Thứ Ba, 21 tháng 4, 2020

CHỈNH ĐỐN ĐỂ TỒN TẠI VÀ PHÁT TRIỂN

CHỈNH ĐỐN ĐỂ TỒN TẠI VÀ PHÁT TRIỂN

TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU VĂN HÓA CỔ VIỆT NAM - ĐÔNG NAM Á TP HỒ CHÍ MINH - 1999

TP Hồ Chí Minh, ngày18 tháng 1 năm 1999


Anh Nguyễn Minh Triết kính mến,
Chúng tôi trân trọng gửi anh bài "CHỈNH ĐỐN ĐỂ TỒN TẠI VÀ PHÁT TRIỂN".
Đồng thời xin gửi tặng anh hai bài phê bình Hội thảo Việt - Nhật và Hội thảo Gia Long.
Nếu nhận được mong anh tin cho chúng tôi biết. 
Kính chúc anh luôn luôn mạnh giỏi.
Kính thư


 Trần Khuê
296 - Nguyễn Trãi – Q.5
TP Hồ Chí Minh
Đt: 8.363.825
E-mail: trankhue@hcm.fpt.vn


ChỈNH ĐỐN
ĐỂ TỒN TẠI VÀ PHÁT TRIỂN

Khi chúng tôi đặt bút viết những dòng này thì chỉ còn hơn  400 ngày nữa là nhân loại bước vào thiên niên kỷ mới. Thật là một hạnh phúc hết sức lớn lao đối với tất cả những ai đã qua đi hai cuộc kháng chiến oanh liệt đầy máu lửa và một thời kỳ hòa bình đầy cam go thử thách mà vẫn còn mạnh khỏe và minh mẫn để đón giao thừa thế kỷ kiêm thiên niên kỷ.
Khi đã qua đi tuổi “tri thiên mệnh” để vào tuổi sáu muơi xế chiều như Khổng Tử nói “lục thập nhi nhĩ thuận” (tuổi 60 tai nghe điều gì cũng thấy thuận) không còn sức đâu mà bàn lẽ đúng sai. Lại thêm tâm lý của nhiều kẻ thức giả hiện nay trước những chuyện chướng tai gai mắt vẫn luôn miệng bảo nhau: “Ăn cái giải gì mà nói”. Lại có người tỏ ra bất cần “Họ đều là những kẻ có chức, có quyền, ai họ nghe mình, nói làm gì cho phí lời”.
Người xưa nói đúng: “Quốc gia hưng vong thất phu hữu trách”, tức là đất nước hưng thịnh hay suy vong kẻ tầm thường vô học còn có trách nhiệm huống chi kẻ thức giả. Và phương châm mà Nguyễn Trường Tộ đã theo suốt cả một đời mình cũng rất đúng: “Biết mà không nói là bất nhân, nói mà không nói hết là bất nghĩa”. Bất hạnh cho Nguyễn Trường Tộ là vua quan triều Tự Đức lại thiếu những cái tai biết nghe khiến đất nước đắm chìm và người anh hùng phải ôm hận nghìn thu. Xét cho cùng, đó cũng là bất hạnh chung của những người có tâm huyết với dân tộc và đất nước ở mọi nơi, mọi thời. Vì có dễ gì mà gặp được minh quân, minh chúa, minh chủ tịch, minh tổng bí thư, minh tổng thống!
Cho đến hôm nay những người có lương tri vẫn chưa hết kinh ngạc về sự sụp đổ của Liên Xô và các nước XHCN ở Đông Âu. Người ta cũng bàng hoàng về sự gãy cánh của 5 con rồng Châu Á. Và có thể nào không nhức nhối xót xa trước cảnh các sắc tộc, các tôn giáo hàng ngày bắn giết nhau ở Trung Đông, Bắc Phi, Tây Âu . . .
Muốn đất nước thoát khỏi khủng hoảng không thể không chỉnh đốn một cách toàn diện mà trước hết phải chỉnh đốn về mặt nhận thức.
Không giống nhiều nước khác trong phe XHCN trước đây, nước ta hầu như không có những cuộc tranh luận về chủ nghĩa Marx-Lénine. Ta cứ học rồi hành. Đúng thì thành công, sai thì thất bại. Sai đâu sửa đấy: nhiều khi cái sai sau rất giống cái sai trước. Đối với nhiều người việc học tập chủ nghĩa Marx -Lénine cũng giống như học Tứ thư , Ngũ kinh. Họ tụng Marx -Lénine y như các cụ xưa tụng Khổng-Mạnh. Và họ cũng gọi luôn sách của Marx và Lénine là sách kinh điển (lối gọi tên này rất trái với tinh thần chủ nghĩa Marx-Le'nine). Người sáng tạo thì ít, kẻ rập khuôn thì nhiều. Đọc nhiều, thuộc nhiều, trích dẫn nhiều được coi là thành thạo. Trước đây xã hội ta đã khổ vì các vị hủ Nho, giờ đây lại khổ vì các vị hủ Mác. Cái nguy hiểm cho xã hội, cho cách mạng là có nhiều vị hủ Mác lại được giao phó trách nhiệm viết sách lý luận, viết nghị quyết. . .
Không rõ chuyên viên nào lại đưa vào nghị quyết Đại hội VI cái mệnh đề: “Cần phải đẩy mạnh sản xuất hàng hóa”. Chẳng lẽ người tham mưu cho Trung ương này lại không hiểu rằng hàng hóa là thứ không thể cứ hò nhau “đẩy mạnh sản xuất” là trở thành tốt đẹp. Chẳng lẽ họ lại không cần hiểu một chút nào về luật cung cầu của kinh tế hàng hóa. Đáng buồn là báo chí của ta lúc ấy cũng đồng thanh : ra sức đẩy mạnh sản xuất hàng hóa! Cho đến khi bên Thống kê báo động là đã tồn kho hàng ngàn tỉ đồng hàng hóa không tiêu thụ được, bấy giờ người ta mới giật mình thấy rằng không thể tiếp tục hô hào đẩy mạnh kiểu đó.
Vấn đề đặt ra là tại sao tập thể lãnh đạo và chuyên gia các Viện Kinh tế, Viện Triết học đều im lặng trước tình hình này ?
Vì không có ai phê bình, không có ai góp ý cho nên cái sai vẫn tiếp tục xuất hiện, lần này thì đáng sợ hơn. Ai đó dám chép gần như nguyên văn định nghĩa tư tưởng Mao Trạch Đông trong nghị quyết VI của Trung Quốc thành định nghĩa về tư tưởng Hồ Chí Minh trong nghị quyết VII của ta. Bên kia viết : “ Tư tưởng Mao Trạch Đông là sự vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Marx-Lénine vào thực tiễn cách mạng Trung Quốc” thì bên đây cũng viết : “Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự vận dụng sáng tạo . . .”
Chính người sao chép cũng không hiểu rằng định nghĩa như thế là sai. Vì sự vận dụng sao lại gọi là tư tưởng được ? Lần này có người đã chỉ ra cái sai*  Không có ý kiến nào phản đối. Nhưng cũng không ai chịu sửa. Và hầu như mọi cuốn sách bàn về tư tưởng Hồ Chí Minh của các học giả nổi tiếng đều chép theo điều sai ấy một cách nghiêm chỉnh. Hình như người ta cảm thấy không thể viết khác nghị quyết dù biết đích xác là sai.  Phải thẳng thắn nói rằng đây là một nếp nghĩ rất nguy hiểm vì nó không chỉ cản trở sự phát triển mà nhiều khi còn đưa đến những hậu quả tai hại khôn lường.
Sau vụ Thiên An Môn và một vài vụ việc khác, các lực lượng thù địch với CNXH ở phương Tây ra sức kinh doanh món hàng “dân chủ” và“nhân quyền”. Ngay khi không thể đặng đừng, buộc phải bình thường hóa quan hệ với Việt Nam, xóa lệnh cấm vận, thì tổng thống Clinton cũng không ngần ngại nói trắng ra trong thông điệp của mình rằng sẽ giúp các “chiến sĩ dân chủ lưu vong” “mang lửa về Việt Nam giải phóng quê hương”. Do đo, giao lưu cứ giao lưu, bạn bè cứ bạn bè, nhưng không cảnh giác sao được. Không thể lơ là, ảo tưởng dù chỉ một phút. Nhưng cũng không thể cảnh giác đến mức cứ nói đến “dân chủ” hay “nhân quyền” là cảm thấy như “phạm húy” rồi tự nhiên lâm vào tình trạng rụt rè e ngại, thần hồn nát thần tính. Đến nỗi không dám nhắc đến một cái định hướng, một cái mục đích rất đẹp, rất đúng đã được chủ tịch Hồ Chí Minh ghi rành rành trong Di chúc của Người: “ Chúng ta phải xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh”, chỉ vì một lý do đơn giản là trong lời di chúc thiêng liêng này có hai chữ dân chủ. Thử hỏi khi Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập ở vườn hoa Ba Đình không phải để thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa mà lại lập ra một cái gì đại loại không phải như thế thì liệu có những ai đi theo Hồ Chí Minh ? Nếu không vì để xây dựng và bảo vệ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa thì liệu toàn thể dân tộc Việt Nam có đi theo Hồ Chí Minh và Đảng Lao động Việt Nam hay không ? Toàn thể nhân dân Việt Nam có thể hết thế hệ này đến thế hệ khác sẵn sàng hy sinh của cải và tính mệnh trong 30 năm trường hay không ?
Rõ ràng dân chủ là một cái gì hết sức thiêng liêng, là nhu cầu số 1 của nhân dân, của lịch sử , đồng thời nó cũng là một cái gì thật gần gũi dễ hiểu đối với đời sống cộng đồng và đời sống của từng thành viên trong cộng đồng. Dân ta thì quá thấm thía thế nào là nô lệ, thế nào là dân chủ. Trong vòng hai thiên niên kỷ mà có hàng ngàn cuộc khởi nghĩa nông dân. Chỉ tính riêng có hai đời vua Minh Mệnh và Tự Đức thời Nguyễn đã có hơn 400 cuộc khởi nghĩa nông dân thì đủ hiểu lòng khát khao dân chủ của dân tộc này cao đến mức độ nào ? Không có gì khó hiểu khi người ta chấp nhận : dân chủ hay là chết, tự do hay là chết. Đây không phải chỉ là khẩu hiệu mà là nguyện vọng và ước mơ từ ngàn đời nay của dân tộc: “Sống đục sao bằng thác trong”, Thà mất đầu không chịu cúi đầu”. Người ta đấu tranh với mọi lực lượng áp bức, xâm lược là để trở thành những chủ nhân thực sự của đât nước chứ không phải những “chủ nhân hờ”. Cách đây khoảng ba chục năm có một ông xã viên  một hợp tác xã nông nghiệp ở xã Đặng Xá, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định đã phát biểu một cách hóm hỉnh: “ Cụ Hồ cứ bảo: hợp tác xã là nhà, xã viên là chủ. Nhưng chúng tôi là chủ làm, còn các bố ấy là chủ xơi “. Các bố ấy là ông cụ chỉ ban quản trị HTX. Chúng ta còn nhớ thời ấy lưu hành rất rộng rãi câu ca dao mới :
Mỗi người làm việc bằng hai 
Để cho chủ nhiệm mua đài mua xe
        
...Mỗi người làm việc bằng ba 
Để cho quản trị xây nhà xây sân
Nhớ hồi còn mồ ma đ/c Nguyễn Chí Thanh, ủy viên Bộ chính trị, trong khi đi khảo sát phong trào hợp tác xã thời kỳ “gió Đại Phong, sóng Duyên Hải”, đ/c Thanh đã phát hiện và báo cáo với Trung ương rằng: “Hiện nay các ban quản trị HTX đang đi xe đạp trên lưng xã viên”. Thế nhưng cả Trung ương và Bộ chính trị Lê Duẩn không dám chấn chỉnh tình hình vì ai cũng sợ động đến HTX là xúc phạm đến CNXH, mất HTX tức là mất CNXH.
Chính vì thế mà khi đ/c Kim Ngọc và Tỉnh ủy Vĩnh Phú thấy có những HTX “khoán chui” và làm ăn tốt hơn nơi không khoán đã đề nghị Trung ương cho khoán nhưng Bộ Chính trị Lê Duẩn lại cử luôn đ/c Trường Chinh và một đoàn cán bộ Trung ương về Vĩnh Phú  phê phán đ/c Kim Ngọc và Tỉnh ủy Vĩnh Phú. Nhiều người còn nhớ là đ/c Trường Chinh đập bàn rồi chỉ vào mặt đ/c Kim Ngọc mà rằng: “ Các anh lại đòi khôn hơn Trung ương à? Các anh muốn quay lại CNTB hay sao mà đòi khoán . . .”. Sau đó thì đ/c Trường Chinh viết một cuốn sách do Nxb Sự Thật ấn hành và tất nhiên là báo chí và các phương tiện truyền thông khác đều hưởng ứng lời đ/c Trường Chinh và phê phán đ/c Kim Ngọc cùng Tỉnh ủy Vĩnh Phú. Toàn thể giới nghiên cứu khoa học im lặng. Toàn thể xã hội cũng im lặng và tất nhiên là suy thoái.
Hiện tượng Kim Ngọc chứng tỏ :
1- Về mặt lãnh đạo kinh tế, Đảng ta cũng không thiếu người giỏi có trí tụê tuyệt vời.
2- Việc thiếu dân chủ bàn bạc, xa rời thực tiễn, cứng nhắc theo sách vở dẫn đến tình trạng đàn áp ý kiến nhau một cách vô nguyên tắc, gây hại lớn cho đời sống của nhân dân và uy tín của Đảng.
3- Trong bộ máy Đảng và bộ máy Nhà nước ta cũng có khá nhiều “ Hoà đại nhân” và những kẻ “ngậm miệng ăn tiền”, “thủ thân vi đại”. 
Có một điều thú vị là đất nước Việt ta khi lâm vào tình hình bế tắc bao giờ cũng tìm được lối thoát, đ/c Trường Chinh có sai lầm trong việc phê bình đ/c Kim Ngọc và tỉnh ủy Vĩnh Phú về vấn đề khoán nhưng lại có công lớn kêu gọi Đảng ta đổi mới. “Đổi mới hay là chết!” .Và kêu gọi Trung ương sửa sai. Có thể nói Đại hội VI là một trong ba đại hội vĩ đại nhất trong lịch sử cách mạng của ta. Nó mở ra một trang mới trong lịch sử Dân tộc và lịch sử Đảng, có ý nghĩa quyết định đối với việc phát triển của đất nước trong giai đoạn mới. 
Mở cửa hay không mở cửa? 
Khoán hay không khoán ?
Chỉ mấy từ đơn giản ấy thôi mà có nghĩa tương đương là tồn tại hay sụp đổ ? Và cả thế giới chứng kiến Việt Nam đã không sụp đổ mà còn phát triển một cách vẻ vang. Thành tích đó là thành tích chung nhưng công lao đó là thuộc về những đ/c cộng sản cấp trung ương có gan chủ trương đổi mới. Đổi mới là đặc điểm nổi bật nhất của Đại hội VI mà đổi mới này thực chất là dân chủ. Vấn đề khoán hộ trong nông nghiệp chính là cởi trói cho lực lượng sản xuất, thực chất là dân chủ. Đã dân chủ tất yếu phải phát triển. Từ một nước nghèo đói kinh niên mà chỉ khoán chưa đầy một năm đã dư 1 triệu tấn gạo, đưa nước ta  lên hàng thứ ba thế giới về xuất khẩu gạo. Thật là một điều kỳ diệu không thể tưởng tượng nổi. Chỉ một từ khoán  nghe có vẻ đơn giản nhưng thực là nghiêm trọng vì không khoán thì đói rách, mất lòng tin và sụp đổ. Khoán thì no ấm, vững lòng tin, yên vui và phát triển. Khoán tốt như thế, dân chủ tốt như thế, có hiệu quả như thế mà tiếc thay giới nghiên cứu lý luận không đi sâu nghiên cứu để khuếch trương thắng lợi và khẳng định để rút ra những bài học kinh nghiệm.
Việc sớm vội vã hài lòng với thắng lợi sinh chủ quan, mất cảnh giác để cho những kẻ cổ hu, cơ hội đứng ra hò hét là phải “ổn định”, “giữ vững kỷ cương”, trở về với quá khứ – Văn nghệ vừa được hưởng chút dân chu, vừa được cởi trói lại bị trói lại. Nông dân vừa được giải phóng lại bị trói lại. Tất nhiên, trói nhau kỳ này cũng không thể dùng kiểu cũ. Họ đánh vào nông dân bằng cái độc quyền quota. Cái độc quyền quota này thực chất là dung túng cho bọn tư sản mới câu kết với đám thơ lại hành chánh ép giá luá, bóc lột nông dân. Có lẽ chưa bao giờ có tình trạng càng sản xuất nhiều càng nghèo, càng được mùa càng khổ. Đặc biệt là Bộ Thương mại của ta chơi rất hay : cho phép nhập nước mía, đường, tỏi, tăm .... cho đến cả muối. Bảo rằng Bộ Thương mại như thế là phản động thì quá đáng nhưng đúng là phá hoại nền sản xuất nội địa một cách khủng khiếp. Còn Bộ Đầu tư - kế hoạch thì cho nước ngoài đầu tư liên doanh tràn lan: nước ngọt, bột ngọt, mỹ phẩm… Chỉ một thời gian ngắn mà các nhãn hiệu của Việt Nam như Tribeco, Chương Dương . . . sống dở chết dở cả loạt.  Tổng cục thuế cũng góp phần bóp chết hàng sản xuất nội địa và gây khó khăn cho thương gia trong nước. 
Khi tìm những nguyên nhân sai lầm khuyết điểm người ta thường đổ cho :
1- Tại cơ chế
2- Thiếu tính đồng bộ.
Cơ chế là do con người tạo ra thế mà nhiều người lại coi nó như một thứ kỷ cương nhất thành bất biến, một thứ khuôn vàng thước ngọc không được động chạm đến. Nhiều cán bộ làm sai, dân góp ý, không chịu sửa, cứ tiếp tục làm sai, lấy cớ là phải làm thế mới đúng với cơ chế, chính sách. Như thế là họ đã làm đúng một cách rất sai. Cho đến khi (thường là từ 5 năm đến 10 năm, có khi đến 20 năm) thực tiễn chứng minh rằng nếu không sửa thì nguy họ mới chịu sửa nhưng thường chưa kịp sửa thì báo chí và giới lý luận đã thi nhau viết bài ca tụng sự sáng suốt kịp thời, dũng cảm, đúng đắn. Họ làm ầm ĩ đến nỗi những người sai lầm đang có thiện ý sửa sai lại hoang mang không biết mình có sai thật không. Thế là xảy ra một tình trạng chưa kịp sửa sai lầm cũ thì đã rơi vào sai lầm mới mà không tự biết.
Thành ra chuyện sai và sửa sai ở ta cũng mang tính chất chu kỳ. Chu kỳ khủng hoảng của chế độ tư bản là do lợi nhuận, còn chu kỳ sai lầm của chúng ta là do cái gì ? Có lẽ Lénine nói đúng, đó là do bệnh kiêu ngạo cộng sản. Vậy thì làm thế nào một lúc thanh toán cả hai bệnh : kiêu ngạo cộng sản và ngụy biện cộng sản ? . Theo Lénine, cái nguy nhất là người cộng sản lúc nào cũng cho mình là đúng. Ở  ta lại còn một cái nguy nữa là nhiều khi hai tư tưởng chống lại nhau mà ta vẫn mặc nhiên coi cả hai là đúng, hầu như không ai dám bàn luận phân tích gì rồi dần dần cái đúng thật bị bỏ quên, còn cái đúng giả thì lại luôn luôn được nhắc đến, nghiễm nhiên trở thành cái đúng thật.
Trong bản Di chúc của Hồ Chí Minh, Người đã nêu ra mục tiêu của toàn Đảng toàn dân: “ra sức xây dựng một nước Việt Nam hòa bình thống nhất, độc lập dân chủ và giàu mạnh”. Không có ai phản đối ý kiến này. Không phải vì đó là ý kiến của vị lãnh tụ tối cao mà trước hết vì nó đúng, nó hợp lòng người. Thế mà đến năm 1995 trong bài phát biểu tại Hội nghị lần thứ Tám của Ban chấp hành Trung ương khóa 7 thì Tổng bí thư Đỗ Mười lại nêu mục tiêu là:
(… ) “ động viên nhân dân ra sức phấn đấu vì mục tiêu độc lập dân tộc, dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội trên đất nước chúng ta”
 (trích Đỗ Mưòi - Phát huy dân chủ XHCN, xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân, trong sạch vững mạnh – trang 62, NXB Chính trị quốc gia Hà Nội-1998,). 
Tại sao năm 1995 rồi mà Đ/c Đỗ Mười còn đưa ra mục tiêu “ vì độc lập dân tộc ” trong khi chúng ta đã giải quyết xong mục tiêu hoà bình thống nhất độc lập từ sau Đại thắng 30 tháng Tư - 75? Cái mà chúng ta đã làm xong rồi thì đ/c Đỗ Mười bảo ra sức làm tiếp. Còn cái mà chúng ta phải làm tiếp là dân chủ và giàu mạnh thì đ/c lại bỏ qua. Mục tiêu dân chủ mà thay bằng dân giàu nước mạnh rồi lại thêm vào 4 chữ công bằng văn minh  là rất khó thực hiện. Thực tiễn đã xác nhận nếu không có dân chủ thì không thể phát triển , không thể giàu mạnh được.
Như trên đã nói, cái vĩ đại nhất của Nghị quyết  Đại hội VI là thực hiện dân chủ với nông dân, do đó đã đưa nước ta từ nước đói kém trở thành thừa gạo xuất khẩu. Đáng lẽ phải tiếp tục thực hiện dân chủ ở các lĩnh vực khác để tạo ra một sự phát triển thần kỳ thì người ta lại gạt  dân chủ sang một bên. Không có dân chủ thì lấy cơ sở nào để tạo nền cho dân giàu. Còn dân giàu theo cái nghĩa là một số rất ít trở nên giàu thì làm sao lại tạo nên nước mạnh được. Và nếu chỉ 5%  là dân giàu, còn 95% là dân nghèo thì làm thế nào để tạo ra sự công bằng ? Và nếu một nước mà 95% thuộc diện nghèo khổ thì lấy cơ sở nào để tạo ra văn minh ?
Lạ thay, thế mà hầu hết các bài báo, các tham luận khoa học, các diễn văn đều kết thúc bằng khẩu hiệu thiếu cơ sở lý luận và thực tiễn đó.
Lạ thay, thế mà chính đ/c Đỗ Mười và các nhà lý luận đều khẳng định rằng “phải vững vàng kiên định, lấy chủ nghĩa Marx- Lénine, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam hành động”. Chúng ta ca ngợi tư tưởng Hồ Chí Minh về rất nhiều mặt nhưng có những điều cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh thì lại xem nhẹ. Hồ Chí Minh lãnh đạo nhân dân đánh đuổi ngoại xâm, sáng lập ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. khiến nhân dân thoát vòng nô lệ tiến lên làm chủ đất nước. Ước vọng của Người cũng là ước vọng từ ngàn đời nay của toàn thể dân tộc: mong cho “nước nhà được độc lập, dân ta được tự do, ai cũng có đủ cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”. Thử hỏi có thể cất chữ dân chủ được không?  Đã có lúc tự nhiên chúng ta bày trò thay đổi Quốc ca. Những người muốn thay đổi Quốc ca không biết rằng chính vì cái nhịp điệu bài ca Tiến quân này mà toàn thể nhân dân không quản hy sinh của cải và tính mạng để giành bằng được chính quyền và bảo vệ bằng được chính quyền này, đất nước này. Không vì chính quyền dân chủ và đất nước độc lập thì mấy thế hệ Việt Nam ngã xuống để làm gì ? Thế mà thay đổi Quốc ca không xong lại quay ra bàn thay đổi Quốc hiệu. Tại sao đang dân chủ cộng hòa lại thay bằng cộng hòa xã hội chủ nghĩa rồi lại lờ đi không bàn gì đến mục tiêu dân chủ của Hồ Chí Minh nữa ? Đành rằng CNXH về mặt lý thuyết là rất tốt đẹp, rất đáng được thực hiện vì CNXH theo nghĩa đơn giản nhất là phải xóa hết áp bức bất công, đói rách nghèo nàn, lạc hậu để tiến tới cái đơn giản nhất là “ai cũng đủ cơm ăn áo mặc và được học hành”. Thế mà đã có một thời kỳ dài cứ kêu lên là : mất hợp tác xã là mất CNXH. Bây giờ lại đến lượt những vị muốn bảo vệ đặc quyền đặc lợi ra sức cản trở việc cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước. 
Bao nhiêu năm nay chúng ta chủ trương mở rộng dân chủ, phát huy dân chủ nhưng rõ ràng chỉ là những khẩu hiệu suông. Vì dân chủ gì mà khi bầu đại biểu Hội đồng nhân dân và đại biểu Quốc hội lại sắp xếp trước và dặn trước là để ai, gạch ai trong danh sách. Đã lâu rồi dân ta nói : chúng tôi đi gạch chứ có đi bầu đâu. Có điều lạ là dân bức xúc như thế, thậm chí phẩn nộ như thế mà các đại biểu quốc hội không đưa ra bàn. Đến nỗi khi vụ Thái Bình nổ ra, Quốc hội cũng lờ đi coi như không xảy ra chuyện gì. Và kỳ họp Quốc hội nào cũng tổng kết là thành công mỹ mãn với mấy ảnh chụp các đại biểu giơ tay nhất loạt. Đến nỗi, đ/c cựu chủ tịch Quốc hội Lê Quang Đạo bây giờ mới “bật mí” rằng nhiều khi Quốc hội bị biến thành "bộ máy giơ tay" (Tuổi trẻ chủ nhật số 33-98) . Nghĩa là Quốc hội không thực hiện quyền cao nhất của mình như Hiến pháp quy định. Ai cũng thấy nhưng không ai dám nói ra. Và mọi tai họa là ở chỗ dân chủ một cách hình thức như thế. Cho nên để cho vụ Thái Bình và một vài vụ khác nổ ra mà lại quy trách nhiệm cho Bộ Chính Trị Đỗ Mười thì ai cũng thấy  không ổn, nhưng thực tế xác nhận rằng Bộ Chính trị Đỗ Mười phải chịu trách nhệm về sự kiện nghiêm trọng này.
Thật ra khi đ/c Đỗ Mười và một số đ/c có trọng trách khác né tránh từ “dân chủ” là do quá ư thận trọng, quá ư cảnh giác với các mưu mô lợi dụng vấn đề “dân chủ, nhân quyền” của các lực lượng thù địch với CNXH. Các đ/c không ngờ rằng trong khi đó các đảng viên thoái hóa biến chất đã lợi dụng chức quyền, lợi dụng luôn chuyện né tránh dân chủ để nén ép dân và làm đủ chuyện đồi bại: cửa quyền, phù thu lạm bổ, tham nhũng, hối lộ . . .
Cho nên việc đ/c Đỗ Mười cùng với một số đ/c ở Bộ Chính trị phải ngưng chức và thoái lui giữa nhiệm kỳ là hoàn toàn thấu tình đạt lý. Và việc Bộ Chính trị Lê Khả Phiêu thay thế để giải quyết tình hình bức xúc của xã hội là đáp ứng đúng nhu cầu của cách mạng, của đất nước trong giai đoạn hiện nay. Để đánh giá Bộ Chính trị Lê Khả Phiêu tất nhiên cần phải chờ thời gian, nhưng những việc làm đúng kịp thời có tác dụng chuyển biến tình hình theo chiều hướng tốt, đáng được nhân dân khen ngợi và ghi công. Việc Bộ Chính trị Lê Khả Phiêu cử  Chủ tịch Trần Đức Lương về họp mặt và chuyện trò cởi mở nhận khuyết điểm của cán bộ Đảng và cán bộ Nhà nước với bà con nông dân Thái Bình là một sự kiện tốt đẹp chưa từng thấy trong lịch sử. Từ xưa tới nay khi nông dân nổi dậy thì các chính quyền thống trị phong kiến thực dân chỉ có việc làm đơn giản là “dẹp loạn” đánh đập, tù đày, giết chóc. Việc Chủ tịch nước gặp gỡ trò chuyện với những người “nổi dậy” cũng như việc Tổng bí thư Lê Khả Phiêu ra lệnh gấp rút ban hành chính sách dân chủ hóa cơ sở chứng tỏ rằng Nhà nước này, Đảng này đúng là của dân và vì dân. 
Việc Bộ chính trị Lê Khả Phiêu lại cử luôn Thủ tướng Phan Văn Khải họp mặt trò chuyện cởi mở và bàn bạc với các doanh nhân trong nước và ngoài nước cũng là một sự kiện đầy ý nghĩa và chưa từng thấy trong lịch sự. Từ xưa tới nay ở nước ta chưa hề có chuyện một “Tể tướng đầu triều” bàn bạc một cách dân chủ và bình đẳng với các “thần dân hạng tư” (sĩ, nông, công, thương). Thương nhân vốn  là một tầng lớp xưa nay vẫn bị khinh thường và được gọi một cách miệt thị là bọn lái buôn, bọn con buôn.
Việc Bộ Chính trị Lê Khả Phiêu cử nhiều ủy viên Bộ Chính Trị và Uy viên Trung ương đi tới các địa phương, tới tận các thôn cùng xóm vắng để lắng nghe tâm tư nguyện vọng nhân dân (mà các đ/c nói vui là “đi cặp nhiệt độ” ) chứng tỏ độ nhạy cảm chính trị và ý trách nhiệm trước Nhân dân và Đất nước.
Còn nhiều việc làm tốt nữa như việc lo cải tổ lề lối làm việc của Hội đồng nhân dân và Quốc hội, lo cải cách bộ máy hành chính và đề ra chính sách kịp thời giải quyết các đơn khiếu kiện của cá nhân cũng như tập thể v.v… cũng như việc đ/c Lê Khả Phiêu đi thăm các cán bộ cách mạng lão thành, các văn nghệ sĩ , các nhà khoa học v.v... ở đây không thể kể hết…
Có một số người nói “đó chẳng qua là những trò mị dân, có gì đáng để các vị khen nịnh như thế!”
- Không! Nguyên tắc của ông bà ta là hay khen, hèn chê . Vả lại, tư cách người trí thức chân chính là không bao giờ dìm ai mà cũng không bao giờ thèm nịnh ai! Đánh giá con người cũng như sự kiện cần phải khách quan, công bằng. Nếu thực tiễn hay công luận chứng minh được rằng chúng tôi nhầm lẫn, chúng tôi xin tự điều chỉnh. Còn chúng tôi xin được phép hưởng quyền nhận định đúng sai phải trái, hay khen hèn chê theo đúng quyền hạn mà các đạo luật của Nhà nước và các nghị quyết của Đảng xác nhận, đặc biệt là dựa trên cơ sở thực tiễn và nghiên cứu khoa học. 
Riêng về vụ Thái Bình cũng cần nhận định cho rõ và đánh giá cho chính xác.
Nói đến Thái Bình là nói đến một trong những vùng đất cổ nhất của Việt Nam , không chỉ là vùng đất mà còn là một vùng văn hóa lớn, từng là nơi phát triển của một dòng họ dân chài đã dựng nên một vương triều vào hàng vĩ đại nhất trong lịch sử; nơi sản sinh ra một trong những nhà bác học vĩ đại nhất của dân tộc là Lê Quí Đôn. Thái Bình là một trong những nơi sản sinh ra những phong trào văn thân rất lớn với những nhân vật ghi dấu ấn lịch sử thời kỳ đầu chống Pháp: Nguyễn Quang Bích, Nguyễn Mậu Kiến, Kỳ Đồng Nguyễn Văn Cẩm. Đấy cũng là nơi sản sinh ra những người du kích tài giỏi chống Pháp tiêu biểu là du kích làng Nguyễn anh hùng và người nữ anh hùng Nguyễn Thị Chiên. 
Chỉ tính riêng từ ngày đi theo Đảng thì Thái Bình cũng đóng góp những người đầu tiên sáng lập Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội (tiền thân của Đảng cộng sản). Hưởng ứng sớm nhất tiếng trống Xô Viết Nghệ Tỉnh thì có tiếng trống Bình Lục - Hà Nam vàtiếng trống Tiền Hải - Thái Bình. Trong 30 năm kháng chiến và hơn 60 năm đi theo Đảng Cộng sản, Thái Bình tự hào giữ ngọn cờ đầu của nhiều phong trào. Đó là tỉnh 5 tấn đầu tiên của miền Bắc XHCN và chẳng ai quên được đó là một trong những nơi “thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”. Đó cũng là nơi dân chết đói nhiều nhất trong nạn đói 45. Và vừa qua nổi dậy chống bọn cường hào mới, Thái Bình tỏ ra giữ vững bản sắc dân tộc và truyền thống cách mạng. Bản sắc dân tộc Việt Nam là gì nếu không nói trước hết đến ý chí kiên cường, bất khuất, tinh thần quật khởi chống bất công, áp bức. Xin phép hỏi các nhà nghiên cứu văn hóa: các vị coi Thái Bình là gì mà tất cả các bài bàn về văn hóa không có một bài nào đả động đến tình hình Thái Bình? Xin hỏi các vị: giả thiết nếu mai kia tinh thần kiên cường bất khuất chống áp bức của Thái Bình không còn nữa thì lấy gì để chứng minh bản sắc Việt Nam? Chẳng lẽ bàn về bản sắc dân tộc lại chỉ loanh quanh chuyện lễ lạy, ẩm thực, hội hè, đình đám  . . .và cái lối sống “mũ ni che tai, chuyện ai nấy biết” hay sao? Chẳng lẽ thái độ bưng tai bịt mắt trước thực tiễn đấu tranh của những người lao động bị áp bức, bóc lột lại là thái độ văn hóa, thái độ khoa học của những người mệnh danh là nghiên cứu văn hóa hay sao? Chẳng lẽ đó lại là lối sống đạo đức của các nhà nghiên cứu văn hóa VN ở cuối thế kỷ này chăng? 
Có lẽ chưa bao giờ giới nghiên cứu văn hóa lại rơi vào tình trạng tư biện đáng sợ như hiện nay. Các vị luôn luôn nói rằng các nhà làm văn nghệ, văn hóa, khoa học phải có cái tâm. Xin phép hỏi cái tâm của các vị là cái tâm gì và các vị để nó ở đâu? Chẳng lẽ cái tâm của chúng ta lại không còn chút thương cảm nào trước những cảnh đời éo le ngang trái; không còn chút phẫn nộ nào trước những thói cửa quyền nhũng nhiễu đối với dân lành? Ôi chẳng lẽ đã mang tiếng là người trí thức của dân tộc mà lại đành ôm một cái tâm vô cảm, cam sống vật vờ cho đến hết đời chăng? Chúng tôi thật sự cảm phục những vị cách mạng lão thành và những đ/c cựu chiến binh giữ vai trò chỉ đạo vụ Thái Bình vừa rồi. Rõ ràng đây là những con người sau cả quá trình cách mạng, chiến đấu chống ngoại xâm đã không nghỉ ngơi, không giữ lối sống “lão giả an chi” vẫn tiếp tục đi với nhân dân chống lại bất công, bảo vệ chế độ cách mạng và bảo vệ quyền dân chủ của nhân dân. Chỉ nên kiểm điểm hoặc kết tội những kẻ manh động, đập phá chứ hoàn toàn không nên và không thể kết án những người suốt đời đi với Dân, với Đảng, với Cách mạng. Phải khẳng định rằng Thái Bình chống bọn cường hào mới chứ không hề chống Đảng và Chế độ.
Nhiều sai lầm khuyết điểm của chúng ta bắt nguồn từ nguyên nhân ta không hiểu: thế nào là CNXH?  Về lý luận ta hay nói ta đang quá độ lên CNXH. Thử hỏi ta đang ở bờ bến nào mà đã vội nói chuyện quá độ? Chưa hề có cái gọi là cơ sở vật chất của chủ nghĩa tư bản mà đã nói chuyện xây dựng nền kinh tế XHCN  thì có khác gì  đang học chưa xong trung học cơ sở đã nói chuyện quá độ lên đại học ? Sau phương thức sản xuất phong kiến chủ nghĩa thì đến phương thức tư bản chủ nghĩa, sau phương thức tư bản chủ nghĩa là phương thức cộng sản chủ nghĩa. CNXH chính là thời kỳ quá độ từ phương thức TBCN lên phương thức cộng sản chủ nghĩa . Mở sách trích dẫn để bàn về lý luận thì tất nhiên là rất dài dòng phức tạp nhưng nói gọn lại một cách giản dị dễ hiểu là CNXH phải được xây dựng trên cơ sở CNTB phát triển và làm nốt những phần mà CNTB chưa làm xong. Do đó, hiện nay ta tiến hành xây dựng một nền kinh tế năm thành phần với xí nghiệp tư doanh và trang trại tư nhân là phải lẽ, cổ phần hóa xí nghiệp quốc doanh là phải lẽ và hợp quy luật, có gì mà còn chần chừ, chậm trễ? 
Và có một vấn đề mà tất cả những ai đã nghiên cứu kinh tế chính trị đều phải hiểu tầm quan trọng của nó: đó là vấn đề năng suất. Có một thời, cứ lên diễn đàn, cứ viết bài nghiên cứu, cứ lên lớp giảng dạy là người ta không quên nhắc đến cái chân lý mà Lénine đã phát hiện: năng suất chính là nhân tố quyết định sự thắng lợi của phương thức sản xuất này đối với phương thức sản xuất khác. Nhưng trong thực tiễn hoạt động, người ta lại rất coi nhẹ vấn đề năng suất.  Dẫn chứng thực tế thì vô vàn nhưng chỉ cần nêu vài nét điển hình là không ai có thể bác bỏ. Thử hỏi có nhà nghiên cứu nào dám bác bỏ cái tình hình thực tế là đã có một thời kỳ rất dài trước Đại hội VI (mà có lẽ bây giờ cũng chưa hết) : người ta chấp nhận những người được lòng hơn là những người được việc. Người được lòng thường thường có năng suất, hiệu suất thấp hoặc rất thấp, nhưng họ lại được cưng chiều, che chở, được bồi dưỡng, được đề cao, được tăng lương, khen thưởng, được đề bạt và thăng tiến rất nhanh. Còn người được việc tức là người có năng suất cao trong lao động sản suất hoặc có hiệu suất cao trong công tác thường là có cá tính, thích suy nghĩ độc lập, thích phát huy sáng kiến, sáng chế phát minh v.v… và thường là dễ sinh va chạm với tập thể và cấp trên. Thế là bị dìm, bị trù và nhẹ nhàng nhất là “vô hiệu hóa”. Thế là chúng ta đã vô tình khuyến khích một lối sống ba phải, an phận, xu thời, dua nịnh. Và số xuất sắc nhất trong đám xu nịnh này không bao giờ đi bằng hai chân của mình nữa mà họ đi bằng đầu gối hoặc bám vào người khác mà tiến thủ. 
Chúng ta từng có hàng triệu lao động tiên tiến, hàng chục vạn chiến sĩ thi đua mà không tạo ra được một năng suất nào đáng kể, đến nỗi chúng ta hổ thẹn khi được thế giới xếp vào hàng thứ 8 trong số 13 nước nghèo khổ nhất hành tinh. Ngẫm nghĩ kỹ mới thấy Đại hội VI quả thật là vĩ đại. Chỉ có điều hơi tiếc là đến Đại hội VII mà đ/c Tổng bí thư còn nhấn đức trước tài (tâm hơn năng suất). Đã đến lúc phải nhớ lại lời Hồ Chí Minh: người có đức mà không có tài chẳng khác gì ông Bụt.Tuy chẳng làm hại ai nhưng cũng chẳng ích lợi gì. 
Trong thực tế những vị bất tài cũng chẳng yên vị bụt mọc, họ dùng đủ mưu ma chước quỉ để triệt các đối thủ tài năng. Đã đến lúc phải quan niệm rằng năng suất, hiệu suất chính là biểu hiện một phần rất quan trọng lương tâm và đạo đức của mỗi con người. Và đến một giai đoạn nào đó mỗi người đều phải quan niệm được rằng năng suất chính là đạo đức. Vì không nắm thật chắc cái thần của vấn đề năng suất nên nhiều khi người ta khen chê ca tụng hay đả kích đều bị rơi vào lệch chuẩn. 
Một trong những cái lệch chuẩn rõ nhất, nổi bật nhất mà lại ít người biết nhất là việc mấy chục năm liền ca tụng cuộc Cách mạng XHCN tháng Mưòi Nga vĩ đại. Cho đến năm 1997 kỷ niệm 80 năm Cách mạng tháng Mưòi, chừng hơn 200 bản tham luận của toàn bộ giới nghiên cứu Triết học, Sử học, Dân tộc học của các Viện nghiên cứu, các trường Đại học từ Nam chí Bắc , hầu hết đều lặp lại khúc ca năm xưa và lại còn thêm một điệp khúc mới “dù Liên Xô và Đông Âu có sụp đổ nhưng Cách mạng tháng Mười vẫn giữ nguyên vẹn tính thời sự” (không thấy ai nói "tính thời sự" cụ thể ra sao)
Sự thật, Cách mạng tháng Mười Nga chỉ vĩ đại về mặt chính trị và xã hội. Còn về mặt kinh tế học và triết học thì hầu như không thể nói như thế được. Hẳn mọi người sẽ kinh ngạc khi nói rằng Lénine và những người Bôn-sê-vich Nga làm Cách mạng tháng Mười là sai với lý thuyết Marx. Nhưng Lénine đã sai một cách rất đúng - đúng với thực tiễn xã hội Nga. Chính vì thế mà Lénine được ca ngợi là người đã phát triển CN Marx trong thời kỳ lịch sử mới có sự phát triển không đều của CNTB trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Giới lý luận của phe ta cũng đã từng ca tụng tài năng của Lénine đã phát hiện ra khâu yếu nhất trong dây xích TBCN quốc tế.Nhưng họ lại quên mất rằng khi cách mạng thành công thì cái khâu yếu nhất này lại thuộc về ta. Hầu như, chỉ có riêng Lénine là hiểu rõ nhất điều này, còn ngay nhiều ủy viên TƯ thân cận với Lénine cũng không hiểu rõ điều này nên có nhiều ý kiến chống Lénine khi người thực hiện chính sách Kinh Tế Mới (NEP). NEP là một cái gì quá lớn vượt khỏi tầm hiểu biết của nhiều người; nhưng dù sao có thể nói gọn lại : đó là một sách lược kinh tế cực kỳ quan trọng nhằm xây dụng cơ sở vật chất cho CNXH ở nước Nga đương thời – cái cơ sở vật chất mà đáng lẽ CNTB Nga có trách nhiệm hoàn thành từ trước Cách mạng tháng Mười. Nói khác đi NEP chính là quá độ của quá độ. Và ví von khập khiễng một cách có hình ảnh thì đã đẻ non tất nhiên phải nuôi dưỡng bằng lồng kính với một chế độ chăm sóc đặc biệt. Đáng tiếc, Lénine mất quá sớm, đó là một tai họa lớn lao và khủng khiếp đối với Cách mạng Nga, đối với nhân dân lao động Nga và nhân dân lao động toàn thế giới. Cho đến những năm cuối thế kỷ XX này những người có lương tri càng thấy thấm thía nỗi đau về tai họa khủng khiếp này.. Người ta cũng tưởng nhầm rằng Stalin trung thành với Lénine nhưng không ngờ rằng vô tình ông trở thành người số một chống Lenine. Không ai có quyền phủ nhận tài năng và công lao vĩ đại của Stalin đối với nhân dân Liên Xô và nhân loại, và đặc biệt với cách mạng VN và nhân dân VN. Nhưng thật cay đắng và phải công bằng mà nhận xét rằng việc Stalin hủy bỏ NEP và vô tình chống lại những nguyên lý của chủ nghĩa Lénine là một trọng tội. Những sai lầm của Stalin, đặc biệt là sai lầm về đường lối kinh tế và chính trị cũng như  triết học đã gây ra những tổn thất quá lớn, không thể tưởng tượng nổi cho phong trào cộng sản quốc tế cũng như phong trào giải phóng dân tộc. Không hiểu đến thế kỷ nào chúng ta mới có thể phục hồi được phong trào. Tất nhiên CNTB hiện đại với các công ty xuyên quốc gia và những công nghệ cao liên tục hiện đại hóa ra sức vắt kiệt từng tế bào cơ bắp và tế bào thần kinh của nhân dân lao động toàn cầu thì rồi dần dần người ta cũng thức nhận được ra vấn đề. Chỉ tiếc rằng sự thức nhận này diễn ra chậm chạp hơn và “trận đấu tranh cuối cùng”  giữa CNXH và CNTB  quả là muôn phần phức tạp và gian khổ.
Khi đập vỡ cái lồng kính NEP,  Stalin đâu có ngờ rằng mình đã tự biến thành một kẻ phản bội giai cấp, phản bội nhân loại bị áp bức. Stalin trung thành với Marx một cách máy móc nên vô tình đã chống lại Lê-nin và thực tiễn cách mạng Nga. Một vấn đề đơn giản mà ít ai ngờ rằng cả những nhà lý luận macxit ở Nga và ở  nước ta đều không hiểu: chế độ XHCN ở Nga lúc bấy giờ không hề được tiếp thu cái di sản vật chất của CNTB Nga nghĩa là chưa hề có cái gọi là cơ sở vật chất của CNXH. Mà muốn xây dựng cái gọi là cơ sở vật chất của CNXH thì lại không thể bỏ qua các qui luật kinh tế của CNTB. Không thể sử dụng những qui luật phi TBCN hoặc cái mà do Stalin tưởng tượng ra gọi là “qui luật kinh tế XHCN”. Xin nhắc lại không hề có cái gọi là qui luật kinh tế XHCN vì bản thân CNXH không phải là một phương thức sản xuất. Nhưng trong tác phẩm  Những vấn đề kinh tế của CNXH ở Liên Xô, đ/c Stalin một mặt yêu cầu mọi người phải tôn trọng qui luật, mặt khác Stalin lại sáng tác ra qui luật. Trong thực tế thì cả giới chính trị lẫn giới kinh tế ở Liên Xô đã xóa bỏ các qui luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh . . . vì cho đó là những thứ thuộc về CNTB, không cần tôn trọng . Và người ta hình thành chế độ trao đổi sản phẩm giữa các vùng, giữa các địa phương, thậm chí giữa các nước trong phe XHCN in như thời cộng sản nguyên thủy. Giới lý luận khoa học xã hội của ta vừa qua có những nổ lực tìm nguyên nhân sự sụp đổ của chế độ XHCN ở Liên Xô và Đông Au thường chỉ nêu lên những nguyên nhân như : Đảng quan liêu hóa, xa rời nhân dân, bệnh giáo điều, duy ý chí, sự phản bội của một vài phần tử ở Bộ Chính trị, âm mưu diễn biến hòa bình của các thế lực chống Cộng v.v…
Đó chẳng qua là những hệ quả, những nguyên nhân thứ yếu. Chính tác phẩm lý luận  của Stalin - một cuốn sách chỉ có 114 trang do Stalin viết 22-5-1952 ( do NXB Sự thật của Việt Nam  xuất bản năm 1953) đã làm sụp đổ Đảng cộng sản và Nhà nước Liên xô vĩ đại. Khi lý luận đúng đi vào thực tiễn và quần chúng thì tạo ra sự nghiệp vĩ đại; ngược lại, khi lý luận sai đi vào thực tiễn và quần chúng thì cũng trở thành lực lượng vật chất làm sụp đổ những sự nghiệp vĩ đại.
Theo chúng tôi sự sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu là do những nguyên nhân sau đây:
1- Chống lại qui luật.
2- Chống lại trí tuệ của giai cấp và của nhân dân.
3- Bệnh kiêu ngạo cộng sản.
I. Chống lại quy luật.
Stalin cũng như những người cộng sản suy nghĩ theo kiểu Stalin cho rằng họ nắm được chân lý, họ luôn luôn đúng hơn tất cả. Tại sao ta lại phải dùng những qui luật của CNTB? Ta xóa CNTB thì phải xóa luôn những qui luật của nó chứ ? Cái sai lầm khủng khiếp chính là ở chỗ này vì họ không hiểu rằng cơ sở vật chất của CNXH thực chất là cơ sở vật chất TBCN đang cần được tiếp tục hoàn thiện. Cuộc cách mạng tháng Mười cũng như các cuộc cách mạng khác ở Đông Au và một số nước Châu Á chỉ làm thay đổi giai cấp thống trị nghĩa là xóa bỏ giai thống trị bóc lột (tư sản, phong kiến thực dân, phát xít…) thay bằng giai cấp công nhân. Còn nền kinh tế thì xóa bỏ làm sao được và tất nhiên làm sao có thể xóa bỏ qui luật kinh tế được mà qui luật kinh tế đó đâu phải riêng của CNTB. Và một nền kinh tế XHCN là cái chưa hề có thì làm sao lại sáng tác ra qui luật được. Cho nên việc sớm xóa bỏ hàng hóa, sản xuất hàng hóa, mua bán hàng hóa nghĩa là xóa bỏ tất cả các qui luật giá trị, cung cầu, cạnh tranh v.v… thì tránh sao không bị qui luật nghiền nát. Vì lịch sử đã chứng minh rằng không có lực lượng nào cưỡng lại qui luật mà tồn tại được. Đó cũng chính là một loại qui luật mà tất cả các giai cấp thống trị không muốn xảy ra với họ.
II. Chống lại trí tuệ của giai cấp và của dân tộc.
Những việc nghĩ sai và làm sai của Stalin và đệ tử không phải không có những người cùng thời biết và góp ý xây dựng nhưng tất cả đều hoặc bị phê phán hoặc bị đàn áp, bị kết tội là chống lại đ/c Stalin, chống Đảng, chống CNXH. Không chỉ ở lĩnh vực lý luận mà cả ở lĩnh vực văn học, nghệ thuật và khoa học đều có tình hình chung như thế. Nhiều nhà văn, nhà thơ, nhà khoa học hoặc bị xử bắn hoặc bị đày đi Sibe'rie hoặc phải lưu vong. Tất nhiên là số còn lại thì rút bài học nhỡn tiền và im lặng. Thế là những trí tuệ sâu sắc trong Đảng và ngoài Đảng hoặc bị đàn áp hoặc bị vô hiệu hóa. Về mặt lý thuyết thì cách mạng  XHCN là giải phóng tư tưởng trao cho nhân dân quyền tự do ngôn luận, nhưng trong thực tế thì Stalin và những người kế tục lại không thực hiện điều đó. Lịch sử cũng đã chứng minh rằng “đã chống lại trí tuệ thì phải sụp đổ” (Bernard Show). Ở ta tuy có sự chống lại trí tuệ người cộng sản Kim Ngọc và tập thể nhân dân Vĩnh Phú nhưng không chống đến cùng. 
III. Bệnh kiêu ngạo cộng sản. 
Khổng Tử nói: “Trong ba người cùng đi tất có một người đáng bậc thầy ta” (tam nhân đồng hành tất hữu ngã sư yên) nghĩa là bao giờ cũng phải thấy có một người hơn ta, đáng cho ta học tập. Và Khổng Tử cũng chủ trương phải học hỏi cả những người kém ta: “ Không xấu hổ khi hỏi kẻ dưới” (bất sỉ hạ vấn). Thế mà có không ít đảng viên cộng sản lại thấy rằng không cần phải học tập ai cả. Quần chúng thì cho là lạc hậu cần phải giáo dục, kẻ thù giai cấp thì đều là xấu xa tàn bạo cần phải tiêu diệt,. Lénine thấy cần phải học phương pháp Taylor của Mỹ, còn dưới thời Stalin thì những học thuyết vĩ đại như học thuyết Mendel - Morgan bị coi là phản động. Tất cả những thành tựu khoa học cũng như văn học nghệ thuật diễn ra dưới chế độ TBCN không được coi là thành tựu chung của nhân loại mà coi là của chế độ tư bản thối nát, không chấp nhận. Ở ta cũng đã có vài ba thập kỷ bài trừ việc học tiếng Anh, tiếng Pháp . . . Còn bất cứ khuynh hướng nghệ thuật nào của phương Tây cũng đều bị coi là sa đọa, đồi trụy trong đó có trường phái hội họa lập thể của Picasso vĩ đại.
 Lénine khuyên: “Học, học nữa, học mãi” . Lénine, Hồ Chí Minh là những tấm gương sáng về học tập, học tập suốt đời  Thế nhưng nhiều cán bộ, đảng viên ta rất lười học. Một số tuy chăm chỉ nhưng lại theo kiểu học vẹt, học để trích dẫn, để lòe thiên hạ. 
Mấy năm trước, Bộ Giáo dục  cho xuất bản các bộ đề thi đại học có sẵn đáp án, vô tình khuyến khích kiểu học thuộc lòng, học tủ. Đó là một cách phát huy truyền thống “ trả lời theo đáp án của các trường lý luận triết học Marx- Lénine trung cấp và cao cấp". Tất cả đều được nối tiếp truyền thống từ thời Bùi Huy Bích được gọi là “quan học tùng thư”, nghĩa là triều đình cho soạn và khắc in loại sách gối đầu giường cho các sĩ tử “học tủ”, học làu làu như vẹt để vào các trường thi hương, thi hội, thi đình.
Cái lối chỉ đạo giáo dục kiểu này cùng với tệ nạn gian lận trong thi cử và giả mạo về bằng cấp đã làm đảo lộn bảng giá trị xã hội, làm hủy hoại trí tuệ Việt Nam. Có chức, có quyền, có tiền rồi có bằng cấp giả mạo thế là vào bậc nhất  xã hội rồi còn gì. Ai có thể ngăn cản người ta không kiêu ngạo? (Chỉ có những đảng viên chân chính luôn luôn rơi vào tình trạng “vỡ mộng” hoặc lắc đầu ngao ngán, hoặc bất bình chửi đổng. Những ai suốt đời đấu tranh, không thích  phe phái bè cánh, không tham lam trục lợi, thẳng thắn bảo vệ cái đúng, phê phán cái sai … thì hầu hết đều bị cô lập, bị đẩy đi hết nơi này đến nơi khác, cuối cùng ra về với đồng lương hưu không đủ sống kèm theo lời chê trách là kém thức thời, khờ dại.). Hiện nay có một số nhà lý luận tìm nguyên nhân sự sụp đổ của Liên xô là do Đảng xa dân nhưng không chịu đi sâu thêm để thấy rằng cái nguyên nhân gốc là kiêu ngạo. Lénine đã cho rằng trong mọi thứ kiêu ngạo thì kiêu ngạo cộng sản là đáng ghê tởm nhất. Giỏi mà kiêu ngạo cũng đã đáng ghét, dốt mà lại kiêu ngạo thì thực là không thể hiểu nổi. Chính Lénine cũng có khi phải bực bội thốt lên: Tôi sẵn sàng đổi 100 đảng viên dốt nát lấy một chuyên gia tư sản. Ở ta, đ/c Phạm Văn Đồng cũng đã phải nhận định rằng: dốt nát + nhiệt tình = phá hoại  để nói về hiện tượng đau lòng ở bộ máy nhà nước ta.
Giới lý luận của chúng ta còn có trách nhiệm quan trọng là phải tìm ra những nguyên nhân nào đã làm cho Việt Nam, Trung Quốc, Triều Tiên, Cuba… trụ được, mà tuy cùng trụ với nhau nhưng Trung Quốc lại tiến rất nhanh, Cuba thì chậm chạp, Bắc Triều Tiên thì hầu như tê liệt, còn Việt Nam thì lúc tiến lúc lui, chuệnh choạng, mãi chưa thoát khỏi tình trạng khủng hoảng về kinh tế và xã hội.
Đã có một thời ta phản đối quan điểm: “bất kể mèo trắng hay mèo đen miễn là bắt được chuột” . Rõ ràng thiên hạ coi trọng việc bắt được chuột nên họ tiến nhanh hơn chúng ta. Mấy chục năm liền chúng ta chỉ lo chọn mèo quốc doanh, còn mèo phi quốc doanh, phi tập thể thì dứt khoát không nuôi. Mèo quốc doanh thì được chăm sóc đầy đủ đến mức không thấy cần phải bắt chuột nữa. Gần đây ta đã thấy cần phải chấp nhận cả năm loại mèo vì thấy chuột hoành hành dữ quá, đặc biệt có nhiều mèo lại thông đồng câu kết cả với chuột. Điều đáng mừng là ta đã nhận ra được việc bắt chuột là quan trọng. Chắc chắn là sẽ thấy cần dùng loại mèo nào và không cần dùng loại mèo nào. Hiện nay các vị mèo lười bắt chuột và hay ăn vụng đang ra sức phản đối hoặc làm chậm tiến trình cổ phần hóa. Trong xã hội nông nghiệp lạc hậu, thay đổi được một nhận thức cũ quả là vất vả, tốn quá nhiều thời gian.
Buổi đầu chúng ta nhất trí với nhau như Luận cương 1930 xác nhận: ta phải làm cuộc cách mạng tư sản dân quyền kiểu mới . Thực chất là ta làm cách mạng dân chủ tư sản, nhưng không do đảng của giai cấp tư sản mà do đảng của giai cấp vô sản lãnh đạo. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ ta nói xây dựng CNXH ở miền Bắc thì thực chất cũng chỉ là về mặt chính trị. Đây là cái nhầm của Bộ Chính trị Lê Duẩn. Cái nhầm này kéo dài cho đến năm 1986 nghĩa là khi Tổng bí thư Trường Chinh nói rằng: “Đổi mới hay là chết!” Tiếc rằng đ/c Trường Chinh cũng tán thành đổi Việt Nam dân chủ cộng hòa thành Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mặc dù chúng ta chưa hề có cái gọi là cơ sở vật chất của CNXH và tất nhiên là chưa có năng suất XHCN. Và luôn luôn phải nhớ rằng năng suất là cái nhân tố quyết định xác nhận anh ở phương thức sản xuất nào, thuộc chế độ xã hội nào. 
Nhân đây cũng nói đến chuyện “đốt cháy giai đoạn”. Người ta cũng chỉ có thể đốt cháy giai đoạn về mặt chính trị chứ không thể đốt cháy giai đoạn về mặt kinh tế. Quá trình tích tụ tư bản ở đô thị cũng như quá trình tích tụ ruộng đất ở nông thôn là những quá trình tất yếu không thể bỏ qua hoặc đốt cháy được. Việc phát triển các xí nghiệp tư doanh cũng như các trang trại hiện nay là những luận chứng thép. Điều đáng buồn là những quá trình này đang diễn ra ở Liên bang Nga và các nước Đông Âu không còn thuộc thẩm quyền lãnh đạo của các Đảng cộng sản nữa.
Còn điều đáng lo đối với chúng ta là cứ mỗi bước chúng ta nhích lên theo qui luật về phía cái đúng thì lại có những lực kéo tụt chúng ta về phía sau hoặc kéo chệch sang phía khác. Việc phục hồi đủ các thứ cổ hủ dưới danh nghĩa bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc cũng như nhập đủ thứ cặn bã lố lăng độc hại với danh nghĩa đổi mới và hiện đại hóa đều là những lực cản và lực kéo đáng sợ.
Nhiều người không tán thành chủ trương định hướng xã hội chủ nghĩa vì cho rằng nó mâu thuẫn với cơ chế thị trường. Chúng tôi cho rằng vấn đề không phải ở chỗ đó. Chúng ta có thể gọi là”định hướng XHCN” hoặc một tên gì đó tương tự , nhưng điều chủ yếu là nền kinh tế Việt Nam hiện nay là do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo đi theo con đường mà Hồ Chí Minh đã chọn và nhân dân ta đã đồng tình. Nghĩa là sau khi đã hoàn thành thắng lợi ba công đoạn: hòa bình, thống nhất, độc lập thì còn lại hai công đoạn: dân chủ và giàu mạnh cũng cần hòan thành một cách vẻ vang. Cốt lõi tư tưởng Hồ Chí Minh là gì nếu không phải là xây dựng thành công một nước Việt Nam hoà bình, độc lập, thống nhất, dân chủ và giàu mạnh?
Cần nhớ rằng Hồ Chí Minh viết những dòng này tuy trong tình trạng đau ốm nhưng đầu óc vẫn còn hết sức minh mẫn, sáng suốt, và lúc Tổng bí thư Lê Duẩn ký nhận vào bản Di chúc cũng ở tình trạng hết sức sáng suốt. Và cả Trung ương cũng ở vào trạng thái tỉnh táo. Vậy xin phép hỏi đ/c cựu Tổng bí thư Đỗ Mười và toàn thể Ban chấp hành Trung ương của Đại hội VII và Đại hội VIII: Vì sao các đ/c dám thay cái mục đích cao cả trên mà vì nó mà toàn thể dân tộc ta trong đó đã có các đ/c phấn đấu suốt đời? Nếu như Hồ Chí Minh và Lê Duẩn nhầm thì các đ/c phải chứng minh trước khi điều chỉnh mục đích của cuộc cách mạng này. Còn các lực lượng thù địch thì hằn thù và căm tức toàn bộ sự nghiệp của chúng ta chứ riêng gì vấn đề dân chủ và nhân quyền. Kẻ thù lo chống Hồ Chí Minh và chúng ta nên xuyên tạc vấn đề dân chủ, còn chúng ta thì lại thần hồn nát thần tính mà né tránh vấn đề này. Nói không quá đáng, vô tình chúng ta đã chống Hồ Chí Minh và chống lại chính chúng ta. Cả một lũ cơ hội thoái hóa biến chất, vô đạo đức, vô chính trị lợi dụng cái hớ của chúng ta về mặt chính trị mới có thể ngang ngược, nhũng nhiễu, nén ép nhân dân đến như thế. Phải chân thành và thẳng thắn nhắc lại rằng những vụ việc xảy ra đây đó và điển hình là vụ Thái Bình, trườc hết đ/c Đỗ Mười và những đ/c nào né tránh vấn đề dân chủ phải chịu trách nhiệm. Các đ/c phải nghiêm chỉnh kiểm điểm trước hương hồn Bác Hồ và hương hồn tất cả các thế hệ đã ngã xuống vì độc lập, tự do và dân chủ. 
Chẳng lẽ chúng ta cứ phải bàn mãi về một vấn đề đã rõ như ban ngày là vấn đề dân chủ. Thiết nghĩ không cần phải định nghĩa thế nào là dân chủ hoặc thuyết minh tầm quan trọng của dân chủ. Đối với ai cố tình không hiểu chỉ cần nhắc sơ qua với họ. Chỉ cần nhắc họ nghĩ lại một chút. Chúng ta chiến đấu hàng trăm năm qua không phải vì độc lập dân chủ tự do thì vì cái gì ? Chúng ta chiến đấu 30 năm lại chẳng là để bảo vệ một nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ư ? Nếu giữa quân với dân, giữa Đảng với dân mà không có dân chủ thì vừa rồi lấy gì bảo đảm chiến thắng hai đế quốc lớn? Đảng của Hồ Chí Minh nếu không có dân chủ thì ai đi theo và làm thế nào để tạo nên sự nghiệp vĩ đại như ngày nay? Nếu không có dân chủ thì lấy gì để thoát khỏi nạn đói kinh niên và lên hàng thứ ba thế giới về xuất khẩu gạo?
Liệu nhà lý luận nào dám nói rằng không cần dân chủ vẫn có thể công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước?
Ai cũng thấy rằng dân chủ là cơ sở cho mọi sự phát triển. Cho nên nếu nơi nào hoặc lĩnh vực nào chưa phát triển thì phải xem việc thi hành dân chủ ở đó ra sao.
Cứ khi nào gặp khủng hoảng là chúng ta lại kêu gọi mở rộng và phát huy dân chủ. 
Việc ban hành chính sách dân chủ hóa cơ sở là một chuyển biến mới rất tốt, nhưng thử hỏi cấp cơ sở làm sao thi hành được dân chủ khi mà Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất cũng không thể hiện được đầy đủ tinh thần dân chủ. Vì sao vấn đề Thái Bình và nhiều vấn đề nghiêm trọng khác của đất nước chưa được đưa vào chương trình nghị sự của Quốc hội và không một đại biểu nào kể cả đại biểu Thái Bình dám đề xuất nêu vấn đề để giải quyết. Chúng ta thừa hiểu Quốc hội của các nước tư bản cũng là một thứ dân chủ hình thức thôi nhưng dù sao nó cũng vẫn có tác dụng nhất định vì có sự cọ sát giữa các lực lượng đối lập. Chúng ta không muốn có một Quốc hội dân chủ hình thức kiểu tư sản nhưng chẳng lẽ chúng ta lại cứ vui vẻ chấp nhận một Quốc hội kiểu hình thức như  hiện nay của chúng ta. Hoặc là chúng ta tổ chức một quốc hội dân chủ có quyền lực thực sự, có những đại biểu thực sự xứng đáng thay mặt dân để bàn việc nước. Nếu không thì nên để Bộ Chính trị giải quyết tất cả và chịu trách nhiệm tất ca, tránh mọi sự cồng kềnh và tốn kém. 
Đức Trần Hưng Đạo đã nhắc nhở vua nhà Trần phải khoan thứ sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc. Nhiều người cứ hay quên sách Ta mà chỉ nhớ sách Tàu, nhưng nhớ sách Tàu cũng cần phải nhớ cho đúng và viện dẫn cho đúng. Kinh Thư viết: "Dân duy bang bản” ( Dân là gốc nước). Đã một thời một người nói nhầm và bao nhiêu người  nói nhầm theo. “Phải lấy dân làm gốc”. Thử hỏi trong chế độ ta hiện nay ai là người có quyền lấy hay không lấy?  Nên từ chỗ hiểu sai, nói sai đến chỗ làm sai có xa nhau là bao nhiêu mà không phát sinh tai họa. Tự nhiên lại biến chủ ngữ (thực sự là những ông chu, bà chủ của đất nước ) thành một thứ tân ngữ thụ động rồi thi nhau sai khiến, hoạnh họe, hành hạ, bóp nặn. Cho nên không lấy làm lạ khi thấy dân đã phản ứng:
Làm dân thì cứ làm dân
Chớ có làm gốc mà thân chẳng còn
(Ca dao mới)
Mà sao người ta cũng lại vội quên nhanh thơ Tố Hữu đến thế :
Con chim biết nhớ đàn nhớ tổ
Ta nhớ người đau khổ nuôi ta
Ơn người như mẹ như cha
Lòng dân yêu Đảng như là yêu con
(Ba mươi năm đời ta có Đảng)
Đây không chỉ là thơ ca mà còn là nghĩa tình, là đạo lý, là lịch sử và chân lý.
Chắc rồi cũng phải thảo luận v/đ này: do quí trọng Hồ Chí Minh và Đảng cộng sản nên nhân dân đã viết hoa chữ Bác và chữ Đảng vốn là những danh từ chung. Vậy Đảng có nên tỏ lòng kính trọng dân bằng cách cũng viết hoa chữ Dân không?. Và hẳn báo Đảng phải lam gương mẫu đầu tầu trong chuyện này. Âu cũng là một cách nhắc nhở rất tốt cho mọi đảng viên phải luôn luôn nhớ rằng mình “vừa là người lãnh đạo, vừa là đầy tớ của nhân dân” (Di chúc) để không bao giờ dám hỗn với Dân và không bao giờ dám vi phạm pháp luật do chính những người đại biểu chân chính của Dân (tức là Quốc hội) đã thông qua và ban hành, và như thế là thực hiện đúng lời răn của Hồ Chí Minh: “Chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta” (Hô Chí Minh toàn tập - Tập X trang 835). 
Dứt khoát phải kiểm điểm những kẻ có lối nói khinh mạn thiếu văn hóa đối với Nhân dân như trường hợp ông giám đốc Sở văn hóa thông tin TP Hồ Chí Minh dám nói trước một hội thảo khoa học bàn về văn hóa, sau còn in trên kỷ yếu và các tạp chí (tạp chí Xưa và Nay, Tạp chí KHXH) như sau:
. (…) “Để đương đầu có hiệu quả với những nguy cơ thách thức trong quá trình giao lưu mở cửa, Thành phố không thực hiện chính sách đóng cửa, tự giam hãm mình trong tính riêng biệt văn hóa, khước từ giao lưu, đối thoại và đổi mới; đồng thời cũng không để cho mọi người dân tiếp nhận xô bồ tất cả, không phân biệt hay dở tốt xấu để đi đến chỗ mất gốc, lai căng và cuối cùng sẽ bị đồng hóa hòa tan, chứ không phải là hội nhập với nền văn hóa thế giới” *
Chính những kẻ từ trong dân mà ra, được nhân dân nuôi dưỡng dạy dỗ mà trưởng thành lên lại dám mở miệng nói giọng khinh thường nhân dân như thế. 
Cũng do làm cho quần chúng e ngại, sợ sệt, không dám phê phán những đảng viên làm sai hoặc có thái độ sai nên nhiều đảng viên đã thoái hóa và sa đọa rất nhanh. Nhân đây cũng kiến nghị với Quốc hội và Chính phủ nên có sắc lệnh bỏ tất cả những chữ xin trong đơn từ của Dân: đơn xin cấp giấy chứng minh, đơn xin cấp hộ khẩu, đơn xin sửa nhà” mà thay bằng “đơn đề nghị, đơn kiến nghị, đơn yêu cầu”. Đây không chỉ là vấn đề thay đổi từ ngữ mà là vấn đề thay đổi nhận thức về quyền hạn của dân và nghĩa vụ của kẻ công bộc .
Chúng tôi cũng hoan nghênh Bộ Chính trị đã đánh giá đúng tình hình Thái Bình và nghiêm túc nhận trách nhiệm:
(…) “ Sự việc vừa qua ở Thái Bình là nghiêm trọng, kéo dài, để lại hậu quả rất nặng nề. Ở các địa phương khác, những biểu hiện sai phạm tương tự như Thái Bình cũng đã xuất hiện” (…) Để xảy ra tình trạng khiếu kiện tập thể gay gắt ở Thái Bình là do những sai lầm trong lãnh đạo chỉ đạo của Tỉnh ủy, Uy ban nhân dân tỉnh, (…) Mặt khác để xảy ra tình trạng nghiêm trọng ở Thái Bình còn có phần trách nhiệm của Bộ Chính trị và chính phủ; thể hiện rõ nhất là tình trạng quan liêu, không nắm được thực chất tình hình, đánh giá bố trí cán bộ chủ chốt của tỉnh vừa qua chưa đúng” 
(Trích tập san Sổ tay xây dựng Đảng của Ban tư tưởng văn hóa TP Hồ Chí Minh 4-1998)
Vậy thử hỏi :
- Vì sao có tình trạng quan liêu?
- Vì sao không nắm được thực chất tình hình?
- Vì sao có sự đánh giá bố trí cán bộ chủ chốt của tỉnh chưa đúng? 
1/ Lénine và Hồ Chí Minh đã nhắc rất nhiều về vấn đề cần cảnh giác trước tình hình quan liêu hóa bộ máy Đảng và nhà nước. Thế mà chúng ta vẫn mắc. May mắn là bệnh chưa nặng đến mức sụp đổ. Nhưng chẳng lẽ tình hình nghiêm trọng kéo dài như ở Thái Bình và nhiều tỉnh khác mà ta vẫn chưa tỉnh ngộ một cách đầy đủ để bàn bạc một cách thực sự nghiêm túc và giải quyết vấn đề sao? Chẳng lẽ chưa cần để cho những người trí thức chân chính đang thức ngủ cùng với dân tộc bàn bạc một cách nghiêm túc? Chúng ta không nên lặp lại sai lầm  của cơ quan KGB của Liên Xô trước đây (nó gây ra tình trạng sợ hãi, kìm hãm và hủy hoại trí tuệ và vô tình khuyến khích lối sống cầu an của một bộ phận trí thức ươn hèn).Ta thử tưởng xem trong một đất nước mà chỉ một số nào được quyền nói rồi bao người khác mệnh danh là trí thức phụ họa theo, bất kể đúng sai, thì đất nước đó sẽ ra thế nào? Một dân tộc mà đại đa số những người hiểu biết không dám nói ra sự hiểu biết của mình thì dân tộc ấy sẽ tồn tại ra sao, phát triển ra sao? Người xưa nói “ thần thiêng tại bộ hạ” . Nếu ta chỉ chấp nhận nuôi một lũ bộ hạ dốt nát, cơ hội, tham lam trục lợi, chăm chăm gọi dạ bảo vâng thì tình hình sẽ ra sao? 
Có những việc nhỡn tiền ai cũng thấy vô lý nhưng không dám nói. Cụ thể như việc phát giải thưởng Hồ Chí Minh. Có một số người không xứng đáng lại được nhận. Có người xứng đáng lại không được nhận. Điển hình là trường hợp học giả Đào Duy Anh . Chỉ tính từ năm 1930 đến nay có thế hệ trí thức nào ở Việt Nam không chịu ảnh huởng tốt đẹp do được học tập những tác phẩm của Đào Duy Anh? Có thế hệ nghiên cứu nào không chịu ơn Đào Duy Anh? Một người suốt đời mang toàn bộ trí tuệ và tâm huyết của mình để phát triển nền văn hóa của đất nước bằng những tác phẩm đồ sộ cả về số lượng và chất lượng lại chưa đáng được tôn vinh hay sao? Vì sao không công nhận Đào Duy Anh mà lại không giải thích cho nhân dân hiểu? Bên cạnh những công lao to lớn, Đào Duy Anh đã phạm sai lầm khuyết điểm gì? 
Và chẳng lẽ tất cả những người được trao giải thưởng Hồ Chí Minh hay nói rộng hơn tất cả những người đang được tôn vinh ở chế độ ta lại không hề mắc một sai lầm khuyết điểm gì chăng? Tại sao chúng ta quá ư rộng rãi với người này và quá ư khắt khe với người khác? * . Thử hỏi lịch sử văn hóa Việt Nam mà thiếu những tên tuổi tầm cỡ lớn như Đào Duy Anh thì lấy gì để tự hào? Chúng tôi biết có những vị nhận giải thưởng Hồ Chí Minh cảm thấy áy náy nhưng không dám phát biểu. Lại nhớ khi  Viện hàn lâm thời Nga Sa hoàng không chịu kết nạp nhà văn Mácxim Goócki thì  hai ông viện sĩ Sêkhốp và Lep Tônxtôi đã phản đối bằng cách xin rút ra khỏi Viện Hàn lâm. Bao giờ trí thức Việt Nam hiện đại lại phục hưng được khí phách  của Chu Văn An, Nguyễn Cảnh Tuân, Phan Chu Trinh, Nguyễn Ai Quốc  . . . Tất nhiên  có không ít các loại giải thưởng cần được duyệt lại (các giải thưởng văn thơ, nghiên cứu …) nhưng chúng tôi đặc biệt kiến nghị Hội đồng xét giải thưởng Hồ Chí Minh duyệt lại đợt khen thưởng vừa qua. Chỉ nói quan liêu thì  hình như chưa đủ. Những bộ sách lớn như Từ điển Hán-Việt, Từ điển Pháp-Việt, Việt Nam văn hóa sử cương, Cổ sử Việt Nam, Đất nước Việt Nam qua các đời, Từ điển truyện Kiều, Nguyễn Trãi toàn tập . . . mà người ta còn lờ đi không thấy, nói chi đến vài trăm ngàn trang đơn khiếu tố của bà con ít học hoặc thất học.
Như vậy là có lúc ta không nhìn thấy hết những đỉnh cao văn hóa,  có lúc chúng ta lại không nhìn ra được cái nền tảng của văn hóa. Hết sức khinh thường những người  đang hằng ngày hằng giờ làm ra văn hóa. Vậy chẳng lẽ lại là quá đáng hay cực đoan khi gọi những việc đối xử tồi tệ với hàng chục triệu con người đang hằng ngày hằng giờ sáng tạo ra văn hóa (nông dân, công nhân, trí thức. . .)  là những hành động phản văn hóa ? Và khi kiên quyết thanh toán tầng lớp “tân cường hào” và”tân quan cách mạng” đang làm ruỗng mọt bộ máy Đảng và bộ máy Nhà nước lại không phải là hành động văn hóa?  Gạt bọn phản văn hóa đi để cho nhân dân được “cơm no áo ấm và được học hành” , được tự do sáng tác văn học nghệ thuật, nghiên cứu khoa học, và được hưởng những thành quả đó một cách thực sự. Đó chẳng phải là phương pháp tối ưu để làm đậm đà bản sắc dân tộc hay sao ?
2/ Vì sao không nắm được thực chất tình hình? 
Trung ương Đảng và Chính phủ làm sao nắm được thực chất tình hình khi những ý kiến của dân đưa lên đều bị chặn lại. Những thông tin cần thiết phản ánh nguyện vọng chính đáng của  nhân dân kể cả những oan khuất của nhân dân đâu có thể tìm thấy trong các báo cáo thường kỳ và càng không thấy trên các phương tiện truyền thông (báo chí, đài phát thanh, đài truyền hình). Thỉnh thoảng cũng có những phóng viên dũng cảm và tổng biên tập có tâm huyết đăng một vài tin và phóng sự nói lên sự thật, nhưng hoặc là bị lờ đi coi là cá biệt không đáng để tâm cứu xét, hoặc có khi lại hành hạ người viết. Và chúng ta đã yên tâm ở trong tình trạng ổn định như thế, không cần lo đến những đợt sóng lừng đang ầm ầm chuyển động. Sao chúng ta lại có thể yên tâm trong cái tình trạng ổn định giả tạo như thế được? 
Đáng lẽ tình hình xảy ra đến đâu ta phải giải quyết đến  đó. Một sự phản ánh kịp thời của nhà văn Đoàn Phú Tứ và sự giải quyết kịp thời của Chủ tịch Hồ Chí Minh khiến hiện tượng Trần Dụ Châu không thể nảy nở được. Nếu không có hành động kiên quyết như Hồ Chí Minh thì làm thế nào chặn được thói quân phiệt, tham nhũng lúc ấy đang ló mầm trong quân đội? 
Vậy xin phép hỏi: vừa qua những Đoàn Phú Tứ mới ở đâu? Chẳng lẽ những Đoàn Phú Tứ ở Thái Bình và một số nơi nóng bỏng khác lại không trông và không nghe thấy gì chăng? Hay là phải giả vờ bưng tai bịt mắt?  Hay là cứ đành giữ tâm lý bất lực nhìn bọn tham nhũng hoành hành rồi cùng với nhau lắc đầu: khó lắm! khó giải quyết lắm! Dựa vào tâm lý bất lực này bọn tham nhũng càng ra sức hoành hành, đục khoét, bóp nặn . . .
Lại nói đến tình hình báo chí ở Trung ương và các địa phương: tình hình âm ỉ kéo dài hàng chục năm trời, các phóng viên thường trú và các phóng viên địa phương có biết rõ tình hình không ? Có dám viết bài phản ánh không ? Nhân dân bất bình liên tục khiếu tố như thế, họ có biết không ? Họ có kiến nghị gì với trên không? Hỏi thế thôi chứ nhân dân thừa biết ai là kẻ có bản lĩnh, ai là kẻ thiếu bản lĩnh. Xưa nay ở ta cũng thế mà ở Tàu ở Tây cũng thế, kẻ viết (écrivant)  thì nhiều chứ còn nhà văn (écrivain ) thì có mấy. Báo chí cũng thế thôi, viết báo nhằm kiếm cơm thì đông, còn viết để bảo vệ chân lý, bảo vệ nhân dân thì được là bao nhiêu? 
Vả lại cũng phải thông cảm với họ, khi có những người như Phùng Gia Lộc viết được: “cái đêm hôm ấy đêm gì?” người ta liền tìm cách bao vây, vùi dập va Phùng Gia Lộc đành chết trong đói khổ. Làm gì  mà chẳng xảy ra tình trạng “sĩ khí dụt dè gà phải cáo” và đành "may thuê viết mướn kiếm ăn lần hồi". 
Điều đáng buồn là bây giờ làm thế nào chứng tỏ tính ưu việt của nền văn học và báo chí cách mạng của chúng ta? Làm thế nào để bảo đảm chúng ta đang đi đúng định hướng XHCN? Đ/c Hữu Thọ,Trưởng ban Tư tưởng-Văn hóa Trung ương vừa rồi một mặt thì biểu dương tinh thần các vị cách mạng lão thành và cựu chiến binh ở Thái Bình mặt khác lại nói rằng dù sao cũng không nên “cầm đầu” để dân chống lại lũ cường hào tham nhũng. Như thế là cả một thời gian dài lãnh đạo báo Nhân dân, cơ quan ngôn luận của Đảng, đ/c Hữu Thọ đã bưng tai ngoảnh mặt làm ngơ. Và tình hình xấu như hiện nay đ/c Hữu Thọ và báo Nhân dân có chịu trách nhiệm gì không và chịu đến đâu? Thế là cường hào tham nhũng hoành hành thì đ/c không phát hiện để ngăn chặn, nhân dân chống lại thì bảo “không nên”.  Vậy đ/c H.Thọ đứng trên quan điểm lập trường nào? Và đ/c Hữu Thọ cũng với những người cố tính làm lơ cứ để cho ung nhọt phát triển và không đồng ý cho giải phẩu thì hậu quả để cho chế độ ta đi về đâu?
Điều khôi hài là đ/c Hữu Thọ cũng chưa tìm được cách nào để khuyên bảo bọn tham nhũng ngừng tay. Tất nhiên khuyên bọn cường hào tham nhũng thôi đừng tham nhũng nữa thì thật là vượt quá sức đ/c Hữu Thọ. Vậy chúng tôi khuyên đ/c Hữu Thọ: trong khi chưa tìm được giải pháp hữu hiệu thì tốt hơn hết là đừng nên khuyên bảo bên nào cả.
Tóm lại, đúng như Nguyễn Trãi nói: “Họa phúc hữu môi phi nhất nhật”. Cái việc các đ/c chưa nắm được thực chất tình hình này, mới xem qua thì đúng là lỗi tại các nhà văn, nhà báo, bộ máy quan liêu… nhưng truy nguyên đến gốc thì là các Bộ Chính trị trước đây phải chịu trách nhiệm về việc tạo ra cái cơ chế ngăn chặn thông tin, không cho mọi người nói thẳng, nói thật. Đến khi nghị quyết Đại hội VI ghi được câu: “nhìn thẳng vào sự thật, nói đúng sự thật và nói hết sự thật” là một bước chuyển biến rât lớn, rất cơ bản, nhưng tiếc rằng chúng ta thực thi không được bao nhiêu. Nếp cũ kết kén quá lâu rồi.
4- Vì sao có sự bố trí, đánh giá cán bộ chủ chốt của tỉnh chưa đúng? 
Bộ Chính trị nhận   xét như thế là đúng. Không phải vừa rồi ta mới nhầm mà là ta nhầm từ lâu rồi. Ta thử bình tâm xem xét : bao nhiêu người giỏi giang, sắc sảo, được kết nạp vào Đảng? Bao nhiêu Đảng viên xuất sắc tức là có tư duy, có bản lĩnh được tham gia cấp ủy? Vì nếp nghĩ thâm căn cố đế của tiểu nông là “xấu đều hơn tốt lỏi”. Còn những ai nhẫn nhục, biết giấu bản lĩnh của mình đi, chiều theo ý đa số thì thường thường theo thời gian cũng tiêu mòn hết mọi góc cạnh để được khen là có “tác phong quần chúng” và biết “hòa mình”. Trong thời kỳ cướp chính quyền hoặc tiến hành kháng chiến thì nếp sống, nếp nghĩ này chưa lộ rõ những nhược điểm. Nhưng trong thời kỳ xây dựng kinh tế, khoa học kỹ thuật thì nếp sống nếp nghĩ này tạo ra một sự cản trở rất lớn. Tình hình đòi hỏi chúng ta phải kết nạp và đề bạt đảng viên theo những tiêu chuẩn mới. Chúng ta phải từ bỏ nếp nghĩ rất đúng rất đẹp của một thời mà bây giờ không còn thích hợp nữa. Có ai dám nói rằng những ý thơ và hình ảnh sau đây không đẹp và không đúng:
Một ngôi sao chẳng sáng đêm
Một bông lúa chín chẳng nên mùa vàng
Một người đâu phải nhân gian
Sống chăng một đốm lửa tàn mà thôi.
(Tố Hữu_ Lời ru)
Rõ ràng những ý tưởng này chỉ đúng với xã hội tiểu nông. Ở xã hội đó công cụ thì thô sơ, lao động chủ yếu dùng cơ bắp và kinh nghiệm, công nghệ và kỹ thuật ở trình độ rất thấp kém, cá nhân phải dựa vào cộng đồng, phải hòa tan vào đó mới tồn tại được. Cá nhân ở trong những cộng đồng xã hội ấy được xác định giá trị một cách tự nhiên và hiển nhiên: một hạt cát, một hạt muối, một giọt nước, “một cây làm chẳng nên non”, “nhiều người vỗ tay nên bộp”. Và mỗi thành viên của cộng đồng phải yên tâm chấp nhận cái vị thế, cái thân phận ấy: thế là khiêm tốn,biết điều. Tóm lại đó là đạo lý của một thời. Đạo lý của một thời nhưng lại mang tham vọng trở thành của muôn thủơ.
Trong một bài nghiên cứu trước đây, chúng tôi đã nêu rõ sự cống hiến tuyệt vời sức mạnh và đạo lý của cộng đồng này trong việc dựng nước và giữ nước. Nhưng cũng cay đắng mà nhận rằng khi đụng đầu với chủ nghĩa tư bản phương Tây ở đầu thế kỷ này thì sức mạnh cộng đồng sức mạnh và đạo lý Châu Á đã lộ hết mọi yếu kém một cách thảm hại. Vừa qua ông Lý Quang Diệu và một số thủ lĩnh các nước con rồng lại muốn dựa vào vốn và  kỹ thuật của phương Tây phối hợp với phần tiêu cực nhất của đạo lý Nho giáo phương Đông để tạo ra bước tiến thần kỳ về kinh tế. Không giải phóng lực lượng sản xuất ra khỏi ý thức hệ phong kiến mà lại mong phát triển CNTB nhanh hơn cả bậc thầy của mình, nghĩa là họ định tạo ra một phương thức sản xuất TBCN Châu Á. Cũng may cuộc khủng hoảng tài chính kinh tế vừa qua ở khu vực đã khiến cho nhiều học giả ở nước ta giật mình thấy rằng ca tụng sự thần kỳ của 5 con rồng một cách quá lời như vừa qua là một sự vội vã và nhầm lẫn *. Thực ra duy trì đời sống tâm linh xã hội như cũ với đạo lý cũ, với lễ hội cổ truyền, với các phong tục tập quán cổ xưa thì tạo ra được sự ổn định nhất thời, nhưng đó là mặt thứ yếu. Mặt chủ yếu là các chủ doanh nghiệp, chủ trang trại… tha hồ bóc lột tha hồ làm mưa làm gió mà thu lợi nhuận và siêu lợi nhuận. Tại sao lại dám phản đối ông chủ bằng đình công bãi công? Tại sao lại đòi bản quyền và sở hữu trí tuệ? Cắn răng chịu đựng là đạo lý, đừng đòi hỏi quyền lợi cá nhân là đạo lý. Và sao chép người xưa và người nước ngoài cũng là đạo lý.
Không có gì đáng ngạc nhiên khi đại long Nhật Bản và bốn tiểu long (Đài Loan, Singapo, Hồng Kông, Hàn Quốc) đều không có phát minh và phải bảo nhau đi cải cách giáo dục (giảm phần rèn luyện trí nhớ và tăng cường phát huy trí tuệ).
Thế là trong xã hội công nghiệp, một anh lái máy kéo giải quyết công việc của hàng trăm anh cày tay, cuốc tay. Một người không phải nhân gian, nhưng một người như Newton hoặc Einstein thì có khả năng tạo ra những “nhân gian” mới. 
Như thế là nhiều chuẩn mực cũ rất đúng rất đẹp nhưng không thích hợp với xã hội mới. Đó chính là ý nghĩa của vấn đề: không được phép xuyên tạc hoặc phủ nhận quá khứ , đồng thời cũng không được phép quay lưng lại với hiện tại để say sưa ngắm nhìn quá khứ rồi phủ nhận hiện tại. Về nguyên tắc bao giờ cũng phải lấy hiện tại làm chuẩn mực, đây là một sự khác biệt cần phải nhận thức cho rõ. Trong Tuyên ngôn của Đảng cộng sản, Marx và Engels đã khẳng định: các giai cấp bóc lột dùng quá khứ thống trị hiện tại, chỉ riêng có giai cấp vô sản lấy hiện tại để thống trị hiện tại. Rất tiếc nhiều người không thấm nhuần quan điểm này nên vẫn lấy quá khứ làm tiêu chuẩn, làm khuôn mẫu. Cần nhớ rằng khi chúng ta tuyên bố: không được phủ nhận sạch trơn quá khứ thì có nghĩa là không được phủ nhân những gì là tốt đẹp của quá khứ. Còn những gì là không tốt đẹp thì có quyền phủ nhận và đào thải. Ở ta hiện nay có tình trạng không phân biệt quá-khứ-tốt-đẹp và quá-khứ-hủ-bại thành ra cái đáng phục hồi lại không phục hồi, cái không đáng phục hồi lại phục hồi. Truyền thống nữ quyền thời Bà Trưng, Bà Triệu, truyền thống trọng nhân tài, trọng thực tài thời Lý Trần thì coi nhẹ nhưng truyền thống vọng ngoại, truyền thống giáo điều của thời Lê mạt và thời Nguyễn thì lại được kế thừa và phát huy mạnh mẽ. Cho nên khi nói “về nguồn” thì người ta không hề nhớ rằng phải về tận nguồn thời Hùng Vương, thời Lý Trần chứ không phải về lơ lửng thời Lê, thời Nguyễn. Có thời các vua Lê, vua Nguyễn coi khinh gốm nội địa - từng nổi tiếng thời Lý, thời Trần, thời Mạc và đã từng xuất khẩu đi nhiều nước - đua nhau đi đặt hàng gốm sứ Trung Quốc . Bây giờ lại đua nhau ca tụng đồ men lam Huế như một thứ quí báu của dân tộc mà thực chất là hàng Tàu. Truyền thống vọng ngoại còn được phát huy đến mức đi nhập về thượng vàng hạ cám cả tăm tre, nước mía Thái Lan, bánh qui Singapor… Rất nhiều vị giám đốc, tổng giám đốc còn đi tha những dây chuyền công nghệ lỗi thời, tích cực góp phần biến nước nhà thành bãi thải công nghệ của chủ nghĩa tư bản . Đó là biểu hiện hết sức tế nhị của tư duy tiểu nông trọng cổ bạc kim. Kỳ quái hơn nữa là đáng lẽ phải cổ vũ tinh thần hiếu học thì người ta lại cổ động cho tinh thần từ chương cử nghiệp, lại học vẹt học tủ, lại bằng cấp giả mạo, áo mũ của cử nhân tú tài thì nửa Tàu nửa Tây rất lố lăng… Nêu lên như thế để thấy rằng thế nào là truyền thống văn hóa, thế nào là thái độ đúng đắn đối với hiện tại và quá khứ quả là còn phải thảo luận nhiều để có thể hình thành một cương lĩnh văn hóa mới đáp ứng được nhu cầu của dân tộc và thời đại.
Lại còn chuyện vận động bà con các dân tộc thiểu số như Thái, Mèo, Mường, Mán… mặc đúng y phục dân tộc trong sinh hoạt hàng ngày kể cả trong lao động để giữ được bản sắc dân tộc. Nhầm! Trước hết họ không hiểu rằng mặc những bộ quần áo như thế trong khi lao động thì vướng víu ra sao và may một bộ đồ thêu đúng hoa văn với những chỉ ngũ sắc như thế tốn kém ra sao (tối thiểu là 1 triệu rưỡi đồng một bộ). Cần thấy rằng y phục là phải phù hợp với điều kiện sinh hoạt của các nhóm xã hội khác nhau, phù hợp với từng thời đại theo hướng tiến hóa chung của nhân loại. Giữ truyền thống kỹ như  Nhật Bản mà phụ nữ Nhật hiện đại đâu phải lúc nào cũng mặc kimono (vì nó đắt tiền và mặc rất tốn thời gian). Ngay hoàng gia Nhật Bản cũng chỉ mặc lễ phục trong một số ngày nhất định. Còn Nhật hoàng và thái tử Nhật cũng chỉ mặc sơ - mi và veston như dân thường. Ngay tôn giáo được coi là bảo thủ nhất về y phục thế mà có tôn giáo như  Thiên chúa giáo cũng cho các tu sĩ của mình cải cách về y phục.
Nếu  lấy việc ăn mặc để đảm bảo cho việc giữ bản sắc và truyền thống thì mỗi dân tộc cần phải lấy y phục của thời kỳ nào làm chuẩn?  Ở ta rõ ràng không thể lấy y phục thời Hùng Vương làm chuẩn. Vậy lấy y phục thời Nguyễn chăng? Hay thời Lê? Hay thời Lý Trần? Và một vấn đề được đặt ra là tại sao y phục thời Nguyễn lại dám thay đổi không theo thời Lê Trịnh? Mà nhiều học giả hiện nay lại yêu cầu ta phục hồi khăn đóng áo dài nghiã là mặc y phục theo thời Nguyễn. Và các thời đều đã thay đổi y phục theo đúng qui luật tiến hóa. Vậy thì thời ta lấy cớ gì mà đưa ra thứ lý luận dứt khoát phải trở lại với  khăn đóng áo dài thời Nguyễn mới là dân tộc? 
Đầu thế kỷ XX các cụ sĩ phu ở Quảng Nam đã phát động phong trào cắt tóc ngắn, bỏ hẳn búi tó củ hành thế mà cuối thế kỷ XX con cháu lại hô hào khăn xếp áo lương chùng?  Thế là tiến bước hay giật lùi. Nói như thế để thấy rằng vấn đề giữ gìn bản sắc và truyền thống không thể giới hạn một cách hẹp hòi ở một vài lĩnh vực như ăn uống, lễ hội . . . Bản sắc văn hóa của một dân tộc bao gồm toàn bộ nếp cảm, nếp nghĩ và nếp sống của dân tộc đó trong từng thời kỳ lịch sử và cần nhớ rằng những nếp này luôn luôn tiến hóa. Trong giao lưu văn hóa, các dân tộc luôn luôn thu hút những tinh hoa của nhau nên cùng nhau cải tiến và xu hướng đại đồng là xu hướng tất yếu của nhân loại. Đã đến lúc tưởng các nhà nghiên cứu lý luận về văn hóa cũng không nên quá nhấn mạnh vào cái phần tiểu dị để gây những phiền toái cho dân tộc khiến cho dân tộc chậm phát triển.
Nói riêng chuyện mặc đồng phục trong nhà trường hiện nay, cứ theo đà qui định tùy tiện của từng trường hình như đó là cách tốt nhất để loại con em nhà nghèo ra khỏi trường học. Và các cô giáo ngày nào cũng phải mặc áo dài lên lớp  cũng trở thành một thứ “cực hình”.
Thực chất hay hình thức? Nói qua về vấn đề y phục như thế để thấy rằng mỗi nội dung đều biểu hiện bằng một hình thức nhất định, không thể xem nhẹ hình thức. Nhưng cũng không nên quá nhấn mạnh vào hình thức để rồi sa vào hình thức chủ nghĩa. Cần phải nhìn thẳng vào thực tế và căn cứ vào những nhu cầu của đời sống văn hóa chính trị để rà soát lại mọi thứ “hình thức” xem cái nào đáng giữ, cái nào đáng bỏ.
Nhìn một cách tổng thể ai cũng thấy rằng một nền kinh tế kém phát triển như nền kinh tế của chúng ta, một đất nước nghèo vào bậc nhất thế giới như nước ta làm sao có đủ khả năng nuôi nổi bộ máy cồng kềnh như nhà nước ta hiện nay. Nên nhớ một đất nước có nền kinh tế phát triển như nước Pháp (gấp trăm lần nước ta) mà chỉ dám nuôi một bộ máy bằng 1/10 số lượng viên chức trong bộ máy của ta. Chỉ trả lương cho 2,3 triệu đảng viên thì ngân sách chúng ta đã khó kham nổi rồi. Huống chi còn bao nhiêu loại viên chức khác. Chúng ta đã đặt ra quá nhiều thứ ban bệ trùng lắp và không có hiệu lực. Có ban thanh tra lại có ban kiểm tra. Đảng có tuyên huấn, công đoàn có tuyên huấn, phụ nữ có tuyên huấn. mặt trận có tuyên huấn.  Cấp trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện đều có tuyên huấn, … hầu như chỗ nào cũng có tuyên huấn. Trong khi đó chính phủ lại có ca một bộ máy tuyên huấn rất lớn là Bộ Văn hóa -thông tin… Rõ ràng tổ chức tuyên huấn quá nhiều mà hiệu quả tuyên huấn càng ngày càng kém. Ta thường nói rằng: chúng ta có khuyết điểm buông lỏng giáo dục tư tưởng nhưng nếu như không buông lỏng thì cũng chưa có cách nào để công tác giáo dục tư tưởng có hiệu lực như thời kỳ chống Pháp hoặc chống Mỹ. Vậy đến bao giờ chúng ta mới sắp xếp lại tổ chức này? Chẳng lẽ cứ để các tổ chức tuyên huấn của Đảng của Chính quyền và các Đoàn thể song song tồn tại mãi mãi. 
Còn thanh tra thì chúng ta có một hệ thống thanh tra dọc từ trung ương đến địa phương và cũng có ba bộ phận như thế:thanh tra của Đảng, thanh tra của Chính quyền, và có cả thanh tra  nhân dân. Thế mà có những vụ việc như ở Thanh Hóa, Trung ương phải cử lần lượt 13 đoàn thanh tra về mới phát hiện được vấn đề và mới kết thúc được. Còn hầu hết những vụ tham nhũng hiện nay sở dĩ phát hiện được là do quần chúng chứ không phải do thanh tra. Có vụ Thanh tra  đã có kết luận chính thức (như vụ 51 tấn bột ngọt ở T.P Hồ Chí Minh ) nhưng không xử lý cũng chẳng ai nói gì. Rõ ràng bộ máy thanh tra rất kém hiệu lực. Có những lúc những nơi gần như tê liệt. Chúng ta có nên duy trì một bộ máy thanh tra như thế không?  Có nên giữ một một tổ chức hết sức hình thức là Ban thanh tra nhân dân các cấp?"
Hiện nay cần xem xét lại bộ máy quyền lực của chúng ta. Về lý thuyết chúng ta có một bộ máy nhà nước nhưng trong thực tế, chúng ta có hai bộ máy quyền lực: bộ máy Đảng và bộ máy Nhà nước chạy song song từ cấp trung ương đến cấp cơ sở.  Có lúc nằm kề nhau như Đảng có ban tổ chức Đảng, Nhà nước có ban tổ chức chính quyền. Bên Đảng có ban kinh tế của Đảng, bên chính phủ co ban kinh tế của Chính phủ, có lúc lại xen kẽ lẫn nhau. Một người vừa giữ chức vụ của Đảng, vừa giữ chức vụ chính quyền như phó bí thư kiêm chủ tịch hoặc bí thư Đảng kiêm phó viện trưởng . . .
Về nguyên tắc, ở nước ta cũng như các nước xã hội chủ nghĩa khác, Đảng cộng sản là Đảng cầm quyền. Đảng vừa lãnh đạo đường lối chính sách vừa lãnh đạo về mặt tổ chức. Do đó đảng viên nắm giữ chức danh của chính quyền từ trung ương đến cơ sở. Hầu hết các quan chức lãnh đạo của Nhà nước đều là người của Đảng. Ngay Quốc hội là bộ máy quyền lực cao nhất do dân bầu cử cũng có tới 80% là đảng viên. Đã có ý kiến so sánh: dân có hơn 60 triệu người chỉ có 20% là đại biểu. Còn Đảng chỉ có hơn 2 triệu mà có tới 80% là đại biểu. Tình hình thực tế này sẽ rất tốt nếu:
1- Mọi chủ trương chính sách của Đảng đều đúng.
2- Việc thực hiện mọi chủ trương đường lối và pháp luật đều đúng.
3- Mọi đảng viên từ cơ sở đến trung ương đều nghiêm chỉnh tuân theo pháp luật và được xử lý theo pháp luật như dân thường
     Mới nhìn thì thấy hai bộ máy song song nhưng xét kỹ thì thấy bộ máy này chồng lên và điều khiển bộ máy kia. Quốc hội là bộ máy lập pháp có quyền lực cao nhất trong nước theo qui định của hiến pháp nhưng theo đ/c Lê Quang Đạo, cựu chủ tịch Quốc hội, nhiều khi quốc hội biến thành “bộ máy giơ tay”. Từ lâu nhân dân thấy rằng Quốc hội đã mất quyền chủ động. Nông dân bất bình về tình hình bọn cường hào mới hoành hành làm mất quyền dân chủ nhưng không có một đại biểu quốc hội nào nêu thành vấn đề để thảo luận , kể cả những đại biểu Thái Bình, là nơi nổ ra một vụ hết sức nghiêm trọng làm kinh động dư luận toàn quốc. Chẳng lẽ các đại biểu quốc hội lại không nắm được tình hình? Vô lý! Dân còn biết, đại biểu quốc hội không biết thế nào được! Thế nghĩa là họ chỉ được nói và biểu quyết về những vấn đề đã được bật đèn xanh. Tình hình như thế có tốt không ? Rõ ràng là không tốt. Vậy nên giải quyết thế nào cho tốt ? Trước hết nên sửa lại cái cơ chế “ Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”
1- Để đảm bảo sự nhất nguyên và ổn định của bộ máy, tránh sự cồng kềnh, tốn kém nhân sự và tiền bạc nên chăng thống nhất quyền lực trong một bộ máy. Những chủ trương chính sách đã bàn kỹ ở Trung ương thì nhất thiết không phải bàn một cách hình thức ở Quốc hội nữa. Vẫn người đảng viên ấy vừa họp ở Trung ương vừa họp ở Quốc hội để bàn về cùng một vấn đề. Nghiêm trọng như vấn đề Thái Bình mà chỉ Bộ Chính trị mới có quyền nhận xét đánh giá còn Quốc hội không được quyền bàn, các phương tiện truyền thông không được đưa tin và thảo luận. Như thế là giống như một người có bệnh mà không được chẩn đoán để cứu chữa. Khi bệnh đã vào đến “ cao hoang” thì thần y  chắc cũng phải bỏ chạy.
2- Cũng có ý kiến cho rằng Đảng đã giao quyền cho Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp rồi nhưng các cơ quan dân cử này không làm tròn trách nhiệm của mình. Vậy thì lỗi tại ai, tại Trung ương hay tại Quốc hội? Vấn đề cần được làm sáng tỏ và qui trách nhiệm cho rõ ràng. Hiện nay có tình hình là: khi có một sự cố gì xảy ra thường không có người chịu trách nhiệm và không bị xử lý theo pháp luật. Chính Liên Xô và các nước Đông Âu đã để lại bài học cay đắng về việc không tôn trọng nhà nước pháp quyền và pháp luật không được thực thi một cách nghiêm minh. Hiện nay Bộ Chính trị Lê Khả Phiêu chủ trương “dân chủ hóa cơ sở”  chính là muốn trao thực quyền về tay nhân dân. Và lịch sử đã chứng minh rằng nếu dân được trao quyền dân chủ thực sự thì đó là sức mạnh vô địch. Trong thời gian chống Pháp cũng như chống Mỹ, bộ máy gián điệp cực kỳ mạnh mẽ và thâm độc của các đế quốc lớn sở dĩ  không thể hoạt động có hiệu quả là vì chúng không thoát khỏi con mắt cảnh giác và giám sát của nhân dân. Những lực lượng quân sự hùng hậu vào bậc nhất thế giới trở thành tê liệt và bất lực cũng là vì vấp phải sức đề kháng của toàn dân. Khi có sự lãnh đạo đúng đắn và có dân chủ thực sự thì mọi chuyện trở nên tốt đẹp.
Khi chúng ta trao quyền dân chủ thực sự cho dân có nghĩa là bầu một Quốc hội thực sự của dân (dân có quyền bầu và quyền bãi miễn đại biểu của mình) thì Quốc hội có trách nhiệm đề xuất và thảo luận về nguyện vọng và những vấn đề nóng bỏng trong đời sống của dân. Đại biểu nào thờ ơ trước những vấn đề bức xúc trong đời sống của dân sẽ được phê phán một cách thẳng thắn và nếu nhiều lần tỏ ý chống lại lợi ích của dân thì phải thẳng tay bãi miễn. Sẽ không còn tồn tại cái cảnh bầu 100% đại biểu theo dự kiến và chỉ định và tất nhiên cũng sẽ không tồn tại tiếp theo cái cảnh đại biểu Quốc hội gặp mặt trước và sau kỳ họp quốc hội, 100% đại biểu cử tri cũng dự kiến và chỉ định. Chẳng lẽ chúng ta lại không thấy rằng tình hình dự kiến và chỉ định cả cử tri và người đề cử kéo dài quá nhiều khóa quốc hội, tạo nên tình trạng dân chủ hình thức không thể chấp nhận được nữa. Chúng ta thường chê bai thứ dân chủ tư sản hình thức chẳng lẽ chúng ta lại kiến tạo thứ dân chủ xã hội chủ nghĩa cũng hình thức hay sao? Chúng ta phải đài thọ một Quốc hội quá tốn kém chỉ để một năm có mấy lần giơ tay biểu quyết những văn bản đã được thông qua bên Trung ưong Đảng rồi. Chúng tôi cũng thông cảm với những đại biểu thực sự có tài năng và tâm huyết muốn nói thẳng để xứng đáng là người đại biểu của dân, nhưng những người này phải im lặng vì trông gương những người nói thẳng trước mình đã gặp trắc trở như thế nào. Phải can đảm mà nhìn thẳng vào sự thật là chúng ta đang có một cơ chế chấp nhận sự “khôn ngoan” “chín chắn” mà thực chất đó là sự hèn nhát và dối trá. Sự dối trá này gây tai hại nặng nề cho những người cầm đầu đất nước. Khi không nhận được những thông tin chính xác, họ chẳng khác gì người lái con tàu mà bị che khuất mất tầm nhìn. Cần nhớ rằng chính cơ chế dân chủ hình thức này là một trong những nhân tố quyết định sự sụp đổ của Liên Xô và các nước Đông Âu. Nhân dân lao động ở nước ta cũng như ở tất cả các nước vì độc lập tự do và dân chủ sẵn sàng trả giá cho quyền sống thiêng liêng bằng sinh mạng của mình. Nhưng họ dứt khoát không trả giá một cách vô ích cho sự xa xỉ, dối trá và ngạo mạn. Không thể có chuyện điên rồ đi mổ xẻ một cơ thể lành mạnh, nhưng thực sự là khờ khạo và ngu xuẩn khi chống lại không chịu mổ xẻ ung nhọt loại bỏ những chất độc hại để cho cơ thể phục hồi lành mạnh.
Chúng ta không thể chỉnh đốn lại Đảng bằng cách hô suông lời kêu gọi các đảng viên phải sống có đạo đức. Khổng giáo đã từ hơn 2500 năm liền kêu gọi từ vua chúa đến thứ dân phải ra sức tu thân, tề gia, trị quốc. Thử hỏi những ai là người biết tu thân? Nếu thứ dân, quan lại và vua chúa đều tốt đẹp cả thì chế độ phong kiến đã tốt đẹp rồi còn gì phải thay đổi bằng chế độ khác. Một số vị học giả ngày nay lại lục lại và tri hô lên rằng tu thân là cần lắm. Sao lại có thể bỏ đi những đạo lý tốt đẹp như thế của Khổng giáo. Họ cho rằng xã hội xuống cấp về đạo đức là vì mọi người không biết tu thân. Duy tâm đến thế là cùng. Những vị học giả này không biết hoặc giả vờ không biết rằng đạo đức nhiều hay ít, cao hay thấp đâu có phụ thuộc vào ý muốn của mọi người. Nó do hoàn cảnh kinh tế chính trị và văn hóa của mỗi thời chi phối. 
Nhiều người nhầm tưởng đạo đức cá nhân là do tu dưỡng mà thành, thực ra người có đạo đức chính là người biết tôn trọng những qui ước thành văn (pháp luật) hoặc bất thành văn  (phong tục tập quán) của xã hội …Xã hội nào có pháp luật của xã hội ấy. Ai biết tôn trọng pháp luật chính là người có đạo đức. Chúng ta không thể yêu cầu mọi người vừa tuân theo pháp luật hiện hành lại vừa tuân theo những qui ước xa xưa lỗi thời . Trao chức vụ quyền lực tiền bạc mà không hề kiểm tra kiểm soát rồi lại cứ khuyên người ta phải liêm chính thì liêm chính sao được ? Buôn lậu, tham nhũng, ức hiếp quần chúng... không bị trừng trị lại còn được bao che nâng đỡ mà lại mong ước diệt được tội ác, trừ được quốc nạn, thì thật là hão huyền biết chừng nào!? 
Rất nhiều người hiểu rằng không phải do đạo đức cá nhân mà là do cơ chế nhưng cũng không dám đặt ra vấn đề sửa chữa, thay đổi cơ chế. Một đảng viên tốt hay xấu, làm đúng hay làm sai không thể che được mắt dân nhưng khi họ đã được ô dù che đỡ thì dân nào còn dám nói động đến đảng viên đó. Như thế là mỗi đảng viên có thể sống tốt hay xấu tùy theo ý mình. Những người kiên quyết sống đúng, sống tốt thì thường bị cô lập, bị hất đi một cách không thương tiếc, nhiều khi còn bị vu oan giá họa. Còn những đảng viên xấu thì kiên trì dùng mọi thủ đoạn dối trên lừa dưới để thăng tiến. Lúc nào họ cũng đáp ứng được yêu cầu của cấp trên. Cần lý lịch tốt ư ? Có lý lịch tốt. Cần nhận xét tốt ? Có nhận xét tốt. Cần bằng cấp ư ? Có bằng cấp. Trên đề ra yêu cầu nào họ đáp ứng ngay yêu cầu đó chỉ trừ có sự trung thực và hoàn thành nhiệm vụ. Đảng ta sở dĩ suy yếu đi và mất dần lòng tin của dân chính vì cái số đảng viên này phát triển quá đông. Hầu như nghị quyết nào cũng đề ra phải  chỉnh đốn lại Đảng, nhưng khi phải chỉnh đốn cái lũ cụ thể này thì ai cũng lắc đầu chép miệng. Một nghịch lý rất tai hại là: chỉnh đốn thì chưa được, vì đảng viên tiêu cực đông quá (những đảng viên tốt đều thận trọng nghĩ rằng: coi chừng kẻo mình chưa kịp “chỉnh đốn” nó thì nó đã “chỉnh đốn” mình.) Trong khi đó thì nghị quyết nào cũng kêu gọi phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng. Đây là điều hoàn toàn đúng và cần thiết. Nhưng chính những đảng viên tiêu cực lại lợi dụng khẩu hiệu này để tăng cường sự tham nhũng và ức hiếp quần chúng. Hỏi ai dám tố cáo họ ? Vì nếu tố cáo thì sẽ bị buộc ngay tội "chống lãnh đạo ". Cho nên từ lâu trong nhân dân đã lưu truyền cái thành ngữ: “ đấu tranh thì tránh đâu”.
Vậy một kết luận cay đắng cần phải rút ra là:  hoặc  chúng ta cam tâm ngồi nhìn cơ đồ sụp đổ, hoặc chúng ta phải can đảm mổ xẻ, cắt bỏ ung nhọt. Và người ta sẽ hỏi phải mổ xẻ chỗ nào, cắt bỏ cái gì ?
1- Chọn mặt mà giao quyền lực.
Đây là làm theo truyền thống của dân tộc: “chọn mặt gửi vàng”. Quyền lực còn quan trọng hơn vàng rất nhiều sao lại không thận trọng được ? Trước hết cần nhớ rằng quyền lực là khát vọng muôn đời của các tầng lớp nhân dân bị áp bức. Để giành được quyền lực nhân dân ta đã phải trả giá bằng hơn 1 thế kỷ đấu tranh và hy sinh xương máu. Sao nhân dân lại có thể giao một báu vật thiêng liêng phải trả bằng máu như thế vào tay những kẻ không xứng đáng. Phải trở lại vấn đề : nhân dân đang giao quyền lực cho ai?
_ Rõ ràng là đang giao cho Đảng cộng sản. Vì nếu quyền này không giao vào tay Đảng cộng sản thì cũng ở trong tay một Đảng khác. Do đó vấn đề Đảng cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền là đương nhiên không cần đặt ra nữa. Vậy thì vấn đề đáng được thảo luận là: 
1/ Nhận thức lại vấn đề phạm vi quyền lực.
2/ Cụ thể là quyền lực này được giao cho loại người nào? 
3/ Làm thế nào để kiểm tra và đôn đốc những người được sử dụng quyền lực này?
A_ Vấn đề phạm vi quyền lực của Đảng 
Có một thời có chủ trương Đảng phải lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối như thế là ngoài cái việc không chia quyền lãnh đạo cho bất cứ ai đồng thời Đảng phải ôm vào mình tất cả mọi việc, chỉ đạo mọi lĩnh vực của đời sống. Thực tế chứng minh rằng: Đảng cộng sản cũng như bất cứ đảng nào không có khả năng trực tiếp điều khiển mọi việc trên đời.
Ở một lĩnh vực đòi hỏi sự công khai, rộng rãi nhất là bầu cử (bỏ phiếu kín) nhưng liền trong mấy chục năm qua từ việc bầu một tổ chức Đảng, một tổ chức quần chúng, cho đến bầu Hội đồng nhân dân và Quốc hội, người cầm lá phiếu đều được “hướng dẫn” theo kiểu ghé tai trước và như thế được coi là chỉ đạo sát sao, tránh được sự chệch dự kiến, phải bầu đi bầu lại. Nếu thấy làm như thế là tốt thì cứ tiếp tục làm. Nếu thấy làm như thế với tình hình dân trí như hiện nay là không thích hợp nữa thì nên sửa. Theo ý riêng chúng tôi thì với trình độ dân trí hiện nay thì sự chỉ đạo “sát sao” kiểu ấy không còn phù hợp. 
Có lẽ Đảng chỉ nên vạch đường hướng về mặt chiến lược và lãnh đạo những công việc lớn (quốc phòng, đối ngoại…) còn mọi công việc nên giao cho bộ máy nhà nước. Đứng đầu một đơn vị hay cơ quan nhà nước bao giờ cũng nên bổ nhiệm hoặc bầu người giỏi nhất (ngay chim chóc cũng không bao giờ để con chim yếu kém làm chim đầu đàn và những con chim yếu kém cũng không bao giờ dám lãnh trách nhiệm đầu đàn. Về điểm này chắc là người phải học chim). Như thế tức là kẻ đầu đàn ở mỗi cơ quan có thể là đảng viên hoặc không phải là đảng viên, ai đủ năng lực thì giao cho lãnh đạo cơ quan nhà nước và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật. Chẳng lẽ đã bổ nhiệm toàn những người có năng lực để điều khiển bộ máy cơ quan nhà nước mà công việc lại không chạy tốt? Chẳng lẽ cả bộ máy vận hành tốt mà đường lối của Đảng lại không được thực thi hay sao? Khi toàn Dân, toàn Đảng, toàn Quân cùng đi đúng đường lối để tiến tới giàu mạnh, nghĩa là thực hiện đúng ước vọng và mục đích của Chủ tịch Hồ Chí Minh là “xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, dân chủ và giàu mạnh”, hỏi Đảng còn mong muốn gì hơn thế nữa? 
Thế là Trung ương Đảng nên nắm quyền lực lớn rồi bấm nút cho bộ máy Nhà nước vận hành. Hay cứ để cho mọi đảng viên kể cả những đảng viên yếu kém, thoái hóa biến chất nắm mọi quyền lực lớn nhỏ rồi làm hỏng việc?
B. Trách nhiệm của người nắm quyền lực?
Sau khi đã xác định rõ phạm vi quyền lực thì vấn đề cụ thể là ai được giao nắm quyền lực? Vấn đề đơn giản là bộ máy nhà nước thực thi quyền lực chứ không phải bộ máy Đảng. Vậy thì dù một viên chức bình thường ở cấp xã cấp phường cho đến thủ tướng, chủ tịch quốc hội và chủ tịch nước đều phải là những người có năng lực thực sự tương xứng với cương vị phụ trách của mình. Trách nhiệm và nhiệm kỳ phải qui định rõ ràng và tối đa là bao lâu. Chưa hết nhiệm kỳ mà đã tỏ ra thiếu năng lực thì phải bãi miễn luôn. Có năng lực nhưng cũng không nên quá hai nhiệm kỳ (10 năm) Ngay Tổng bí thư Đảng và Bí thư các cấp cũng nên qui định không quá 2 nhiệm kỳ. Vừa qua một số đ/c ủy viên Bộ chính trị và ủy viên Trung ương nghỉ giữa nhiệm kỳ như thế là một tiền lệ tốt. Như vậy là vấn đề năng lực và trách nhiệm trở thành cực kỳ quan trọng đối với người cầm quyền. Dư luận ngạc nhiên khi thấy ta không thận trọng khi giao ngân hàng cho những người phụ trách ngân hàng: nghiệp vụ thì kém, phẩm chất thì yếu mà khi làm hỏng thì vô can. Chẳng lẽ khi mất hàng chục ngàn tỉ mà Thống đốc ngân hàng Cao Sĩ Kiêm không phải chịu trách nhiệm gì? Đ/c Cao Sĩ Kiêm an toàn thuyên chuyển, rồi lại cử luôn đ/c Nguyễn Tấn Dũng thay. Đ/c Nguyễn Tấn Dũng giỏi về mặt nào tại sao lại không giao trách nhiệm mặt đó mà lại giao đúng vào cái việc mà đ/c không thành thạo. Liệu mai kia ngân hàng lại có “sự cố” thì đ/c  Ng.Tấn Dũng có chịu trách nhiệm không ? Hay lại đổ lỗi cho Bộ Chính trị là tại sao biết tôi không có năng lực mà lại cử tôi? 
Chúng ta luôn kêu thiếu vốn và phải vay nợ, khất nợ khốn khổ nhưng lại giao quỹ két một cách bất cẩn. Một hiện tượng phổ biến là: nhiều đảng viên do “ý thức tổ chức cao” mà phải nhận những nhiệm vụ vượt quá sức mình nhưng khi làm hỏng việc  phải ra toà thì lại đổ cho “đây là lỗi tại tổ chức” . Ở nước ngoài cảnh sát chỉ để xổng một tên tù khỏi tòa án, tuy bắt lại được mà vẫn có tới hai ông bộ trưởng phải từ chức. Còn ở ta trăm nơi thi cử gian lận, để lộ đề thi, bằng cấp giả mạo, bộ trưởng Bộ Giáo dục vẫn vô can!…
Nêu một vài dẫn chứng như thế để thấy tất cả mọi ngành chúng ta đều không có người chịu trách nhiệm. Đã đến lúc cần phải thanh toán lối “đồng đổ cho tướng, tướng đổ cho đồng” hoặc đổ lỗi cho tập thể. Phải là một giám đốc, hoặc một viện trưởng, một chủ tịch, một bộ trưởng, một thứ trưởng chịu trách nhiệm cụ thể chứ không thể qui chung chung cho “lãnh đạo tỉnh”, lãnh đạo bộ". . .. Chắc chắn, nếu được qui định trách nhiệm một cách rõ ràng rành mạch cho từng cá nhân phụ trách thì người ta không thể thiếu thận trọng trong việc đề cử, đề bạt, bổ nhiệm và kiểm tra đôn đốc.
Và đứng tưởng rằng đưa được các đảng viên xuống nắm quyền điều hành mọi đơn vị của bộ máy nhà nước thì có nghĩa là đã tăng cường sự lãnh đạo của Đảng. Không, ngược lại. Trong tình hình hiện nay, thường có ba khả năng:
A/ Có những đảng viên hiểu biết, nắm vững tình thần nghị quyết, bàn bạc với quần chúng để thực thi chỉ thị nghị quyết một cách linh hoạt cơ động thì thường bị những Đảng viên thoái hóa biến chất lôi cuốn quần chúng lạc hậu chống lại là vì khi nghị quyết thi hành đúng lợi cho dân cho Đảng nhưng lại không có lợi cho bọn họ. Thế là họ vu cho là mị dân, theo đuôi quần chúng. Những người làm đúng bị vô hiệu hóa theo. Nếu trên cho thanh tra xuống thì họ lại tìm cách để vô hiệu hóa các đoàn thanh tra. Số đảng viên kiên trì thực thi chỉ thị nghị quyết một cách sáng tạo, có hiệu quả càng ngày càng hiếm (một trong những nguyên nhân khiến cho tình hình đời sống chính trị xã hội xuống cấp chính là do không có người thực thi các chỉ thị nghị quyết một cách nghiêm túc ).
B/ Số đảng viên chống lại số đảng viên tốt thường chỉ thuộc nghị quyết như vẹt, cứng nhắc, máy móc, giáo điều. Họ làm cho quần chúng dần dần cũng chán ghét nghị quyết.. Thế là trong khi tỏ ra trung thành với nghị quyết, vô tình các đảng viên biến chất đã vô hiệu hóa nghị quyết. Rất tiếc trong số này có cả một số người cứ ngóng chờ khi có nghị quyết ra là viết bài hoan hô. Từ xưa tới nay chưa bao giờ thấy các vị này suy nghĩ để đóng góp được ý kiến gì vào việc điều chỉnh được một điểm hạn chế nào của nghị quyết. Tất nhiên quần chúng cũng lờ đi không quan tâm đến những “chuyên gia vỗ tay” này nữa.
C/ Loại thứ ba phối hợp rất tốt với loại thứ hai để làm cho nghị quyết mất hết thời gian tính. Do sự yếu kém về lý luận và chuyên môn, họ phụ họa rất nhanh với đám cơ hội, thoái hóa. Khi mâu thuẫn xảy ra giữa hai thế lực đúng và sai thì bọn này luôn luôn bỏ phiếu chống hoặc bỏ phiếu trắng khiến cho phái đúng luôn bị mất đa số. Làm như thế họ được coi là đúng mức, thận trọng, chín chắn. Đặc biệt họ không bao giờ đi theo phái đúng vì họ cho là phiêu lưu, vì cái đúng bao giờ chẳng bắt đầu bằng thiểu số.
Xin nhắc lại, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng bằng các đảng viên yếu kém chính là vô hiệu hóa, dẫn đến sự triệt tiêu dần dần sự lãnh đạo của Đảng .
_ Làm thế nào để kiểm tra đôn đốc.
Có nhiều người nghe phân tích kiểu này thì cảm thấy bi quan. Đúng, theo số thống kê chưa chính thức thì số đảng viên yếu kém và tiêu cực nếu không phải là 70% thì cũng trên 50%. Chính 50% này đã tạo ra quốc nạn quan liêu và tham nhũng. Làm sao  đuổi hết những bọn này ra khỏi Đảng? Vả lại quần chúng cũng không tán thành việc khai trừ hàng loạt. Truy tố hết thì cũng không thể và không ổn. Vậy phải làm gì?
_ Phải hạn chế lại. Trong tình cảnh nhà nghèo bệnh trọng nếu chưa có khả năng chữa khỏi bệnh thì cũng cần tìm cách cho bệnh không tiến triển: có thể có nhiều kiểu kê đơn khác nhau. Nhưng dù kê đơn theo kiểu nào thì cũng phải tôn trọng một nguyên tắc: thuốc uống nào dẫu chữa dứt bệnh cũng phải thuyên giảm dần dần và dứt khoát không được để chết người. Bắt buộc phải trở lại với những phương thuốc vạn năng mà Hồ Chí Minh cũng như nhiều nhân vật kiệt xuất trong lịch sử đã dùng một cách hiệu nghiệm:
Dễ trăm lần không dân cũng chịu
Khó vạn lần dân liệu cũng xong.
Có ai quên được sự khôn ngoan sáng suốt của vua quan và giai cấp quí tộc thời Trần. Tiếp theo hội nghị Bình Than là hội nghị Diên Hồng chưa từng có trong lịch sử. Các đại biểu bô lão hô “Đánh!” và tiếp theo là dân lo liệu việc đánh giặc. Thế là mọi việc xong. Khi dân đã cùng lo liệu với Lê Lợi, với Quang Trung thì mọi việc cũng xong. Mà sao lại có thể vội quên bài học Dân đã cùng Hồ Chí Minh và Đảng lo liệu mọi việc trong 60 năm vừa qua. Khó đến như cầm tầm vông đánh Pháp và nắm thắt lưng Mỹ mà đánh cũng xong!
Vậy thì bọn tham nhũng ba đầu sáu tay và sừng mỏ ra sao mà lại kêu là khó quá rồi lằng nhằng mấy chục năm diệt chẳng được lại còn mọc ra nhiều hơn.
Nhân đây cũng nói thêm về phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” của Cố tổng bí thư Nguyễn Văn Linh. Rõ ràng trong 4 vế này thì 2 vế nọ phủ nhận 2 vế kia.
Dân biết: đúng rồi, cái gì mà dân chẳng biết, không người này biết thì người kia biết. .Ai dám coi thường chuyện biết của dân?
Dân làm:  Đúng, việc gì mà dân không phải làm. Sản xuất cũng là dân, đánh giặc cũng là dân, nuôi cả bộ máy Đảng và bộ máy Nhà nước cũng là Dân chứ ai? Phát triển khoa học kỹ thuật cũng là dân  Không cho Dân làm thì quả là điên, ấy thế mà có thời kỳ tìm cách triệt tiêu lòng ham làm của dân. Nhắc lại vừa đau lòng vừa buồn cười: dân làm đổ mồ hôi sôi nước mắt, thế mà chẳng hiểu ban quản trị HTX tính điểm thế nào mà lại thành “âm” nghĩa là còn nợ lại Hợp tác xã. Muốn no ấm thì phải “làm chui” , “khoán chui”. 
Mà ngay cả khi Đại hội VI đã cởi trói cho Dân rồi vậy mà Dân vẫn chưa được làm. Muốn sửa nhà ư? Nộp đơn rồi chờ đấy! Muốn kinh doanh ư ? nộp đơn rồi chờ đấy! Tất cả là chờ đợi! Không thể vừa mới đưa đơn đã phải cấp phép ngay. Mới ngày nào nằm hầm thì không thấy nói đến giờ giấc, nay các tía, cac má đến nhờ vả bất cứ thứ gì đều hoanh hoẹ giờ giấc. Có những cơ quan luôn hoạnh dân sao không đến đầu giờ, vì thường sau cái gọi là "đầu giờ" đó thì các vị “đầy tớ” hoặc trà lá hoặc việc tư, biến mất hết. Thế là một điều hết sức vô lý mà lại có thật: dân phải làm vì bản chất vốn ham làm và thích làm nhưng không được làm hoặc có làm nhưng cũng không được hưởng những thành quả lao động của mình. Dân làm ra lúa nhưng bọn độc quyền quota ép giá, càng được mùa càng lỗ. Muối chất đầy sân không thể bán được vì bộ Thương mại đã cho phép nhập quá nhiều muối và chê muối của nông dân ta chất lượng kém. Hỏi tại sao không nhập máy để tinh chế muối có chất lượng?
_ Không có chỉ tiêu, kinh phí.
Ta thử tưởng tượng xem mọi lĩnh vực sản xuất đều ở trong tình trạng tương tự thì thử hỏi cái dân hay lam hay làm này làm sao sống nổi với bộ máy quan liêu sống chết mặc bay như thế.
Dân bàn: thử hỏi dân bàn ở chỗ nào? Như trên đã nói đại biểu quốc hội là người thay mặt họ thì cũng đã được chỉ định rồi. Còn đại biểu quốc hội đi gặp mặt các cử tri thì cũng là gặp mặt một thứ đại biểu đã được chỉ định. Còn nếu như có được bàn bạc mà lại dám thẳng thắn phê phán rằng: chính phủ cho độc quyền quota như vậy là làm hại dân làm lúa; bộ Thương mại cho nhập khẩu muối như thế là dồn dân làm muối vào con đường đói khổ. Ai nghe ? Và liệu họ có tránh khỏi cái tội là phát ngôn chống chính phủ chống chế độ không ? Cho nên Thủ tướng Võ Văn Kiệt cho độc quyền quota và nhiều chuyện vô lý khác mà dân phải chịu; còn Thủ tướng Phan Văn Khải bỏ độc quyền quota  và bỏ luôn nhiều chính sách vô lý khác thì dân được nhờ. Một sự thật cay đắng: khẩu hiệu dân bàn là khẩu hiệu suông.
Còn khẩu hiệu dân kiểm tra cũng suông không kém. Chẳng lẽ dân được quyền kiểm tra mà lại để cho ngân hàng làm thất thoát  đi hàng ngàn tỉ, có vụ hàng 3000 tỷ, 5000 tỷ? Cho nên phải nói thẳng rằng cách nhìn dân và xây dựng dân thành lũ người nhẹ dạ, luôn bị lừa bịp, đó là lối nhìn xuyên tạc không thể chấp nhận được của những tác giả phim Chuyện làng Nhô. Nếu những người làm phim còn cãi đó là sự thật thì chẳng qua là chuyện thật của làng Nhuế ở Hà Nam, đâu có phải chuyện thật ở Thái Bình. Đâu có phải chuyện thật của nông dân mấy chục tỉnh trên toàn quốc! Hóa ra bây giờ có những nhà văn cũng chẳng hiểu thế nào là điển hình hóa. Chỉ về mỗi một xã ở Hà Nam, không thèm về hoặc sợ không dám về mấy trăm xã ở Thái Bình và những nơi tương tự. Thế mà dám nói  đây là chúng tôi viết sự thật về nông thôn. Sự thật này có lợi cho ai và có hại cho ai? Đúng là một trò bào chữa không công cho bọn cường hào mới và liệu viết kiểu này thì các tác giả định giúp đỡ Trung ương Đảng ta điều gì? Ôi, đáng thương làm sao phim Chuyện làng Nhô! Thật là một nỗi xấu hổ cho văn chương nghệ thuật thời mở cửa!
Những nhà văn, nhà thơ, nhà lý luận, nhà báo viết theo kiểu này chính là tìm cách che giấu sự thật, làm mờ nhận thức của Trung ương về mặt dân tình. Chính những người tương tự thế này ở Liên Xô trươc kia đã góp phần tích cực làm sụp đổ Liên Xô và Đông Âu. Nói là do địch diễn biến hòa bình? Địch diễn biến hòa bình gần nửa thế kỷ qua có làm gì nổi chúng ta?  Chính ta “diễn biến” ta đấy thôi! Và đừng trách dân, dân cần độc lập tự do để an cư lạc nghiệp, cần dân chủ để không ai có quyền đè đầu bóp cổ mình và con cháu mình. Dân có lỗi gì, có tội gì trong việc nổi dậy chống lại bọn cường hào mới và lũ bao che cho bọn cường hào mới. Chúng tôi ngờ rằng những người như đ/c Hữu Thọ cạn kiệt nhiệt tình cách mạng chuyển sang chỗ bao che và bào chữa cho lũ phản cách mạng (chúng tôi thấy cần gọi bọn tham nhũng là bọn phản cách mạng cho dù chúng ở cương vị nào hay giữ trọng trách nào) Chúng tôi đề nghị đ/c Hữu Thọ nghiêm khắc tự kiểm điểm trách nhiệm của mình về vụ Thái Bình. Tại sao các phóng viên thường trú ở Thái Bình phản ánh cho đ/c mà đ/c không phản ánh cho Trung ương?
_ Nếu Trung ương biết sớm từ vài năm nay thì đâu có để sự việc đáng tiếc như thế xảy ra.
2_Khi vụ Thái Bình đã xảy ra rồi đ/c Hữu Thọ cũng không hiến được kế sách gì để giải quyết tình hình cho êm đẹp.
3_Khi Bộ Chính trị đã nhận trách nhiệm về mình mà đ/c còn chưa nhận thấy trách nhiệm của mình lại còn đổ lỗi cho những người cầm đầu còn khuyến cáo các cụ lão thành cách mạng không nên cầm đầu nông dân nổi dậy.
Chúng tôi không muốn nói đến cái lỗi của các báo khác vì chính báo Nhân Dân là cơ quan ngôn luận của Trung ương Đảng còn lờ đi, nói gì đến các báo của Trung ương Đoàn hay của các đoàn thể khác. Hẳn đ/c Hữu Thọ cũng như các đ/c Tổng biên tập ở nước ta sẽ đổ lỗi này cho Quốc hội hoặc Bộ Chính trị.
- Quốc hội đã thông qua luật Báo chí chặt chẽ như thế thì chúng tôi phải hành động như thế.
Và Quốc hội chắc cũng sẽ qui trách nhiệm cho Bộ Chính trị.
- Bộ Chính trị chỉ thị cho chúng tôi biểu quyết luật như thế thì chúng tôi biểu quyết luật nhu thế.
Nếu quả thật trách nhiệm này thuộc về Bộ Chính trị thì Bộ Chính trị phải nhìn thẳng vào sự thật mà rút kinh nghiệm. Điều quan trọng hiện nay, trước hoàn cảnh chỉ còn một thời gian ngắn nữa chúng ta bước vào thế kỷ mới, lên phải giải quyết vấn đề tận gốc. Nếu không, vấn đề vẫn còn nguyên vẹn như thế. Và tai họa là không tránh khỏi. Cũng nên nhắc đến sự lo lắng của thủ tướng Chu Dung Cơ:
_ “Chúng chẳng những làm sụp đổ nền kinh tế của đất nước mà còn có thể làm sụp đổ Đảng ta, Nhà nước ta, Chính phủ ta”.
Chúng đây là ai vậy? Xin thưa : đó là bọn tham nhũng và bọn buôn lậu; “chúng” sinh sôi nảy nở ở ta cũng nhiều, nhanh và mạnh chẳng kém gì Trung Quốc, chưa kể có phần hơn. Xem ra phần xử lý ta có phần kém hơn. Uy viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành ủy Bắc Kinh phạm tội còn bị xử tử (Trần Hy Đồng), vậy mà ở ta mới có uỷ viên Trung ương,Thứ trưởng, con rể cựu Chủ tịch nước (Nguyễn Thiện Luân) đã cho chìm xuồng 51 tấn bột ngọt. Chúng tôi kiến  nghị: nếu ông Ng. Thiện Luân vô tội, hãy công khai minh oan cho ông ấy. Nếu ông ấy có tội đúng như các ban Thanh tra TP Hồ Chí Minh và Trung ương đã kết luận, hãy công khai xét xử để giữ nghiêm phép nước.
Cũng nên lưu ý: tổng thống Hàn Quốc Kim Đa Dung không phải là người thiếu tình phụ tử hay thiếu tình hữu ái giai cấp, nhưng khi cần bảo vệ giai cấp và chế độ, ông ta vẫn phải đưa con trai và hai cựu tổng thống Chun Đô Hoan và Rô Tê U ra tòa như thường.
Ở ta, hiện nay nhiều người lại đặt tình cảm gia đình, tình cựu chiến hữu, tình anh hai - em út . . . lên trên tất cả, khiến cho chế độ lâm nguy, nhưng vẫn yên chí như thế mới là tình cảm của người Việt Nam, hết lòng bao che cho nhau như thế mới là trọn nghĩa vẹn tình.  Chúng tôi cũng nhất trí cho rằng tình hình tham nhũng, buôn lậu, ma túy, đục khoét quĩ công, quan liêu cường hào v.v… và nhiều hiện tượng tồi tệ khác đã trở thành phổ biến khó chữa. Nhưng cũng không nên bi quan vì cần nhớ rằng Việt Nam ta đâu có giữ độc quyền những tệ nạn này. Những tệ nạn này, nước nào, thời nào  chẳng có.
 Bệnh nặng, không tìm ra đúng thầy đúng thuốc, sẽ kiệt sức dần rồi chết. Tệ nạn nhiều, không biết nghe lời nói phải, bao che cho bọn lộng quyền thì sụp đổ. Tất cả đều là lẽ thường tình trong đời. Có gì đáng để bàn nhiều.
Nhưng chúng ta vẫn tự hào là người macxit, có chủ nghĩa Marx-Lénine và tư tưởng Hồ Chí Minh nên luôn luôn ưu việt sáng suốt hơn người, lại nhìn thấu suốt lịch sử, hiểu rõ bản sắc và truyền thống Việt Nam chẳng lẽ lại chịu bó tay đầu hàng hoàn cảnh và bọn vô lại sao ? Chẳng lẽ lại cam tâm nhìn cơ đồ sụp đổ hay sao ?
Hẳn ý chí của giới lãnh đạo của ta cũng chẳng thua kém gì ý chí của giới lãnh đạo Trung Quốc, vấn đề là ai tìm ra phương sách tốt để chữa khỏi căn bệnh kinh niên này.
Vấn đề chữa bệnh này phải trông vào toàn dân, nhất là tầng lớp trí thức chân chính của dân tộc, tinh hoa của đất nước (chúng tôi không kể ở đây những kẻ mang bằng giả hoặc học vị dỏm hoặc bằng thật, học vị thật những kiến thức lại dỏm; tất nhiên cũng không tính vào đây những trí thức ươn hèn chỉ biết chăm sóc bộ lông da của bản thân mình hoặc niêu cơm gia đình mình). Ở nước ta ngồi đan sọt giữa đường (Phạm Ngũ Lão) cũng là trí thức, nông nô (Yết Kiêu, Dã Tượng) cũng là trí thức, dân chài (Nguyễn Trung Trực) cũng là trí thức. Chứ không phải cứ đỗ đại khoa mũ cao áo dài hoặc tốt nghiệp đại học này đại học nọ mới là trí thức. Tóm lại, hiểu biết thực sự mới đáng gọi là trí thức, chứ không phải cứ học nhiều, bằng cấp nhiều thì thành trí thức.
Với toàn những của thật như thế mà lại tổ chức được một hội nghị Diên Hồng mới của cuối thế kỷ XX thì liệu có giải quyết được “ quốc nạn” không ?
_ Ai bi quan và buông xuôi?
_ Ai tin tưởng và dám hành động?
_ Ai dám phát động nhân dân bước vào cuộc cách mạng mới để tạo ra :
+ Một Đảng cộng sản mới với những đảng viên thực sự ưu tú và không bao giờ còn phải than phiền về chuyện mất lòng tin của dân.
+ Tạo ra một nước Việt Nam mới không còn tham nhũng, buôn lậu, ma túy và cường hào mới.
Tất nhiên nói thì dễ, làm thì khó. Nhưng với người Việt Nam yêu nước thật sự làm gì có chuyện dễ làm khó bỏ.
Ai không có gan hành động hãy đứng qua một bên, chớ có cản đường.
Người xưa đã nói : “Ngăn phòng miệng lưỡi của dân còn khó hơn ngăn phòng sông nước. Sông bị ứ tắc tất sẽ phá đê gây ra lụt lội tai hại, dân cũng như vậy. Cho nên, người khéo trị thủy thì khơi lạch cho sông có đường thoát nước, người khéo cai trị dân thì mở đường cho dân được nói năng bày tỏ ý kiến mình”
(Thiệu Mục Công khuyên Chu Lệ Vương)
Ông bà ta cũng nói: “Miệng dân sóng bể” . Còn gì hớ và dại bằng những người muốn dùng quân đội hoặc công an để dẹp cái sóng bể này. . 
Bài thuốc là thế đấy! Hãy cho dân cái quyền chỉ tay, trừng mắt và kêu to lên để vạch mặt lũ sâu mọt hại dân hại nước ! Và phải đảm bảo cho tiếng kêu của dân vang động núi sông và thấu tới tai những người cầm lái con tàu Đất nước.
  Chắc có người sẽ lo:
- Để cho dân tự do ngôn luận như thế lỡ bọn địch lợi dụng thì sao?
- Xin thưa ngay rằng những lực lượng thù địch với Việt Nam chúng ta hơn trăm năm qua chưa lúc nào ngơi nghỉ việc lợi dụng, xuyên tạc, đánh phá chúng ta. Chúng ta có sợ không?  - Không sợ! 
- Có phải cảnh giác không? - Luôn luôn phải mài sắc tinh thần cảnh giác.
- Có đủ tinh tường để phân biệt  Ta – Bạn – Thù hay không? - Chẳng lẽ lại có thể nhầm lẫn ý kiến xây dựng của Dân với luận điệu xuyên tạc của kẻ thù?
Thẳng thắn mà nói rằng số đông những người có trách nhiệm hàng ngày nói thay nhân dân – tức là các phóng viên báo đài – thì lại rơi vào tình trạng tê liệt hoặc “ăn cơm chúa múa tối ngày”. Hư hỏng như phóng viên Minh Diện thì chưa nhiều nhưng lòng lạnh tanh máu cá hoặc mũ ni che tai trước mọi nỗi oan khổ của nhân dân thì cũng không còn là ít nữa.
Mai này, có những ông chủ doanh nghiệp hoặc những bà chủ trang trại già tay bóc lột thợ thuyền và dân cày, liệu các vị phóng viên, thanh tra, điều tra, xét xử… sẽ đứng về phía nào?
Họ sẽ bênh vực bà con áo ngắn không còn gì để lót tay,hay sẽ bênh vực các ông chủ bà chủ sẵn sàng chi từ A đến Z?
- Ai có thể tố cáo chuyện này?
- Vẫn là Dân thôi! Trong Dân có bao giờ hết được người tâm huyết và dũng cảm sẵn sàng tố cáo vạch mặt bọn bất lương; miễn là đừng vu cho họ tội “kích động”, “gây rối”, “chống Đảng, chống Chế độ”.
Tất nhiên phải truy tố, xét xử những kẻ manh tâm chống thật. Đồng thời cũng phải có luật để bảo vệ những người công dân dám nói lên sự thật. Hiện nay luật Báo chí và Xuất bản chưa bảo đảm đầy đủ quyền này và còn để rất nhiều khe hở cho đám bất lương lợi dụng hòng bịt mồm bịt miệng nhân dân để tha hồ tự tung tự tác.  Xin đảm bảo rằng nếu có tự do ngôn luận thực sự và đầy đủ thì ngay giám đốc các nhà xuất bản cũng không dám làm liều (chuyện bán giấy phép cho bọn đầu nậu xuất bản sách báo đồi trụy, bạo lực, mê tín, chống đối ngấm ngầm chế độ cũng có thể chấm dứt ngay). Đơn giản là nếu anh không chấm dứt thì bị tố cáo. Người tố cáo mà được pháp luật bảo vệ và khen thưởng thì họ ngần ngại gì mà không tố cáo?
- Còn đối với kẻ vu cáo thì sao?
- Cũng dùng pháp luật mà trừng trị.
- Lỡ có thế lực bao che thì sao?
- Thì tố cáo ngay bọn bao che.
- Vậy có người bảo rằng cứ tố cáo lằng nhằng lẫn nhau như thế thì biết bao giờ cho xong?
- Có thể chưa xong ngay. Nhưng bọn tham nhũng có dám tiếp tục lộng hành không? _ Chẳng lẽ Dân này, Đảng này, Chế độ này, Đất nước này lại chịu khuất phục chúng sao?
 Không thể có chuyện đó! Và dù có bị mất lòng chúng tôi cũng thẳng thắn nhắc lại rằng:
- Ai là kẻ ươn hèn hãy im miệng! Và ai là người tâm huyết, có dũng khí hãy xông lên quật đổ bọn tham nhũng như ngày nào chúng ta từng quật đổ phong kiến, đế quốc và bè lũ việt gian phản động!
Chúng ta cần sự ổn định để phát triển. Chúng ta tâm đắc với nỗi lo lắng của ông Thủ tướng Malaixia Mahathin phát biểu tại hội nghị quốc tế về phát triển Châu Phi ở Tokyo:  "Nếu chúng ta không làm được công việc phát triển đất nước một cách nghiêm túc chúng ta có thể lại trở thành thuộc địa một lần nữa”.
Vừa qua chúng ta có ổn định nhưng mới chỉ là sự ồn định bề mặt. Người xưa nói: "Không sợ thiếu chỉ sợ không công bằng, không sợ nghèo chỉ sợ lòng dân không yên”. 
Rõ ràng muốn nước ổn định thật sự thì phải giữ cho lòng dân yên ổn. Muốn yên ổn thì phải làm cho dân an cư lạc nghiệp và cởi mở mọi nỗi oan khuất. Hãy cho Dân quyền được thở than, được tố cáo, được bình đẳng trước pháp luật. Trao quyền tự do dân chủ cho nhân dân theo hiến pháp mà Hồ Chí
 Minh và Quốc hội Việt Nam đã tạo  từ năm 1946 rồi sau đó Hiến pháp sửa đổi nào cũng được nhắc lại. 
Và chớ quên rằng: “Tự do ngôn luận là linh hồn của mọi thứ tự do” (Voltaire)
Vừa qua, đ/c Lê Khả Phiêu phát biểu với báo chí một ý rất đúng:
"Mất dân chủ làm cho người dân không phát huy trí tuệ của mình. Dân đã không nói được thì làm sao năng lực sản xuất phát triển được."
(Tuổi Trẻ CN số 2-1999)
Rõ ràng, được nói hay không được nói là vấn đề cực kỳ quan trọng của đời sống.
Như thế,  nghĩa là trao quyền tự do ngôn luận thực sự cho nhân dân bằng cách sửa đổi và bổ sung luật Báo chí và Xuất bản là biện pháp hữu hiệu nhất để chặn đứng quốc nạn tham nhũng và các tệ nạn xã hội khác nhằm bảo vệ Chế độ, ổn định thật sự Đất nước và mở ra một thời kỳ phát triển mới cho Việt Nam ta trong thế kỷ XXI. 
Chuyện đời còn quá dài và quá phức tạp, không thể bàn hết trong một lúc. Xin tạm dừng ở đây.
TP Hồ Chí Minh,  12-XII-1998
Trần Khuê - Ng. T. Thanh Xuâna

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét