long, thậm chí còn đốt phá cả thị trấn cổ Hội an (vẫn tham luận của Trần Quốc Vượng).
Trong số 50 tham luận, có nhiều tham luận viết theo những giọng điệu đó nhằm đề cao vua Gia Long một cách vô nguyên tắc, hạ thấp và xúc phạm đến anh hùng Quang Trung và nghĩa quân Tây Sơn. Chúng tôi viết bài phản đối sự xuyên tạc lịch sử đến trao tận tay đ/c Trịnh Gia Ban, đại diện Tạp chí cộng sản ở phía Nam. Đ/c Ban yêu cầu chúng tôi đừng nêu tên các giáo sư, học giả đã nói sai vì "tạp chí của chúng tôi" đã qui định không phê phán các cá nhân một cách cụ thể, chỉ nên nói : "có ý kiến nêu rằng". Như thế là những người xuyên tạc lịch sử thì có quyền viết cụ thể rằng vua Gia Long thế này, vua Quang Trung thế khác. Còn người viết phản đối sự xuyên tạc lịch sử thì lại không được nói động đến một cách cụ thể : Ông Nguyễn Đình Đầu, ông Trần Quốc Vượng, ông Vũ Ngọc Khánh, ông Lê Hồng Liêm .. Tất nhiên, chúng tôi phải mang bài về và gửi đến Báo Nhân Dân - cơ quan ngôn luận của Trung ương ĐCSVN - Báo Nhân dân cũng không đăng. Chúng tôi cũng chẳng ngạc nhiên.
Nhưng đáng ngạc nhiên là khi ngay trên báo Nhân Dân đăng những bài, theo chúng tôi, có những quan điểm sai lầm, chúng tôi viết bài tranh luận gửi đến cũng không đăng. Theo những thông tin mà chúng tôi nắm được thì có những đ/c trong ban biên tập đề nghị nên đăng, nhưng đ/c Hồng Vinh - Tổng biên tập hạ lệnh không đăng. Đáng lẽ, ai đúng ai sai đều phải đăng cả lên để công luận phân xử, phán xét. Như thế là vừa kích thích được tư duy nghiên cứu vừa có dịp thẩm định để uốn nắn những lệch lạc, hướng dư luận đi theo cái đúng có lợi cho khoa học và sự phát triển của đất nước. Cứ cho ăn thuần một món, cho nghe thuần một chiều mà lại còn kêu rằng dân trí chậm phát triển, hỏi lỗi tại ai ? Xin phép hỏi đ/c Trịnh Gia Ban và đ/c Hồng Vinh :
- Các đ/c làm báo cộng sản mà lại gắng giữ sự an toàn cho bản thân nhằm thăng tiến hoặc hạ cánh an toàn, như thế có xứng đáng không ?
- Thử hỏi Nguyễn Ái Quốc, Nguyễn An Ninh, Phan Văn Trường, Nguyễn Văn Nguyễn, Nam Quốc Cang và bao nhiêu nhà báo cách mạng khác cũng làm báo theo kiểu các đ/c thì dân tộc này sẽ ra sao ? Mình là người làm báo cách mạng mà lại ngại hy sinh, lúc nào cũng dụt dè sợ hãi, không có gan bảo vệ chân lý, bảo vệ sự thật lịch sử dân tộc, không bênh vực quần chúng bị áp bức đau khổ, không đóng góp vào tiến trình phát triển của đất nước thì có đáng hổ thẹn với các bậc tiên liệt hay không ?
Chúng tôi chưa hỏi đến chất cộng sản trong người các đ/c, hãy nói đến sứ mệnh bình thường của người làm báo thì ngay nhân dân ở các nước tư bản cũng không chấp nhận chứ đừng nói đến nhân dân ở nước Cộng hòa XHCN Việt Nam ta.
Vì vụ hội thảo Gia Long không giải quyết dứt điểm nên mới nẩy nòi ra hội thảo Việt Nhật. Sự xâm lược của phát xít Nhật lại biến thành "sự hiện diện của người Nhật". Hai triệu người chết đói năm 45, cả thế giới đều biết, mà chính các sử gia chân chính của Nhật Bản phải viết thành sách để xác nhận và tố cáo tội ác này. Và chính một giáo sư Nhật - giáo sư Furuta Moto - đã hợp tác với giáo sư Văn Tạo bỏ ra mấy năm liền đi điều tra thực địa, khảo sát 314 hồ sơ tội ác để viết thành 1 cuốn sách 732 trang về "Nạn giết hại 2 triệu người Việt Nam, xảy ra ở thế kỷ XX này, đó là một nỗi nhục của nhân loại" (Trích thư tay của giáo sư Furuta Motoo).
Những người nghiên cứu khoa học có lương tâm, có ý thức tôn trọng lịch sử và chân lý thì nghiên cứu và viết như thế đó !
Thế mà ông giáo sư Mạc Đường - lúc bấy giờ là Viện trưởng Viện KHXH tại TPHCM lại định hướng và chỉ đạo cho ông tiến sĩ Đinh Văn Liên - giám đốc Trung tâm Sử học cùng với một số giáo sư, học giả, tổ chức hẳn một hội thảo cấp quốc tế để hóa phép hơn hai triệu đồng bào chết đói thành còn "hơn một triệu" Viện trợ của Nhật cho ngụy quyền Sài Gòn lại biến thành viện trợ nhân đạo cho nhân dân miền Nam Việt Nam, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước lại được phù phép thành "cuộc nội chiến".<!--nextpage-->
Chúng tôi đã viết bài phê phán hội thảo Việt Nhật (bài "Không được phép xuyên tạc lịch sử"). Tất nhiên, đ/c Trịnh Gia Ban và đ/c Hồng Vinh cũng không đăng. Đặc biệt là một người được lệnh đăng cũng không đăng. Đó là giáo sư tiến sĩ Trần Trọng Đăng Đàn - Tổng biên tập Tạp chí KHXH của Viện KHXH tại TPHCM. Xin tóm tắt sự việc xảy ra như sau : Ngay trong hội thảo Việt Nhật, dư luận đã xôn xao về sự xuyên tạc lịch sử trắng trợn, thể hiện cụ thể trên hai tập kỷ yếu phát trước cho các đại biểu. Sau đó, dư luận càng xôn xao bàn tán về sự kiện này. Chúng tôi viết bài "Không được phép xuyên tạc lịch sử !" với nội dung chủ yếu là phân tích, lên án sự xuyên tạc và yêu cầu Quốc hội chất vấn đại biểu Nguyễn Duy Quí về việc dung túng cho những người tổ chức hội thảo Gia Long và hội thảo Việt Nhật.
Khi nghe chúng tôi báo cáo, đ/c Huỳnh Vân bấy giờ là Bí thư Đảng ủy Viện yêu cầu chúng tôi hãy khoan gửi cho Quốc hội để đ/c thỉnh thị Trung tâm KHXH và NVQG ở Hà Nội đã. Đ/c Trần Trọng Đăng Đàn sau khi xem bài viết cũng động viên chúng tôi :
- Bài viết phê phán này đúng lắm. Lần này dứt khoát tạp chí chúng tôi phải đăng. Anh thông cảm, bài phê bình hội thảo Gia Long tôi không đăng vì chưa được bật đèn xanh. Kỳ này ông Quí đã bật đèn xanh thì không ngại gì cả. Ông Quí còn yêu cầu đăng cả bài tự kiểm điểm của ông Mạc Đường và của Đinh Văn Liên.
Chúng tôi cũng như mọi người trong Viện đều không tránh khỏi ngạc nhiên trước thái độ khẩn trương sốt sắng của đ/c Nguyễn Duy Quí. Sau khi nhận được liên tiếp hai bản fax của đ/c bí thư Huỳnh Vân và đ/c Tổng biên tập Trần Trọng Đăng Đàn, đ/c Quí liền cử ngay đ/c Đỗ Hoài Nam - phó giám đốc TTKHXH và NVQG bay vào họp gấp những người đã tham gia tổ chức hội thảo Việt Nhật và Ban biên tập tạp chí để truyền đạt chỉ thị của đ/c Nguyễn Duy Quí. Mọi người xì xào bàn tán : thế mới xứng đáng là ủy viên trung ương, là đại biểu quốc hội chứ ! Có người còn khen đ/c Quí : ông Quí thấy được tầm quan trọng của vấn đề nên có cử ông Hồ Ngọc Hải vào đâu mà lần này cử hẳn một ủy viên trung ương ! Sau khi lên chế bản bài báo "Không được phép xuyên tạc lịch sử !", sau khoảng gần 10 buổi làm việc với ông Đàn và ông Huỳnh Vân, theo tinh thần công văn chỉ đạo của Trung tâm KHXH+NVQG do ông Nguyễn Duy Quí ký, ông Đàn nói :
- Chưa đăng ngay bài này được vì còn chờ hai bài kiểm điểm của ông Đường và ông Liên.
Đùng một cái, ông Đàn cho biết bài này không thể đăng được.
Ngay tối hôm đó, chúng tôi gọi điện thoại đường dài ra Hà Nội tới nhà riêng đ/c Nguyễn Duy Quí hỏi lý do, đ/c Quí trả lời chúng tôi : để đ/c hỏi lại anh Đàn chứ tôi không ra lệnh thôi đăng bài của anh.
Chúng tôi gặp ông Huỳnh Vân và hỏi ông :
- Vừa rồi anh Mạc Đường chiêu đãi anh với anh Đàn ở nhà hàng Phú Thọ, bàn bạc với nhau ra sao mà ông Đàn lại bảo không đăng bài Việt Nhật nữa ?
Ông Huỳnh Vân trả lời ngay :
- Ông Đường có mời nhưng tôi không đi. Còn việc tại sao không đăng tôi cũng không rõ.
Sau khi họp hội thảo quốc tế Việt Nam học ở Hà Nội về, chúng tôi thông báo cho ông Đàn biết :
- Vừa qua, chúng tôi đã gặp anh Quí và nói với anh Quí rằng : như thế là anh Đàn đã cơ hội thỏa hiệp vô nguyên tắc, chống lại lệnh của anh. Đó là điều nguy hiểm nhưng không nguy hiểm bằng anh Đàn đã chống lại chúng tôi. Chúng tôi lại nói thêm với anh Đàn (có cả mọi người trong phòng tạp chí nghe rõ) :
- Đăng hay không là quyền của anh, nhưng chúng tôi cũng giữ cái quyền công khai thông báo cho dư luận cả nước biết về thái độ cơ hội thỏa hiệp của anh.
Do mắc bận viết bài "Chỉnh đốn ..." do đ/c Triết đặt hàng nên chúng tôi tạm lơ vấn đề Việt Nhật.
Nhưng chúng tôi thật sự kinh hoàng khi nghe tin họ rục rịch tổ chức Hội thảo Việt Nhật lần thứ hai với nhiều đại biểu quốc tế hơn.
Chúng tôi tự hỏi : chẳng lẽ phía Nhật đã thay đổi quan điểm lập trường, tài trợ cho hội thảo Việt Nhật lần thứ hai là nhằm ca tụng VN và giúp đỡ cho VN phát triển. Chúng tôi tự rút ra kết luận : trên đời này không ai cho không ai cái gì cả, thiên hạ bỏ tiền ra tài trợ cho các hội thảo khoa học không phải làm chuyện từ thiện mà không thu được lợi gì. Nhiều nhà khoa học tự nhiên của chúng ta đã hớ trong việc này, vô tình hoặc hữu ý trở thành người cung cấp các thông số, các dữ kiện kinh tế, tự nhiên, môi trường (Thậm chí những tham số thuộc bí mật quốc gia) với giá rẻ mạt. Còn nhiều nhà khoa học xã hội của ta làm việc kiểu hội thảo Việt-Nhật, mọi người đã thấy rõ. Điều nguy hiểm là hội thảo kiểu này, một mặt người ta phản khoa học,trắn trợn xuyên tạc lịch sử, mặt khác còn đâm lưỡi dao vào lưng các nhà khoa học chân chính Nhật Bản và làm trò cười cho giới khoa học quốc tế.
Điều nguy hiểm sâu xa đáng sợ hơn là nếu ở bộ phận biên soạn sách giáo khoa lịch sử, của Bộ giáo dục tưởng đây là những phát hiện mới được các nhà khoa học quốc gia và quốc tế công nhận rồi cập nhật vào sách giáo khoa phổ thông và giáo trình đại học thì hậu quả di họa đến bao đời ?
Vì ở ta làm gì đã có thông lệ như ở Nhật để có thể kiện Bộ Giáo dục yêu cầu rút những kiến thức sai lầm ra và thay kiến thức chính xác vào. Và ngay ở Nhật một vị giáo sư đáng kính cũng đã phải kiên trì kiện Bộ Giáo dục Nhật 20 năm liên tục mới đưa được cụm từ "phát xít Nhật" và "tội ác xâm lược" đối với nhân dân châu Á vào sách giáo khoa.
Vì người ta không giải quyết dứt điểm : phê phán đúng mức và xử lý kỷ luật thích đáng đối với những người có trách nhiệm trong việc tổ chức hai hội thảo Gia Long và hội thảo Việt Nhật nên họ lại âm thầm tiến hành hội thảo Việt Nhật lần thứ hai. Lần này, họ tỏ ra khôn ngoan bằng cách lôi kéo thêm những người như : ông Trần Trọng Đăng Đàn, ông Nguyễn Công Bình vào Ban tổ chức hội thảo, lại lôi kéo thêm một số giáo sư chưa bao giờ nghiên cứu về quan hệ Việt Nhật viết bài như giáo sư Nguyễn Văn Hạnh. Đúng là họ làm khoa học theo kiểu tư duy và tác phong tiểu nông, cứ kéo càng đông càng tốt. Chúng tôi có hỏi giáo sư Nguyễn Văn Hạnh :
- Tại sao anh đã thấy hội thảo Việt Nhật lần thứ nhất như thế mà anh còn tham gia viết bài cho hội thảo này ?
- Tôi cũng viết cho vui.
Đấy ! Hiện nay chúng ta đang ở trong một tình trạng tổ chức hội thảo tràn lan la liệt. Họ lôi kéo mời mọc bằng được những giáo sư này những tiến sĩ nọ để cho đông vui, cho oai. Còn các giáo sư tiến sĩ nhà ta dù chẳng thuộc lĩnh vực mình nghiên cứu cũng nhận lời viết bài tham gia. Người thì tham gia cho vui, kẻ thì vì một vài cái phong bì, kẻ thì cũng chẳng cần gì cả ngoài việc hy vọng được giới thiệu trân trọng, được nghe vỗ tay và thiên hạ nhớ được học hàm học vị của mình. Hầu hết các tham luận của giới KHXH hiện nay rơi vào tình trạng sao chép, lý luận kinh viện. Rất hiếm tham luận phát hiện được vấn đề, giải quyết những vấn đề bức xúc của đời sống theo một định hướng đúng. Chúng tôi vì ý thức trách nhiệm nên viết thư báo cáo với địa phương và trung ương, cả hai hội thảo kể trên đều xuyên tạc lịch sử và xúc phạm đến tình cảm thiêng liêng của dân tộc. Nếu các đ/c cho phép họ tiếp tục tổ chức, các đ/c phải chịu trách nhiệm. Chúng tôi cũng thẳng thắn phê phán ý thức tổ chức kém cỏi, thái độ cơ hội của ông Trần Trọng Đăng Đàn và thái độ làm lơ vô trách nhiệm của ông Nguyễn Duy Quí.
Trong bản thư kiến nghị, chúng tôi cũng đã nêu rõ nguyên tắc : hội thảo khoa học phải nhằm phục vụ cho sự phát triển của đất nước. Chúng ta mở cửa giao lưu kết bạn với tất cả các nước, sẵn sàng tiếp nhận mọi nguồn đầu tư, tài trợ của bè bạn quốc tế nhưng không được quên phương châm tự lực cánh sinh, không được bán hồn cho quỉ. Tuyệt đối không được để các nguồn tài trợ chi phối chủ quyền đất nước, chân lý lịch sử và lương tâm chúng ta.
Chúng tôi hoan nghênh sự đồng tình của lãnh đạo thành phố và mệnh lệnh kịp thời của Trung ương đình chỉ cuộc hội thảo Việt Nhật lần thứ hai.
Có một số người thiếu hiểu biết hoặc bị tổn hại đến quyền lợi riêng lại chê trách chúng tôi là cứng rắn, bảo thủ, cản trở khoa học phát triển. Chê hay khen là quyền của họ. Còn phê phán sai lầm và đề ra hướng sửa chữa là trách nhiệm của chúng tôi cũng như tất cả những người có lương tri muốn đối xử tử tế với lịch sử, với chân lý và dân tộc.
Gần đây, chúng tôi được tin, phía Nhật đã gửi công văn yêu cầu Viện KHXH tại TPHCM hoàn trả 17.000 USD (mười bảy ngàn đô la Mỹ). Dư luận trong Viện, ngoài Viện xôn xao bàn tán về chuyện ông Mạc Đường - cựu viện trưởng - được chia 16 triệu, ông Nguyễn Thế Nghĩa - tân viện trưởng - được chia 8 triệu, còn ông Đinh Văn Liên và đồng bọn chia chác nhau bao nhiêu thì hiện nay chưa rõ.
Chuyện ăn chia của họ hoặc lót tay cấp dưới cấp trên thực hư như thế nào, chúng tôi không cần quan tâm. Chỉ biết rằng liệu bảo nhau gom lại cho đủ mà trả lại đủ cho người ta. Đừng có để nhục đến quốc thể. Và cấm không được phép lấy tiền ở quĩ Viện cũng như bất cứ quĩ két nào của nhà nước, không được bắt nhân dân trả nợ đậy cho họ.
Nhân đây, chúng tôi cũng xin nói thêm về vấn đề hội thảo trong thời kỳ đổi mới hiện nay. Trước hết xin được phép nhắc lại : đổi mới là nhu cầu của dân tộc và thời đại. Không ai được quyền bàn lùi. Cũng không được đổi mới vô nguyên tắc. Cái đúng, cái tốt sao lại có thể bỏ đi được, sao lại có thể thay thế được với lý do vì nó đã cũ. Người ta chỉ có thể bỏ cái cũ nếu nó hủ bại lỗi thời. Nực cười cho những người ngụy biện này trong khi tìm cách phỉ báng, hủy bỏ cái ĐÚNG, cái TỐT lại lục ra cái HỦ BẠI, cái LỖI THỜI rồi tô son trát phấn cho rằng làm như thế mới là "nối tiếp truyền thống", giữ gìn được bản sắc dân tộc.
Đổi mới kiểu này thử hỏi sẽ đưa nhau đi đến đâu ? đến được định hướng nào ?
Lại nói đến cái MỚI. Mới mà đúng, mà tốt, mà tiến bộ không theo sao được ? Nhưng thử hỏi MỚI mà lố lăng, lai căng, mất gốc thì có theo được không ?
Chúng tôi nói đến hội thảo Gia Long và hội thảo Việt Nhật cũng là nhằm mục đích để tất cả chúng ta - giới lãnh đạo, giới quản lý, giới nghiên cứu và giới báo chí - xem xét lại toàn bộ vấn đề nằm gọn trong bốn chữ TỰ DO NGÔN LUẬN đã được ghi ngay trong Hiến pháp năm 1946. Sau Cách Mạng Tháng Tám, căn cứ vào Hiến pháp, Bác Hồ cũng đã ký một sắc lệnh cho phép ra báo tư nhân. Tất nhiên, trong thời gian kháng chiến chúng ta không áp dụng nữa. Vì tất cả cho "trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi" và sau này là "tất cả cho cuộc kháng chiến chống Mỹ thắng lợi". Không ai có quyền nói ngang bàn ngang làm ảnh hưởng đến cuộc kháng chiến. Trong 30 năm kháng chiến, chúng ta chỉ có báo Nhà nước, không có báo tư nhân. Áp dụng luật thời chiến như thế là hoàn toàn đúng.
Nhưng còn thời bình, khi chúng ta đi vào làm kinh tế, làm khoa học kỹ thuật, có nên giữ nguyên vẹn tình hình như thế không ? Có nhiều người vẫn nghĩ rằng không thể tự do báo chí và xuất bản theo kiểu tư sản được. Ngay bà luật sư Ngô Bá Thành (đại biểu quốc hội) và một số vị trí thức đã từng hoạt động trong thời Mỹ ngụy tạm chiếm cũng nói rằng "không nên" vì họ cho rằng tự do báo chí của ngụy quyền cũng chỉ là hình thức, không có thực chất. Do đó ta không thể cho phép ra báo tư nhân hoặc nhà xuất bản tư nhân để tránh bị địch lợi dụng. Cảnh giác như thế là đúng.
Nhưng đã đến thời kỳ tất cả chúng ta phải bình tâm xem xét lại tình hình thực tế của đất nước để nếu cần thì điều chỉnh lại hiến pháp, chủ trương chính sách và mọi thứ luật lệ, sắc lệnh của chúng ta.
Phải thẳng thắn mà nói rằng đã nhiều năm ta duy trì một nếp nghĩ không đúng và không tốt mà ta thường gọi là lối suy nghĩ giáo điều, duy ý chí, bao cấp v.v. nghĩa là có những cái chỉ đúng trong một thời nhưng chúng ta lại cố giữ lại và áp dụng cho muôn thuở. Không ai dám nghĩ khác và cũng không cho ai nghĩ khác, nói khác. Nếp nghĩ này gây ra sự trì trệ. Cuối cùng, chúng ta vẫn phải thay đổi vì nếu trì trệ mãi thì chết. Nhưng cứ gần chết mới chịu thay đổi. Và chúng tôi cũng đã từng phê phán cái lối nói xu nịnh của giới báo chí và giới lý luận của ta : Đúng thì khen ngợi là sáng suốt đã đành. Sai cũng khen ngợi. Rồi khi người ta sửa sai đáng lẽ phải phân tích cho ra lý ra lẽ để làm bài học kinh nghiệm lịch sử, nhưng không làm thế, lúc nào cũng vỗ tay khen ngợi, ca tụng.
Đảng thì dứt khoát là sáng suốt rồi. Nhưng từng Ban chấp hành, từng ủy viên trung ương thì cũng là người thường cả thôi, có lúc đúng lúc sai, lúc sáng suốt lúc kém sáng suốt, phải chân thành mà khen ngợi hay phê phán cho khách quan công bằng, giúp đỡ nhau tiến bộ. Cớ gì cứ làm ầm ĩ lên khiến cho những người lãnh đạo hoặc quản lý bối rối không còn biết mình đúng sai ra làm sao.
Khi biết ra được thì thường là quá muộn, xảy ra những tổn thất nặng nề không đáng có.
Không nói ra ai cũng biết rằng những lực lượng chống lại CHXH hay nói khác đi chống lại cái tiến bộ là tồn tại thường trực trên hành tinh này và chúng cũng chưa vội biến mất trong một vài thế kỷ tới. Việc gì phải sợ, việc gì phải thần hồn nát thần tính để tự mình lại làm tổn hại nguyên khí, thần khí của mình. Chẳng khác gì các vị bác sĩ non gan lúc nào cũng nghĩ đến vi trùng với vi rút rồi bản thân mình cũng như vợ con không còn dám ăn uống làm việc vui chơi một cách bình thường.
Đáng lẽ những đài báo thiếu thiện chí của nước ngoài xuyên tạc tình hình thực tế của ta, ta nên tổ chức những bộ phận nghiên cứu phân tích và luận chiến đàng hoàng. Đó là cách giải độc tốt nhất đối với những bộ phận bị nhiễm độc. Cần gì phải bưng tai bịt mắt, giấu giấu giếm giếm giữ thái độ A.Q. lỗi thời : "Mày chửi ông cũng như mày chửi bố mày". Cần nhớ rằng chúng ta đang sống trong một thời đại thông tin với đủ các phương tiện hiện đại, đâu phải như cái thời chơi ga-len bán dẫn ngày nào.
Thử hỏi mấy chục năm qua họ thường xuyên phản tuyên truyền, dùng đủ luận điệu và thủ đoạn xuyên tạc chống phá ta thì đã làm gì nổi ta chưa ?
Xin thưa rằng : chống phá ta mà đạt hiệu quả lại chính là các vị ở trong chăn của chúng ta đó.
Đáng lẽ khi Dân đã kêu, dư luận đã bàn tán về những kẻ cường hào, tham nhũng, quan liêu thì ta phải nghiên cứu xem nguyên nhân tại đâu và có đối sách kịp thời. Nhưng ta còn mải đi điều tra, chụp mũ cho những người phát hiện tình hình rồi gọi ngay là những phần tử "lợi dụng tự do, dân chủ", "chống lãnh đạo", "chống chế độ". Vậy, người tố cáo bọn tham nhũng và bọn tham nhũng : ai là kẻ chống Chế độ ?
Chính vì một thời gian dài chúng ta chỉ lo trù dập những cán bộ trung thực và làm tình làm tội những người dân lương thiện, đồng thời "buông lỏng" hay nói thẳng ra rằng dung túng, bao che cho bọn tham nhũng nên mới trở thành quốc nạn (ngay vừa qua, tại Tòa án nhân dân TPHCM phúc thẩm vụ Tân Trường Sanh mà ông chánh án còn cắt lời bị cáo khi họ khai ra tội lỗi của ông Phan Văn Dĩnh và đoàn thanh tra của Tổng cục Hải quan) thì đủ hiểu cái nếp bao che nó ăn sâu vào máu sâu sắc nhường nào.
Tóm lại, cứ để cho Dân nói, Dân kiểm soát mọi việc và kịp thời tố giác công khai thì tất cả sẽ trở nên tốt đẹp.
- Anh tố cáo sai phải không ?
- Anh xuyên tạc vu cáo phải không ?
- Anh bôi nhọ chế độ phải không ?
- Anh đả kích cán bộ, đả kích lãnh tụ phải không ?
Không cần biết anh là ai (dân thường hay phản động, gián điệp), xin mời anh ra tòa.
"Xuyên tạc lịch sử" là một tội danh hẳn hoi được ghi trong điều 22 của Bộ luật Báo chí và xuất bản, thế mà các ông Hồng Vinh, Trịnh Gia Ban, Trầ n Trọng Đăng Đàn v.v. lại xúm vào bênh vực chúng, thử hỏi các ông là loại người nào ?
Viết đến đây, chúng tôi lại thấy cần phải kính cẩn nghiêng mình trước hương hồn thiếu tướng Tô Ký. Hồi anh Ba Tô Ký còn sống và đang giữ chức chủ tịch Hội cựu chiến binh thành phố, đọc xong bài phê bình hội thảo Gia Long, anh đã nói ngay với đ/c Trần Viết Tá - Tổng biên tập báo Cựu chiến binh thành phố :
- Tôi không quen biết tác giả bài này, nhưng đây là một bài viết tốt có quan điểm đúng, anh cứ cho đăng rồi ta gặp tác giả sau.
Khi nhận được báo biếu và tiền nhuận bút, chúng tôi ngạc nhiên liền hỏi số điện thoại và nói chuyện với Thiếu tướng Tô Ký :
- Thưa anh, chúng tôi không gửi bài đến tòa báo mà anh lại ra lệnh cho đăng. Đó là một việc làm sai nguyên tắc, nhưng các anh đã sai nguyên tắc một cách rất đáng yêu. Nếu ai cũng "sai" được như các anh thì tình hình đỡ quá. Xin cảm ơn các anh.
Đấy, những người cách mạng và cộng sản thứ thiệt đều nhạy cảm với chân lý khoa học và có ý thức bảo vệ lịch sử, bảo vệ dân tộc như thế đó. Đúng là cái máu Vân Tiên, Tử Trực của bà con Nam Bộ. Máu "nghĩa sĩ Cần Giuộc", Nam Kỳ khởi nghĩa, Nam Bộ kháng chiến cũng là cùng một thứ máu này đây.
Như thế là đăng hay không đăng, đăng cái gì hay không đăng cái gì, thật là một tình trạng hết sức tùy tiện. Tình hình xuất bản cũng tương tự.
Ở TPHCM, tháng 10 vừa qua, xảy ra một vụ án hiếm có : tác giả kiện nhà xuất bản. Giám đốc NXB là ông Đinh Quang Nhã, một nhà văn Nam Bộ nổi tiếng. Tác giả đi thưa kiện là ông Lương Vĩnh Kim, luật sư, con nhà liệt sĩ, dân tập kết đã được miền Bắc XHCN nuôi dưỡng đào tạo. Trước khi đến NXB Văn Nghệ để ký hợp đồng liên kết xuất bản, ông Kim đã đưa tác phẩm của mình đến hai nhà xuất bản - NXB Cà Mau và NXB Trẻ. NXB nào cũng đưa giấy phép rồi lại tìm cách rút lại. Đến NXB Văn Nghệ, ông Kim mới được ông Nhã giao giấy phép cho in. Sách đang in thì ông Nhã đòi lại giấy phép. Ông Kim không trả lại giấy phép và cứ đưa sách ra thị trường. Thị trường tiếp nhận, sách bán chạy, ông lại in tiếp. Ông Nhã liền ký quyết định thu hồi sách của ông Kim. Sở văn hóa thông tin cũng phối hợp với NXB Văn Nghệ ra công văn nội bộ yêu cầu các cơ sở phát hành quốc doanh không nhận phát hành sách của ông Kim. Sau khi nhận đơn kiện của ông Kim, Tòa án dân sự TPHCM hoãn đi hoãn lại khoảng 4 lần mới mang ra xét xử. Tình tiết vụ án thì có nhiều nhưng có hai vấn đề mà những người dự phiên tòa và dư luận quan tâm là:
1. Ông giám đốc Đinh Quang Nhã có thẩm quyền ký quyết định thu hồi sách hay không ?
2. Giấy phép xuất bản cho in 1000 cuốn, ông Kim có quyền in thêm không ?
Tất nhiên, dù biện bạch kiểu nào thì việc ông Đinh Quang Nhã ký quyết định thu hồi sách vẫn là sai pháp luật. Luật báo chí và xuất bản đã ghi rõ thẩm quyền này thuộc ông Bộ trưởng Bộ Văn hóa hoặc ông Chủ tịch UBND thành phố. Còn ông Kim thấy sách của mình bán chạy, muốn in thêm thì phải xin phép, như thế cũng là sai pháp luật.
Nhưng Tòa sẽ kết án và phạt ông Nhã hay ông Kim như thế nào, điều đó chúng tôi không quan tâm nhiều lắm. Vấn đề chủ yếu mà chúng tôi muốn nói đến là có nên để cho các NXB cản trở việc các tác giả chân chính đưa sách của mình ra thị trường hay không ? Luật xuất bản ghi rõ nước ta không có chế độ kiểm duyệt nhưng thực tế một vị sử gia kiêm cách mạng lão thành đã nhận xét : hiện giờ ta còn kiểm duyệt khắc nghiệt hơn thời Pháp thuộc.<!--nextpage-->
Chúng tôi thấy vừa khắc nghiệt vừa chẳng khắc nghiệt gì cả. Nếu kiểm duyệt khắc nghiệt sao vài chục năm qua, sách vụ án, tình dục, bạo lực, sách cổ động quảng cáo cho vương triều Nguyễn, cổ động cho Nho giáo, hương ước, bói toán, dịch số ... và ngay hiện nay thì sách Tam tông miếu, tử vi ... cứ in và phát hành tơi tới. Chưa kể các vụ băng đĩa in lậu và bán công khai trên đường phố.
Còn một cuốn tiểu thuyết hay một tập thơ phải viết dăm ba năm mới xong, một tập sách nghiên cứu phải viết hàng chục năm mới xong, đưa đến cho các NXB, vị nào cũng lắc đầu : sách tốt, nhưng phải cái kén khách khó bán lắm ! Họ chỉ chấp nhận loại sách tốt nhưng với điều kiện tác giả nộp tiền "quản lý phí" cho họ (nói nôm na là mua giấy phép và trả công biên tập cho họ, tiền nộp tỷ lệ nghịch với mức độ khắc nghiệt), và tác giả phải tự bỏ tiền túi ra mà lo liệu từ A đến Z.
Cái hay là sách xấu ra đời tràn lan nhưng chưa một vị giám đốc xuất bản, một vị giám đốc Sở Văn hóa Thông tin hoặc Cục trưởng, Vụ trưởng, Thứ trưởng, Bộ trưởng Văn hóa nào bị đưa ra tòa.
Sách làng nhàng nhạt nhẽo, vô thưởng vô phạt bao giờ chẳng chiếm số đông và cũng chẳng cần ai chịu trách nhiệm về nó.
Chỉ thương cho số phận những cuốn sách tốt và các tác giả của nó long đong lận đận trong cuộc đời. Họ chỉ còn biết nuôi hy vọng ở hậu thế.
Một câu hỏi được đặt ra : chúng ta có đặt quyết tâm tha lôi tình trạng này sang thế kỷ mới hay không ?
Hẳn các vị đang hưởng đặc quyền đặc lợi trong lĩnh vực báo chí và xuất bản sẽ đưa ra đủ thứ lý lẽ lỗi thời và ngụy biện đủ kiểu để chứng minh rằng phải giữ nguyên trạng độc quyền báo chí và xuất bản mới có thể bảo vệ được chế độ và định hướng XHCN.
Vâng, nếu quả các vị đúng và các vị tiếp tục thắng thế thì chúng tôi đành nhường quyền cho lớp con cháu đến sau phân xử ?
Chỉ biết rằng báo chí và xuất bản chơi kiểu vừa qua là kém hiệu quả chưa kể có những trường hợp còn gây ra tai hoạ. Cụ thể là nếu báo chí ta từ trung ương đến địa phương làm ăn tử tế , xử lý thông tin kịp thời, thảo luận vấn đề cho ra môn ra khoai và hiến kế cho trung ương đầy đủ thì đâu đến nỗi có những vụ như vụ Thái Bình gây kinh động dư luận toàn quốc, làm gì có những vụ tham nhũng khủng khiếp như dệt Nam Định, rừng Tánh Linh, Tamexco, Tân Trường Sanh, Eỉpco- Minh Phụng,.. Làm gì có các vụ hội thảo Gia Long, hội thảo Việt Nhật. Và thử hỏi còn biết bao vụ việc nữa ta chưa được biết.
Thế mới biết, khi báo chí là phương tiện thông tin đã biến thành phương tiện bưng bít và cản trở thông tin thì nguy hại biết chừng nào. Còn nhìn ra thế giới chẳng lẽ hằng trăm nước họ cho tự do báo chí và xuất bản, chế độ của họ đều sụp đổ cả chăng ?
Dù có nhiều người không hài lòng, chúng tôi cũng xin phép được nói thẳng một sự thật là tự do báo chí theo kiểu của ta hiện nay thực ra chỉ là trao quyền tự do cho những kẻ cơ hội tham lam và dối trá. Trong tình hình tự do như thế này, những người cầm bút chân chính bị bịt miệng, bó tay, không thể thực thi sứ mệnh của mình : cầm bút như cầm một thứ vũ khí để bảo vệ Nhân Dân, bảo vệ Cách Mạng và Công Lý. Người cầm bút nào quên sứ mệnh cao cả, thiêng liêng này, nên đọc lại truyện ngắn "Bút máu" của nhà văn Vũ Hạnh. Nỗi lo lắng của chúng tôi là nếu không chỉnh đốn thực sự tình hình báo chí và xuất bản hiện nay thì thế hệ cầm bút trẻ kế cận sẽ không sao tránh khỏi bị ô nhiễm, học tập các đàn anh, đàn chị cơ hội mà trở thành hư hỏng. Cũng nên nói thẳng với các em, cái cháu rằng : nếu chỉ đặt mục đích cuộc đời một cách bình thường là lo kiếm cơm và làm giàu thì chớ lựa chọn nghề cầm bút. Cuộc đời, dù chấp nhận bao cấp hay cơ chế thị trường tác oai tác quái vẫn có những nghề cực kỳ cao quí, đòi hỏi nhiều kiên trì, nhẫn nại và hy sinh. Nghề giáo, nghề y, nghề luật, nghề văn, nghề nghiên cứu ... là những nghề như thế. Đặc biệt nghề cầm bút, dù anh viết báo, viết văn hay viết nghiên cứu cũng phải vì chân lý, công lý và sự phát triển của dân tộc mà viết.
Mới nghe qua thì có vẻ như lý thuyết cao xa, quan trọng hóa vấn đề, nhưng nếu không hiểu đúng như thế thì người ta lý giải sao được tình cảm quí trọng của Nhân Dân dành cho những người cầm bút. Quyền gì đâu, chức gì đâu mà lại được trọng thị một cách thật đặc biệt. Chỉ cần nhắc đến tên những người đã từng xông pha nơi trường văn trận bút như Tản Đà, Nguyễn An Ninh, Phan Văn Trường, Nguyễn Ái Quốc, Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu, Ngô Đức Kế, Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn Thị Minh Khai, Vũ Trọng Phụng, Vũ Bằng, Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Hải Triều v.v. là mọi thế hệ đều cảm thấy ấm lòng, tin yêu thêm cuộc đời và vững lòng tiến bước.
Thử hỏi nếu những người cầm bút Việt Nam không kế thừa xứng đáng những ngọn bút Chu Văn An, Lê Cảnh Tuân, Ngô Thì Nhậm, Hồ Xuân Hương, Tú Xương, Nguyễn Đình Chiểu, Phan Văn Trị, Nguyễn Trường Tộ, Phan Đình Phùng, Huỳnh Mẫn Đạt, Bùi Hữu Nghĩa, Học Lạc v.v. thì giá trị của họ sẽ ra sao ? Đất nước này sẽ ra sao ?
Không thể viết mơ hồ như nhà văn Hoàng Lại Giang : "Phan Thanh Giản nghĩ rằng : Dân ta còn thì nước ta còn" (Phan Thanh Giản - nỗi đau trăm năm). Cũng chẳng khác, ông Phạm Quỳnh từng hô hoán : "Truyện Kiều còn - tiếng ta còn, tiếng ta còn - nước ta còn".
Vấn đề là còn như thế nào chứ ?
Còn trong cảnh rạng rỡ sạch bóng quân thù và làm người tự do, hay còn trong cảnh đất nước đầy vết giày đinh quân xâm lược và làm thân trâu ngựa ?
Nếu quan niệm còn theo kiểu các ông Phan Thanh Giản và Phạm Quỳnh thì hóa ra các ông Trương Định, Nguyễn Trung Trực, Thủ Khoa Huân, Phan Trung, Nguyễn Thông, Hoàng Hoa Thám, Nguyễn Thái Học v.v. và tất cả những người đã dẫn dắt nhân dân vùng dậy chống ngoại bang xâm lược đều là kém thức thời, ngu tối, dở hơi, hiếu chiến cả hay sao ? Phải công bằng mà đánh giá rằng anh Hoàng Lại Giang là một ngòi bút tài năng và đã viết được một số tác phẩm tốt, nhưng chúng tôi không hiểu vì sao khi viết về Phan Thanh Giản anh lại nhầm lẫn nghiêm trọng đến thế ! Viết tiểu thuyết lịch sử mà anh hư cấu một cách vô nguyên tắc. Anh lại cho nhân vật Phan Thanh Giản của anh đọc Binh thư yếu lược của Trần Hưng Đạo, ngẫm nghĩ về thơ Nguyễn Trãi rồi trăn trở suy tư hết hồi này đến hồi khác về DẤN, về NƯỚC; rồi nhân vật của anh lý sự về địch mạnh ta yếu nên cần phải ký nhượng ba tỉnh Nam Kỳ rồi bị kẻ địch đánh lừa mà mất nốt ba tỉnh miền Tây còn lại; rồi nhịn ăn 15 ngày, rồi uống thuốc độc tự tử. Rồi anh lại hư cấu thêm một nhân vật là Phan Dĩ Thử, một người gần như tâm huyết tri kỷ của Phan Thanh Giản, cảm phục quá, thương cảm quá, cũng uống thuốc độc tự tử theo. Và thế là tác phẩm kết thúc. Tư tưởng chủ đề gần như được đúc kết trong câu : Lá cờ ba sắc không thể phấp phới ở nơi mà Phan Thanh Giản và Phan Dĩ Thử còn sống.
Anh Hoàng Lại Giang thử hình dung xem nếu đồng bào Nam Bộ hay nói rộng ra là đồng bào cả nước ta lại suy nghĩ, sống và hành động theo kiểu Phan Thanh Giản thì đất nước Việt mình sẽ ra sao ? Và nhà văn Hoàng Lại Giang thử nằm mơ gặp các cụ Trương Định, Nguyễn Trung Trực, Phan Văn Trị rồi thuật lại cho bạn đọc chúng tôi xem các cụ phán bảo ra sao ?
Thấy tác phẩm của anh bán chạy, tái bản đi, tái bản lại mấy lần, chúng tôi cũng mừng cho chuyện thu nhập của anh nhưng quả thật là lo lắng nhiều hơn.
Những người hiện được cử đi giao lưu hợp tác liên doanh, liên kết mà mang cái tâm thế Phan Thanh Giản thì nguy hiểm biết chừng nào ! Họ mạnh về vốn, về kỹ thuật và công nghệ, ta yếu đủ thứ, phải tỏ ra biết người, biết mình chứ. Thế là bảo nhau thức thời thỏa hiệp vô nguyên tắc.
Họ có biết đâu rằng khi cần thỏa hiệp thì Cụ Hồ vẫn thỏa hiệp, nhưng không bao giờ Cụ bỏ nguyên tắc. Thỏa hiệp hay nhân nhượng mà vi phạm đến chủ quyền đất nước là không thể chấp nhận được.
Vậy, "nỗi đau trăm năm" là thế nào ? Đó là nỗi đau của một người, một nhà hay là nỗi đau của cả dân tộc ? Kỹ thuật viết trong tác phẩm này là khá cao nhưng hình như càng cao tác phẩm lại càng hỏng.
Chúng tôi cũng chân thành chia buồn với nhiều nhà văn nhà thơ hiện nay chạy theo kỹ thuật mà làm hỏng tài thơ tài văn của mình.
Chúng tôi cũng lấy làm lạ cho giới nghiên cứu lý luận và giới phê bình của ta. Đối với những cuốn sách hư hỏng như cuốn "Phan Thanh Giản - nỗi đau trăm năm", hai tập kỷ yếu của hội thảo Việt Nhật và một số cuốn khác thì họ im lặng không phê phán (riêng cuốn truyện danh nhân Phan Thanh Giản còn được giáo sư Hoàng Như Mai, chủ tịch Hội nghiên cứu văn học và giảng dạy - tổ chức và thân chinh đứng ra giới thiệu và cổ động coi như một cuốn tiểu thuyết lịch sử chân chính. Tháng 12 vừa qua, trong một cuộc trả lời phỏng vấn báo Tuổi Trẻ , nhà văn Hoàng Lại Giang còn nhấn mạnh ý chúng ta "không nên quá khắt khe với cha ông". Chúng tôi thấy anh Hoàng Lại Giang đặt vấn đề như thế không đúng.
Lớp hậu sinh chúng ta làm gì có quyền khắt khe hay không khắt khe với tiền nhân. Nghiên cứu khoa học cũng như sáng tác văn học nghệ thuật đều rất cần tình cảm nhưng dừng lại ở cảm tính sao được. Không thể theo lẽ phải thông thường "yêu nên tốt ghét nên xấu" hoặc "yêu nhau củ ấu cũng tròn, ghét nhau bồ hòn cũng méo". Từ cảm nhận phải nâng lên cấp độ thức nhận với những tiêu chí chuẩn mực rõ ràng mới có khả năng đánh giá người và việc.
Chúng tôi đã từng nêu rõ một chuẩn mực hết sức quan trọng của dân tộc ta là :
- Giặc đến thì đánh. Đánh có thể thắng, có thể thua. Không có chuyện hòa. Càng không có chuyện hàng (*1).
Chúng tôi cũng đã làm hai sự so sánh :
- Trương Định quan nhỏ, chức thấp (quản cơ, lãnh binh) học vấn tầm thường nhưng dũng cảm lãnh đạo nhân dân chống giặc, chết nhưng vẫn thành bất tử mà lưu danh thơm muôn thuở.
- Phan Thanh Giản quan to chức trọng (khâm sai đại thần) học vị cao (tiến sĩ) nhưng gan thỏ đế, vâng mệnh triều đình dâng đất cho giặc nên lưu tiếng xấu muôn đời (2).
Chúng tôi cũng so sánh Phan Thanh Giản với Nguyễn Tri Phương và Hoàng Diệu.
- Hoàng Diệu chiến đấu đến cùng và chết theo thành.
Sao lại có thể xếp cùng loại với cái chết của Phan Thanh Giản.
Dứt khoát không thể đánh đồng sự hy sinh hoặc tuẫn tiết của những người có trách nhiệm với dân với nước và cái chết của những người vô trách nhiệm.
Chúng tôi cũng xin nhắc lại : cần phải công bằng đối với Phan Thanh Giản. Về mặt phẩm chất cá nhân, ông là một người học giỏi, làm thơ hay, làm quan thanh liêm và giàu lòng nhân ái ... Về trách nhiệm đối với lịch sử, cũng không thể dồn hết tội lỗi cho ông. Dù làm đến cơ mật Viện đại thần, ông vẫn chỉ là người thừa hành. Chịu trách nhiệm chính phải là người ra lệnh tức là vua Tự Đức.
Cũng chính do không nắm vững chuẩn mực nên giáo sư, tiến sĩ Trần Hữu Tá đã viết hẳn một công trình nghiên cứu khẳng định ông Trương Vĩnh Ký là người yêu nước và là nhà văn hóa lớn của dân tộc (Kiến thức ngày nay số ........).
Thế nào là danh nhân văn hóa ?
Ở phần trên, chúng tôi đã nêu cái nhầm của giáo sư Hoàng Như Mai và tiến sĩ Mai Quốc Liên khi hai ông khẳng định các vua Minh Mệnh, Tự Đức là những ông vua văn hóa, những nhà văn hóa. Không thể căn cứ vào việc người này sáng tác một số tập văn, tập thơ hoặc biên soạn công trình này công trình khác, người kia thì bỏ công của xây dựng một số cung điện, lăng tẩm, hoặc đôn đốc quốc sử quán biên soạn bộ Thực lục này, bộ Hội điển khác mà coi họ là nhà văn hóa được.
Chúng ta đã nhiều lần phải nhắc nhau phân biệt cho rõ khái niệm văn hóa và học vấn. Anh học nhiều hay học ít, đỗ cao hay đỗ thấp, uyên thâm hay thiển cận, đó là thuộc trình độ học vấn của từng người hoặc từng nhóm xã hội. Trình độ văn hóa của một người không phải lúc nào cũng phụ thuộc vào trình độ học vấn hoặc tỷ lệ thuận với trình độ học vấn. Nhiều người có trình độ học vấn bình thường nhưng lại có trình độ văn hóa rất cao, ngược lại có những người trình độ học vấn rất cao nhưng trình độ văn hóa lại rất thấp. Người có nhân cách văn hóa là người biết thương yêu đồng loại và giúp cho đồng loại phát triển.
Chúng tôi đã có vài dịp trình bày với giới nghiên cứu một cái định nghĩa về bản sắc văn hóa dân tộc. Đó là toàn bộ nếp cảm, nếp nghĩ và nếp sống của dân tộc trong quá trình phát triển. Còn toàn bộ y phục, ẩm thực, lễ hội, tập quán phong tục, tác phẩm văn học nghệ thuật, công trình kiến trúc v.v. chẳng qua là sản phẩm, là kết quả cụ thể của nếp cảm, nếp nghĩ và nếp sống đó.
Cho nên nói kế thừa truyền thống văn hóa hay bảo vệ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, trước hết và chủ yếu là kế thừa bảo vệ, phát huy nếp cảm, nếp nghĩ, nếp sống tốt đẹp của dân tộc. Tất nhiên, nếp nào, thói nào, tục nào đã hủ lậu, lỗi thời thì cũng nên đào thải, như thế mới phát triển được.<!--nextpage-->
Có những người làm lý luận không tinh, nghiên cứu văn hóa không tinh, lại hô hào phục hồi đủ các thứ hủ bại lỗi thời. Rồi bản thân mình thân danh là bí thư huyện ủy, tỉnh ủy mà lại đi tổ chức ma chay cưới xin, sinh nhật rình rang tốn kém làm gương xấu cho mọi người. Cho nên người thì thật lòng muốn khôi phục truyền thống tốt đẹp bị đứt đoạn, lãng quên, kẻ thì cũng dựa vào danh nghĩa bảo vệ bản sắc dân tộc, dùng toàn một giọng mị dân tộc. Như thế là họ muốn cho dân tộc phát triển theo kịp với anh chị em trong khu vực và thế giới hay họ muốn cho dân tộc giậm chân tại chỗ và suy thoái.
Cho nên khi nói đến nhân cách văn hóa của một ai đó chính là người ta tính đến nếp cảm, nếp nghĩ, nếp sống có phù hợp với sự phát triển của dân tộc hay không chứ đâu có dừng lại ở phạm vi hạn hẹp ăn uống, ăn mặc hội hè, lễ lạy ra sao. Ắn canh cua, cà pháo, mắm tôm là một đặc điểm của Việt Nam, nhưng đâu có phải không biết ăn cà pháo, mắm tôm thì không thành người Việt Nam.
Có mấy ông thi sĩ viết được dăm ba tác phẩm kha khá thế là khủng khỉnh làm cao rồi lại đem thơ dán lên mẹt đem triển lãm, cứ tưởng thế là dân tộc.


Dân tộc là phải từ trong máu, trong não chứ có đâu phải là hình thức bề ngoài. Đâu có phải cứ khăn đóng áo dài, sì sụp lễ lạy, đình đám xôi thịt tưng bừng tốn kém mới là dân tộc. Cũng không phải cứ cầm bút viết văn, làm thơ, làm nghiên cứu là tự nhiên có nhân cách văn hóa.
Chúng tôi cũng không hiểu giáo sư Hoàng Như Mai, giáo sư Trần Hữu Tá khi mở trường dân lập Trương Vĩnh Ký thì sẽ giáo dục học sinh học tập truyền thống của "danh nhân văn hóa" này ra sao ? Chẳng lẽ lại giáo dục các cháu học sinh rằng : khi giặc ngoại xâm đến cứ thức thời cộng tác với giặc hoặc viết thật nhiều sách phục vụ cho mục đích đô hộ của giặc. Chớ có dại dột chống lại kẻ địch mạnh hơn mình như các ông Trương Định, Thủ Khoa Huân, Nguyễn Trung Trực. Chính bản thân ông Trương Vĩnh Ký cũng đã phải viết : "Cuốn sổ bình sinh công với tội".
Chúng ta thông cảm với lòng ăn năn hối hận của ông và đánh giá đúng những gì mà ông đã đóng góp được cho văn hóa nước nhà, dù là vô tình. Ông Trương Vĩnh Ký trong thư từ giao dịch với bọn ngoại xâm Pháp lúc bấy giờ cũng đã ý thức được rằng mình soạn sách chữ Quốc ngữ là để giúp cho bọn thực dân thống trị thực hiện việc đồng hóa theo nền văn minh chữ La tinh, tìm cách cắt đứt truyền thống với văn hóa chữ Hán, cắt đứt hẳn ảnh hưởng của văn minh Trung Hoa mà các nho sĩ ta đã thấm nhuần trong nhiều thế kỷ.
Trong giới nghiên cứu chúng ta thường hay có sự nhầm lẫn giữa mục đích và hệ quả : các giáo sĩ Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Pháp .. làm ra chữ Quốc ngữ với mục đích truyền đạo cho nhanh, mở nước Chúa cho rộng (thực chất là mở rộng thị trường cho CNTB phương Tây). Họ đều lợi dụng tôn giáo để phục vụ cho bọn tư bản, thực dân để nô lệ hóa dân mình. Còn sau này ta lợi dụng chữ Quốc ngữ để làm phương tiện phát triển văn hóa của mình, đó là sự khôn ngoan của dân mình. Phải coi đó là một hệ quả tất nhiên chứ không được lẫn với mục đích của người sáng tạo ra những thứ đó. Do vậy, việc gì mình phải hội thảo để tưởng nhớ công ơn ngài Alexandre de Rhode, rồi lại bàn nhau dựng lại tượng và đặt tên đường phố để kỷ niệm công ơn của ngài.
Nếu thế thì tại sao lại có chuyện "nhất bên trọng, nhất bên khinh" được ? Sao không hội thảo về ngài Sĩ Nhiếp rồi cũng dựng luôn tượng và đặt tên đường để ghi nhớ công ơn ngài về việc ngài có công phổ biến chữ Hán và văn hóa Hán tộc. Và cả các ngài thái thú Nhâm Diên, Tích Quang nữa chứ. Các cụ hủ nho xưa đã nhầm, đã dạy dân là phải biết ơn "công khai hóa" của các ngài, và tôn ngài Sĩ Nhiếp là "Nam Giao học tổ" Bao thế kỷ trước các vị hủ nho đã nhầm, bây giờ cuối thế kỷ 20 lại có các vị hủ Mác cũng nhầm. Nghĩ mà thấy sợ ! Thật chẳng khác gì một ông chủ nhà sau khi đánh đuổi được bọn cướp rồi nhặt được con dao sắc do chúng cuống cuồng bỏ chạy đánh rơi lại, rồi dùng dao vừa thái thịt, vừa chặt củi, vừa tấm tắc : May quá, nhờ nó bỏ lại mới có con dao tốt này ! Rồi lại dặn con cháu phải biết ơn bọn cướp. Đứa nào cãi và vạch ra mục đích của bọn trộm cướp thì lại qui ngay cho là : vong ân bội nghĩa. Thật là ngớ ngẩn !
Tượng Hai Bà Trưng, tượng Lý Thường Kiệt, tượng Bà Triệu, tượng Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du, Tú Xương, Nguyễn Đình Chiểu, Phan Văn Trị, Thủ Khoa Huân, Tạ Quang Bửu, Trần Đại Nghĩa, Tôn Thất Tùng, Đặng Văn Ngữ ... và bao nhiêu danh nhân lịch sử, danh nhân văn hóa Việt Nam khác không lo dựng mà đi lo mấy việc tá ơm. Đúng là "việc nhà thì nhác, việc chú bác thì siêng".
Xin phép trở lại vấn đề sách xấu, sách tốt. Sách xấu thì lờ đi không phê phán, không thu hồi, nhưng cứ có quyển sách tốt nào, vừa thò mặt ra thì hò nhau xúm đánh làm cho tác giả thất điên bát đảo, bại hoại gân cốt.
Tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài tuy có khuyết điểm này, sai lầm khác, nhưng vẫn là những tác phẩm hay, đánh dấu một giai đoạn phát triển mới của văn xuôi Việt Nam.


Cuốn "Cơ hội của chúa" của Việt Hà cũng là một tiểu thuyết hiện thực có giá trị. Gần đây, phần văn xuôi của Trần Đăng Khoa được đông đảo bạn đọc ưa thích, vì trong cái giọng văn bình dị sáng sủa của anh đã chứa đựng một loạt vấn đề có khả năng kích thích và thúc đẩy sự phát triển của tư duy xã hội.
Thế mà người ta cứ làm ầm ĩ như sắp sập trời sập đất, rồi kéo nhau xúm lại đánh đòn hội chợ, phang đập túi bụi. Trường hợp cuốn "Cơ hội của Chúa" thì lại sinh ra một tiền lệ mới : Sở Văn hóa Thông tin TPHCM lại triệu tập cả Ban Tư tưởng văn hóa thành ủy, P.A.25, Hội liên hiệp văn học nghệ thuật TPHCM và một số đại biểu khác họp bàn và nhất trí làm công văn kiến nghị với Bộ Văn hóa Thông tin yêu cầu thẩm định lại giá trị cuốn sách.
Thế là, trong khi cuốn tiểu thuyết được dư luận tán thưởng và được những cây bút phê bình đứng đắn khen ngợi thì cơ quan phụ trách văn hoá của thành phố lại phản đối.
Dư luận lại được một phen xôn xao bàn tán và nhiều người, trong đó có chúng tôi, thực sự tỏ ra phân vân về một loạt vấn đề mang tính nguyên tắc:
- Phải chăng trình độ thẩm định tác phẩm của Sở Văn hóa Thông tin địa phương ?
- Phải chăng mọi người - kể cả Bộ Văn hóa - nên nghe theo ý kiến của ông Lê Hồng Liêm - giám đốc Sở VHTT, ông Trần Văn Tạo - trưởng Ban Tư tưởng văn hóa thành ủy, đại biểu phòng P.25, ông Bảo Định Giang - chủ tịch Hội LHVHNT TPHCM và những người khác ..., tất cả đều là không có thời gian, không có điều kiện hoặc không có trình độ để chuyên tâm nghiên cứu lý luận văn học và cập nhật về lý luận văn học, hay nên nghe theo ý kiến của những nhà phê bình chuyên nghiệp, làm ăn đứng đắn tử tế như các ông Hoàng Ngọc Hiến, Lại Nguyên Ấn, Vương Trí Nhàn ... ?
- Phải chăng cứ có dư luận quần chúng hoặc dư luận của giới lãnh đạo xôn xao về một tác phẩm nào đó, là ta hoảng hốt đến mức mất cả tỉnh táo sáng suốt, trông gà hóa cuốc, giặc chẳng bắt lại đi bắt thầy tu. Các cụ xưa đã dạy : người ba đấng, của ba loài. Dù là quần chúng hay lãnh đạo cũng cần phân loại cho rõ. Nghe theo ý kiến bộ phận tiên tiến chứ nghe theo ý kiến bộ phận trung bình và lạc hậu sao được ?
Nhớ lại ngày nào, người ta căn cứ vào ý kiến của một vài cá nhân lãnh đạo và một bộ phận quần chúng chưa phải là tiên tiến rồi xúm vào đánh dập đánh vùi Con nai đen, Nguyễn Trãi ở Đông Quan của Nguyễn Đình Thi; Sắp cưới của Vũ Bão, Phở của Nguyễn Tuân, Đống rác cũ của Nguyễn Công Hoan, Vào đời của Hà Minh Tuân, Con chó xấu xí của Kim Lân, Phá vây của Phù Thăng, Cây táo ông Lành của Hoàng Cát, Chín mươi chín chân dung nhà văn của Xuân Sách. Đặc biệt trong vụ đánh tiểu thuyết Cù Lao tràm của Nguyễn Mạnh Tuấn, ông Trần Bạch Đằng huy động cả một đội ngũ thủ túc ở TPHCM và cả mấy tỉnh đồng bằng sông Cửu Long nhất tề xông tới lấy thịt đè người. Cũng may lý lịch và nhân thân của tác giả thuộc loại tốt và tác phẩm thuộc loại lành mạnh, tốt, nên cả Nguyễn Mạnh Tuấn và anh Hà Mậu Nhai - giám đốc NXB Văn Nghệ TP đều thoát hiểm. Chúng tôi nhớ mãi lời khuyến cáo của anh Hà Mậu Nhai khi duyệt xuất bản tập thơ Gửi nhà thơ quên sứ mệnh : " Ông còn làm ăn lâu dài ở đất này nên tránh mặt họ ra", do đó chúng tôi vui lòng rút đi một khổ thơ sau đây :
Nhà thơ hỡi !
Anh không căm phẫn chăng ?
Khi anh em nhà Tư Hoan
đang hè nhau cắn xé Cù Lao Tràm
ngậm máu phun vào tác giả.
(Trần Khuê - Gửi nhà thơ quên sứ mệnh)
Nghĩ lại một thời ấu trĩ, đọc lại những bài được gọi là "phê bình" của các ông Hoài Thanh, Vũ Đức Phúc, Lê Đình Kỵ, Hà Xuân trường, Hà Minh Đức, Phan Cự Đệ v.v. và một số cây bút khác, thi nhau bốc thơm tác phẩm này, vùi dập tác phẩm khác mà không tránh khỏi rùng mình. Mượn danh nghĩa bảo vệ đường lối văn nghệ của Đảng, người ta thản nhiên làm thui chột biết bao tài năng, hủy hoại biết bao trí tuệ của dân tộc. Chúng tôi cũng thông cảm và dư luận cũng thấy cần phải thể tất với ông Hoài Thanh khi nghe tin lúc sắp từ giã cõi đời, ông đã tỏ ra ân hận và chỉ mong ông Xuân Sách sửa lại cho một chữ trong bức chân dung của mình để đúng với hoàn cảnh thực tế hơn. Đó là chữ phải thay cho chữ lại trong câu :
Vị nghệ thuật mất nửa đời
Còn lại nửa đời lại vị người trên
Đ/c Tố Hữu trước sau vẫn xứng đáng là ngọn cờ đầu của thơ ca cách mạng nhưng đồng chí có phải chịu trách nhiệm gì không trong thời kỳ đ/c làm Trưởng ban tuyên huấn của Trung ương Đảng, trực tiếp chỉ đạo đánh hết vụ này đến vụ khác ? Đ/c Tố Hữu cũng như tất cả những người phụ họa có khi nào cảm thấy lương tâm mình bị cắn rứt không ? Chẳng lẽ khi nghĩ đến những văn nghệ sĩ suốt cả một đời đi theo Đảng, phục vụ cách mạng, phục vụ dân tộc mà bỗng chốc vì bị "xưng xuất" điều này điều khác mà đến nỗi phải treo bút ba chục năm liền, có những người chết mòn trong đói khổ nhục nhã, oan khuất mà không ai có một chút động tâm nào chăng ?
Cần nhớ rằng mọi chuyện xảy ra trên đời này đâu phải chỉ có ta với ta trong hiện tại mà còn con cháu chúng ta nữa chứ, khinh thường bia miệng thế gian sao được !
Muộn còn hơn không, nếu ai trong chúng ta đã trót lầm lỗi mà biết sám hối hẳn có thể thanh thản ra đi và hưởng được sự khoan dung của cuộc đời.
Ông Đặng Tiểu Bình được Trung Quốc coi là một người có công lao lớn và là một nhà lý luận hiện đại, trước lúc sắp qua đời còn nói được một câu tỏ ra ân hận về vụ đàn áp ở Thiên An môn. Trung Quốc. Những người có lương tri trên thế giới này chỉ càng thấy đáng quí trọng ông hơn mà thôi.
Ông Khơ-rut-sốp quyền lực tót vời, đã một thời dọc ngang trời đất, khi thất thế vẫn còn biết tỏ ra ân hận vì đã ra lệnh đàn áp những người chân chính như nhà văn Patesnak. Và ông cũng chân thành thú nhận rằng ông chưa hề đọc tác phẩm "Bác sĩ Zivago" (một tác phẩm văn học được coi là chống chế độ Xô Viết). Chỉ thế thôi cũng đủ cho nhân dân và lịch sử thể tất cho Khơ-rut-sốp.
Có thể nói, đây là một nếp rất xấu trong lề lối suy nghĩ và hành động của những người lãnh đạo cao cấp trong các đảng cộng sản ở phe XHCN trước đây. Kẻ thù giai cấp của chúng ta khi làm sai còn biết cử nhau lên đài truyền hình để công khai xin lỗi công chúng, ta thì không. Họ xin lỗi đấy nhưng rồi họ vẫn tiếp tục làm sai vì đó là thuộc bản chất của họ. Còn ta sao ta lại có thể tiếp tục cũng làm sai như họ. Mà làm sai mấy chục năm liền, không cho ai nói động đến. Nói thì vu cho đủ tội rồi ra tay trấn áp với danh nghĩa tưởng như rất đúng đắn : trấn áp kẻ thù giai cấp để bảo vệ nhân dân. Nhưng thực chất là họ đang trấn áp nhân dân và làm lâm nguy chế độ. Chúng tôi quan niệm rằng những người trí thức chân chính là tinh hoa của dân tộc, là đại diện chân chính của nhân dân ở bất cứ thời đại nào. Đàn áp họ chính là đàn áp nhân dân. Và bất cứ lực lượng nào đã đàn áp nhân dân thì phải sụp đổ. Đó là qui luật tất yếu không một giai cấp thống trị nào thoát khỏi.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét