Ngày 20-XI-2000
Mấy lời cùng bạn đọc,
Sau khi gửi đi tập Đối thoại năm 2000, chúng tôi đã nhận được nhiều thư của bạn đọc; có đủ cả lời khen, tiếng chê. Chúng tôi chân thành cảm tạ các bạn. Người xưa đã nói: Ai khen mà khen đúng là bạn ta, ai chê mà chê đúng là thày ta. Quả thật, chúng tôi vui mừng vì có thêm nhiều bạn mới và thày mới. Chúng tôi ghi nhận mọi ý kiến và sẽ sửa chữa dần dần mọi thiếu sót. Riêng khuyết điểm viết dài thì quả là khó khắc phục. Ai đã từng cầm bút đều hiểu rằng viết ngắn mà hàm xúc đòi hỏi nhiều tài năng và thời gian; cả hai thứ này chúng tôi đều thiếu nghiêm trọng, nên đành cứ là biết đến đâu thì tâu đến đấy. Xưa kia, tâu với vua quan thì khó mà hóa dễ, nay tâu với Nhân Dân thì dễ mà hóa khó, cực kỳ khó. Vì bá nhân bá khẩu mà! Tuy nhiên, không thể vì khó mà sinh nản lòng, không chú ý khắc phục. Chẳng phải vì do có tinh thần “khó khăn khắc phục” mà Việt Nam mình đã tạo nên bao nhiêu là kỳ tích trong lịch sử đó sao? Mình vinh dự được là con em của một Nhân dân như thế, không nỗ lực sao đặng?
Đáng lưu ý những ý kiến thắc mắc về vấn đề tiền bạc, “kinh phí”(?) Tiền bạc lấy đâu ra mà ngồi viết hàng năm trời, lại ra ăn đợi nằm chờ hàng tháng ở Thủ đô? Có những người thắc mắc do thiện ý, có vài người tự coi mình là “sĩ phu Bắc Hà” mắc bệnh Tào Tháo bắn tin đến tận tai chúng tôi: “Chắc bọn này lại nhận tiền của ngoại quốc hoặc của mấy người cầm quyền “đặt hàng”! “.
Cũng có người hỏi thẳng:
- Ông Nguyễn Minh Triết “đặt hàng” chắc tạm ứng và trả nhuận bút khá lắm phải không?
Chúng tôi cũng đành phải nói lên một sự thật đáng buồn:
- Đến một cái thư cảm ơn còn chẳng có, nói chi đến tạm ứng với nhuận bút! Còn lâu ta mới thực sự hiểu thế nào là kinh tế thị trường.
Trong chuyện này, cả đ/c Nguyễn Minh Triết và chúng tôi đều nhầm về nhau. Tưởng là thanh khí lẽ hằng nhưng không phải. Tuy nhiên, đ/c Triết là người có tâm nên sớm muộn rồi cũng hiểu nhau thôi.
Nhớ ngày đầu khởi nghĩa Tháng Tám, người ta chỉ gửi biếu Bác một gói cam - một vật phẩm nhỏ - thế mà dù bận trăm công nghìn việc, Bác vẫn tự tay viết thư cảm ơn, lại cảm ơn bằng thơ hẳn hoi. Bác thật là quá chu đáo! Đây chẳng phải chỉ là vấn đề ứng xử lịch sự, văn minh. Đây còn là vấn đề thuộc về đạo lý, đạo lý Hồ Chí Minh, đạo lý Việt Nam.
Nhân đây chúng tôi cũng xin nói rõ để bạn nào còn thắc mắc cũng vui lòng thông cảm: khi viết Chỉnh đốn để tồn tại và phát triển và Đối thoại năm 2000, hai tác giả không nhận một khoản tài trợ nào của Đảng, Nhà nước ta cũng như của ngoại quốc. Nói cho ngay, trong mấy buổi toạ đàm về tác phẩm “Đối thoại năm 2000” tại Ban tư tưởng - văn hoá trung ương và Hội đồng lý luận trung ương - theo chỉ thị của đ/c Tổng bí thư - thì riêng các đ/c bên Hội đồng LLTƯ có nhã ý đưa cho mỗi tác giả một cái phong bì đựng 100.000 ĐVN (một trăm ngàn đồng VN) gọi là tiền ăn trưa. Chúng tôi chân thành cảm tạ hành vi văn hóa này của HĐLLTƯ và đặc biệt cảm tạ giáo sư Đặng Xuân Kỳ, Phó chủ tịch chuyên trách HĐLLTƯ, mặc dù mới bị té, chân còn sưng tấy, vẫn đón đưa chúng tôi với tấm lòng ưu ái.
Vậy kinh phí lấy ở đâu? Xin thưa: toàn là do những bà con và anh chị em có lòng với việc chung lo cho cả. Một luật sư trẻ (TP Hồ Chí Minh): “Anh, chị ra Thủ đô vì việc chung, vợ chồng em xin lo vé máy bay cho anh, chị.” Một cụ cán bộ hưu trí: “Tôi vừa lĩnh được năm trăm, ủng hộ anh chị hai trăm, còn ba trăm này về nộp cho bà xã. Đừng tiết lộ, bà ấy biết thì gay đấy!” Một đại tá cựu chiến binh, một nhà thơ cao tuổi, một nữ cán bộ khoa học đương chức, một sinh viên đang học luật, một nhạc sĩ, một phóng viên, một tổng biên tập, một nữ doanh nghiệp, một nguyên bác sĩ, một cựu giáo viên, một cán bộ lão thành từng bị “xử lý” oan, mấy bạn đồng môn Đại học NDVN . . . , không thể kể hết. Tất cả, kẻ ít người nhiều cùng góp sức mong giữ vững mặt trận văn hóa dân chủ này. Chúng tôi đã cẩn thận ghi vào danh sách những tấm lòng mạnh thường quân với hy vọng con cháu sau này hiểu được ý chí đấu tranh chung cho nền dân chủ của ông bà cụ kỵ của chúng ở cuối thế kỷ XX mạnh mẽ nhường nào. Yên trí, tất cả đều là nội lực nhân dân cả thôi!
Đáp tạ tấm lòng của tất cả quý vị, chúng tôi bắt tay viết Đối thoại hai ngàn lẻ một. Để phù hợp với sức khoẻ của các vị cao tuổi và thời gian eo hẹp của bạn đọc nói chung, chúng tôi phát hành từng phần ngắn, nhằm đối thoại kịp thời theo tốc độ của thế kỷ mới: thế kỷ kinh tế tri thức. Cuối mỗi quý chúng tôi sẽ đóng gộp thành từng tập phục vụ cho những bạn đọc nào không có hoàn cảnh theo rõi thường xuyên. Mỗi tập sẽ in kèm theo phần phụ lục gồm các ý kiến khen chê của bạn đọc. Mong nhận được sự hưởng ứng rộng rãi, trừ những ai cho rằng đối thoại kiểu này là hão huyền, vô bổ.
TP Hồ Chí Minh, ngày 20 tháng XI năm 2000
Kính chào thân ái và quyết thắng.
TRẦN KHUÊ - NGUYỄN THỊ THANH XUÂN
1. Đôi lời về hai cuộc đối thoại.
Chấp hành chỉ thị của đ/c Tổng bí thư, chúng tôi đã dự hai cuộc toạ đàm về tác phẩm “Đối thoại năm 2000”: một tại Ban Tư tưởng-văn hoá trung ương (TTVHTƯ) (2 buổi), một tại Hội đồng lý luận trung ương (LLTƯ) (1 buổi) vào cuối tháng 6 năm 2000.
Sau ba buổi thảo luận chính thức sôi nổi, thân mật và thẳng thắn, cả hai phía- Ban TTVHTƯ và Hội đồng LLTƯ cũng như chúng tôi - hai tác giả - đều có trách nhiệm báo cáo nội dung và kết quả của hai cuộc tọa đàm lên Bộ Chính trị và Tổng bí thư. Cuối buổi tọa đàm ở Hội đồng LLTƯ, giáo sư viện sĩ Phạm Minh Hạc - Phó chủ tịch thường trực Hội đồng LLTƯ - đã cẩn thận nhắc nhở:
-Nội dung buổi thảo luận hôm nay bên chúng tôi ghi âm, bên các đồng chí cũng ghi âm, theo nguyên tắc chúng ta không đưa ra công khai.
Chúng tôi trả lời:
- Chúng tôi không theo nguyên tắc đó. Vì theo nguyên tắc kiểu đó làm sao chúng tôi viết được “Đối thoại năm 2000”. Các đ/c có trách nhiệm báo cáo với đ/c Tổng bí thư. Chúng tôi cũng có trách nhiệm báo cáo với đ/c Tổng bí thư. Nhưng chúng tôi thấy còn cần phải thông báo cho dư luận rộng rãi và cả con cháu chúng ta sau này biết được ý kiến của mỗi người chúng ta đúng, sai ra sao. Mọi ý kiến đúng sai của các đ/c chúng tôi xin ghi nhận để tham khảo. Nhưng có ý kiến sai mà còn mang tính xúc phạm chúng tôi như ý kiến của đ/c Phạm Minh Hạc, chúng tôi giữ quyền bác bỏ bằng văn bản. Chúng tôi không có quyền xúc phạm các đ/c và các đ/c cũng không có quyền xúc phạm chúng tôi, mọi sự xúc phạm phải được đưa ra toà án dư luận. Nếu cần, đưa ra toà án pháp lý.
Cũng đáng lưu ý đến một ý kiến của đ/c Hữu Thọ - Trưởng ban TTVHTƯ:
Bản “Đối thoại năm 2000”, anh Khuê và chị Xuân không gửi cho tôi nhưng tôi vẫn nhận được một bản từ địa phương gửi lên và tôi đã đọc rất kỹ. Tôi thấy hai tác giả viết rất tâm huyết, có những vấn đề tôi đồng tình như ý phản đối việc phục hồi Khổng giáo và hương ước, nhưng hai tác giả phê phán nhiều người quá mà những người này họ không được nói lại, e rằng họ có thể kiện tác giả. Tôi cũng không dám có ý khuyên anh Khuê và chị Xuân nhưng tôi cũng phải góp ý với các tác giả là nên gửi cho đúng địa chỉ để khỏi sinh ra nhiều phức tạp
Trước thái độ nhã nhặn niềm nở và lời lẽ lịch thiệp của đ/c Hữu Thọ, chúng tôi lại nhớ đến một thái độ niềm nở vui vẻ tương tự của các đ/c bên Bộ Công an ( cụ thể là các đ/c ở Cục A.25). Khi nhận lời mời và đến thăm các đ/c A25, chúng tôi cũng được nghe những lời thân mật ưu ái có pha chút băn khoăn của một đ/c:
-Chúng tôi thấy bản “Đối thoại năm 2000” lời lẽ rất tâm huyết và nêu những vấn đề có tính chất xây dựng. Cái tâm của các tác giả rất sáng và đẹp nhưng không nên nghĩ ai cũng đều có cái tâm như thế để tránh bị lợi dụng.
Như mọi người, chúng tôi phấn khởi khi được nghe những lời động viên, nhưng cũng không tránh khỏi băn khoăn. Cho nên khi nghe chúng tôi bộc lộ một cách thẳng thắn nhận xét của mình rằng: “đ/c Hữu Thọ khuyên chúng tôi nhưng thực chất đó là một lời doạ dẫm. Mà đ/c Hữu Thọ cũng thừa biết dọa chúng tôi là vô ích, chẳng qua đ/c muốn dọa những người sắp gặp chúng tôi”, thì đ/c Đào Duy Quát - Phó trưởng ban thường trực BTTVHTƯ đã thanh minh hộ đ/c Hữu Thọ: “ Anh Hữu Thọ nói chân thành đấy, chứ không có ý dọa đâu, các đ/c không nên suy diễn”.
Tuy nói thế nhưng ngay sau đó đ/c Quát lại dọa khéo: “Bản Đối thoại năm 2000 có nhiều ý kiến xây dựng, tốt thôi. Nhưng hiện nay có nhiều tài liệu có những quan điểm chống đối mà cứ phát tán thì không có lợi.”
Chúng tôi đã thẳng thắn chất vấn ngay:
-Thế tại sao các anh lại cho phát tán những quan điểm sai ngay trên báo Nhân Dân, tạp chí Triết học và nhiều tạp chí khác? Tại sao các quan điểm sai thì được quyền phát tán còn các quan điểm đúng lại không được quyền phát tán? Giả thiết cả hai đều sai thì cả hai đều được quyền phát tán để cho công luận phân xử, đánh giá. Thế mới là công bằng chứ! Nhiều quan điểm sai còn được phát tán trong các Hội thảo khoa học. Nếu Ban TTVHTƯ các anh nghiêm khắc kiểm điểm Hội thảo Gia Long thì làm gì có Hội thảo Việt Nhật và nếu nghiêm khắc với Hội thảo Việt Nhật lần thứ nhất thì làm sao họ lại dám rục rịch tổ chức Hội thảo Việt Nhật lần thứ hai?
Đ/c Quát phân trần:
-Về những vấn đề sai lầm đó, nhất là Hội thảo Gia Long, chúng tôi cũng đã nhắc nhở kiểm điểm, rút kinh nghiệm khi giao ban hàng tuần
-Các anh rút kinh nghiệm kiểm điểm lúc nào chúng tôi có biết đâu. Sao các anh không thông báo công khai cho nhân dân biết?
Chúng tôi cũng đã nhất trí với đ/c Quát rằng không nên glatnôts theo kiểu Liên Xô. Nhưng theo chúng tôi thì chúng ta phải công khai theo kiểu Việt Nam của chúng ta. Chúng tôi cũng đã nói với đ/c Hữu Thọ rằng tuy đ/c nói là đã đọc kỹ tác phẩm của chúng tôi nhưng đ/c lại không chú ý đến mấy dòng đã được ghi rõ trong phần Thư ngỏ gửi bạn đọc: “Văn bản này được trân trọng gửi đến đ/c Tổng bí thư Lê Khả Phiêu và Trung ương Đảng, Quốc hội và Chính phủ, những trí thức tâm huyết và bạn bè thân thiết. Chúng tôi giữ bản quyền và hoàn toàn chịu trách nhiệm trước công luận và pháp luật.”
Vậy thế nào là đúng địa chỉ hay không đúng địa chỉ? Chẳng lẽ mọi công dân trên đất nước này không được quyền thông tin và nhận thông tin hay sao? Chẳng lẽ chỉ một số ít những người này được quyền tự do ngôn luận còn số đông những người khác không được quyền ngôn luận tự do?
Chẳng lẽ hàng triệu lá đơn khiếu tố đã gửi đúng địa chỉ và được giải quyết thỏa đáng mà bà con ta vẫn còn gửi vượt cấp hay sao?
Chẳng lẽ mọi nỗi oan khuất đã được cởi bỏ, mọi nỗi ức hiếp đã được giải tỏa mà bà con ta từ Cà Mau, Lâm Đồng, Đà Nẵng, Hà Tĩnh, Nghệ An, Hải Phòng, Thái Bình . . . vẫn cứ từng đoàn, từng đoàn kéo đến kêu khóc ở cửa nhà các đ/c Lê Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh, Trần Đức Lương, Phan Văn Khải. . .?
Rõ ràng, không còn là vấn đề đúng địa chỉ hay không đúng địa chỉ. Phải nhận thức được rằng Nhân dân đang còn đặt chút niềm tin cuối cùng vào các đồng chí Trung ương. Và chúng tôi- tác giả của Đối thoại năm 2000 - cũng gửi niềm tin của mình vào Dân tộc và những người có lương tri của Dân tộc. Của tin còn một chút này cũng phải biết chọn nơi mà gửi.
Môt đ/c Vụ trưởng trẻ tuổi đang làm việc trong Chính phủ ta có ý kiến rằng nên in Đối thoại năm 2000 rồi phát hành rộng rãi cho toàn dân đọc vì nó có tác dụng củng cố lòng tin vào tư tưởng Hồ Chí Minh, vào Đảng, vào Chế độ và tiền đồ của Dân tộc.
Tất nhiên, trong khi Luật Báo chí và Xuất bản chưa sửa đổi cho phù hợp với Hiến pháp và thực tiễn Việt Nam hội nhập cùng thế giới, chúng tôi vẫn cứ phải chờ giấy phép xuất bản. Trong buổi thảo luận thứ hai, đ/c Quát đề nghị chúng tôi cho biết tên người Vụ trưởng đó, chúng tôi trả lời để chúng tôi hỏi xem đ/c ấy có vui lòng cho đ/c Quát biết tên hay không. Nói thế thôi, chứ đời nào chúng tôi lại thiếu thận trọng để tự biến mình thành những indicateur hại người lương thiện, hại một cán bộ tử tế của Đảng.
2. Có thể quên những điều không được phép quên ?
Theo Marx, tất cả mọi chuyện trên đời phải lấy hiện tại làm chuẩn mực, phải nhận thức rõ cái hôm nay trên cơ sở thấu suốt và thâu thái mọi tinh hoa, kinh nghiệm của cái hôm qua để rồi định hướng cho cái ngày mai đi tới. Tất nhiên, những ai lấy quá khứ làm chuẩn rồi nhắm mắt tụng ca quá khứ, đều là sai lầm. Nhưng dù vô tình hay hữu ý, vờ vịt hay thật thà, bằng cách này hay cách khác tìm cách phủ nhận quá khứ cũng là sai lầm nghiêm trọng không kém.
Thử hỏi vì sao năm 1999 có 4 ngày kỷ niệm quan trọng, Ban TTVHTƯ, trong Bản chỉ thị kỷ niệm những ngày lễ lớn lại chỉ qui định có ba, bớt hẳn đi một ngày cực kỳ quan trọng : ngày 7-5-1999 , 45 năm chiến thắng Điện Biên Phủ ?
Thử hỏi vì sao trong bản Chúc Văn Cáo Tổ Hùng Vương vào ngày Giỗ Tổ cuối thế kỷ long trọng và quan trọng đến thế cũng không nói gì đến chiến thắng Điện Biên Phủ?
Giáo sư Vũ Khiêu quên chăng?
Nếu quả thật gs Vũ Khiêu có đãng trí đến mức đó thì Ban TTVHTƯ phải nhắc chứ! Hoặc bộ Văn hoá - Thông tin phải nhắc chứ!
Mà đâu có phải chỉ quên chuyện Điện Biên Phủ!
Cách mạng tháng Tám vĩ đại như thế, ngày Toàn thắng 30 - 4 - 1975 vĩ đại như thế; lại cả một bản Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh dấu một kỷ nguyên mới của Dân tộc. Tất cả đều không được nhắc tới. Một thế kỷ chói lọi hào hùng là kết quả của mồ hôi và xương máu của hàng chục thế hệ mà lại được nhắc bằng hai dòng ngắn ngủn, với lời lẽ khuôn sáo.
Lỗi tại ai thế: tại gs. Vũ Khiêu? tại Ban tư tưởng - văn hoá trung ương? hay tại Bộ Văn hoá - Thông tin?
Dù lỗi tại cá nhân hay tập thể nào cũng trân trọng kiến nghị Bộ Chính trị hạ lệnh kiểm điểm.
Nhân đây chúng tôi cũng nhắc : không rõ đồng chí Tổng bí thư Lê Khả Phiêu và Bộ Chính trị đã chỉ thị cho Ban biên soạn Từ điển Bách khoa kiểm điểm hay chưa về việc họ quên soạn các mục từ: Chiến thắng Như Nguyệt, chiến thắng Chi Lăng, Chiến thắng Xương Giang, chiến thắng Rạch Gầm - Xoài Mút, chiến thắng Đống Đa, chiến thắng Điện Biên Phủ, chiến thắng Sài Gòn...?
Tất cả những lỗi lầm nghiêm trọng đối với quá khứ như kiểu này phải được kiểm điểm nghiêm khắc và thông báo công khai trên các phương tiện truyền thông đại chúng, đặc biệt là báo Nhân Dân và tạp chí Nghiên cứu lịch sử. Riêng việc sai sót trong Chúc Văn Cáo Tổ cần phải được sửa chữa kịp thời và tổ chức ngay một lễ tạ tội trước Đức Tổ Hùng Vương và Quốc dân Đồng bào vào cuối năm 2000 này, để Đất nước khỏi bị sái khi bước vào thế kỷ mới.
Nhớ lại năm 1990 - các đại biểu của ngót 200 quốc gia trong UNESCO suy tôn Bác Hồ của chúng ta là Anh hùng giải phóng dân tộc và Danh nhân văn hoá kiệt xuất cùng với một số danh nhân văn hoá thế giới khác. Nước nào nhận được vinh dự lớn lao đó đều lấy tên danh nhân đặt cho năm kỷ niệm ( thí dụ nước Áo gọi năm 90 của họ là Năm Mozart ). Thế mà Ban TTVHTƯ và Bộ Văn hoá ta bàn bạc thế nào lại gọi năm 90 của ta là Năm Du lịch.
Trong một hội nghị, chúng tôi có nêu thắc mắc với đồng chí Tổng bí thư bấy giờ là đồng chí Nguyễn Văn Linh ( mà miền Nam vẫn thân mật gọi là anh Mười Cúc):
- Thưa anh Mười, xin anh cho biết vì sao năm nay Bác của chúng ta vừa tròn trăm tuổi được thế giới suy tôn như thế mà Trung ương ta lại không đặt tên năm 90 là Năm Hồ Chí Minh?
Sau một phút sững người, đồng chí Mười Cúc bảo chúng tôi hãy yên tâm để Bộ Chính trị và Trung ương xem lại vấn đề. Nhưng rồi chẳng rõ ai can ngăn hoặc bàn ngang mà rốt cục năm 1990 giàu ý nghĩa văn hoá - lịch sử và cực kỳ trọng đại như thế vẫn cứ là Năm Du lịch chứ không phải là Năm Hồ Chí Minh. Năm ấy, trong hai tác phẩm của chúng tôi biên soạn về Bác nhằm trả ơn nghĩa Hồ Chí Minh do Ban Khoa học xã hội Thành uỷ Thành phố Hồ Chí Minh xuất bản, trong lời nói đầu chúng tôi ghi rõ:
Năm nay, nhân dân ta cùng với nhân dân thế giới long trọng kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Người. Trong NĂM HỒ CHÍ MINH này, chúng ta nghiên cứu toàn bộ tác phẩm của Người để hiểu sâu sắc thêm sự nghiệp anh hùng và sự nghiệp văn hóa Hồ Chí Minh. Đó là một bộ phận quan trọng của sự nghiệp anh hùng và sự nghiệp văn hóa Việt Nam. ( Trích “Những vần thơ đẹp Hồ Chí Minh”, tr. 5)
Ngay năm đó, chúng tôi khảo sát sách của một số nhà xuất bản ở Trung ương, không thấy một cuốn sách nào ghi tên “niên đại” này, báo chí quốc doanh của Trung ương cũng không thấy một tờ báo nào lưu tâm đến vấn đề này. Cũng phải thông cảm với họ thôi vì họ còn đang bận cổ động, tuyên truyền cho Năm Du lịch. Đáng buồn là buồn cho các vị học giả và các nhà lý luận, họ cũng biết cả đấy nhưng họ không nói hoặc không dám nói ( chúng tôi cũng ý thức rằng chúng tôi không hề có độc quyền hoặc đặc quyền hiêủ biết những chuyện thuộc loại này ). Đáng buồn hơn nữa là buồn cho những người lãnh đạo Trung tâm KHXH và Nhân văn quốc gia ( bấy giờ gọi là Uỷ ban KHXH ), Bộ Văn hoá - Thông tin và nhất là Ban Tư tưởng - Văn hoá T.Ư đã không tham mưu cho Trung ương Đảng về chuyện quan trọng này.
Mấy lời cùng bạn đọc,
Sau khi gửi đi tập Đối thoại năm 2000, chúng tôi đã nhận được nhiều thư của bạn đọc; có đủ cả lời khen, tiếng chê. Chúng tôi chân thành cảm tạ các bạn. Người xưa đã nói: Ai khen mà khen đúng là bạn ta, ai chê mà chê đúng là thày ta. Quả thật, chúng tôi vui mừng vì có thêm nhiều bạn mới và thày mới. Chúng tôi ghi nhận mọi ý kiến và sẽ sửa chữa dần dần mọi thiếu sót. Riêng khuyết điểm viết dài thì quả là khó khắc phục. Ai đã từng cầm bút đều hiểu rằng viết ngắn mà hàm xúc đòi hỏi nhiều tài năng và thời gian; cả hai thứ này chúng tôi đều thiếu nghiêm trọng, nên đành cứ là biết đến đâu thì tâu đến đấy. Xưa kia, tâu với vua quan thì khó mà hóa dễ, nay tâu với Nhân Dân thì dễ mà hóa khó, cực kỳ khó. Vì bá nhân bá khẩu mà! Tuy nhiên, không thể vì khó mà sinh nản lòng, không chú ý khắc phục. Chẳng phải vì do có tinh thần “khó khăn khắc phục” mà Việt Nam mình đã tạo nên bao nhiêu là kỳ tích trong lịch sử đó sao? Mình vinh dự được là con em của một Nhân dân như thế, không nỗ lực sao đặng?
Đáng lưu ý những ý kiến thắc mắc về vấn đề tiền bạc, “kinh phí”(?) Tiền bạc lấy đâu ra mà ngồi viết hàng năm trời, lại ra ăn đợi nằm chờ hàng tháng ở Thủ đô? Có những người thắc mắc do thiện ý, có vài người tự coi mình là “sĩ phu Bắc Hà” mắc bệnh Tào Tháo bắn tin đến tận tai chúng tôi: “Chắc bọn này lại nhận tiền của ngoại quốc hoặc của mấy người cầm quyền “đặt hàng”! “.
Cũng có người hỏi thẳng:
- Ông Nguyễn Minh Triết “đặt hàng” chắc tạm ứng và trả nhuận bút khá lắm phải không?
Chúng tôi cũng đành phải nói lên một sự thật đáng buồn:
- Đến một cái thư cảm ơn còn chẳng có, nói chi đến tạm ứng với nhuận bút! Còn lâu ta mới thực sự hiểu thế nào là kinh tế thị trường.
Trong chuyện này, cả đ/c Nguyễn Minh Triết và chúng tôi đều nhầm về nhau. Tưởng là thanh khí lẽ hằng nhưng không phải. Tuy nhiên, đ/c Triết là người có tâm nên sớm muộn rồi cũng hiểu nhau thôi.
Nhớ ngày đầu khởi nghĩa Tháng Tám, người ta chỉ gửi biếu Bác một gói cam - một vật phẩm nhỏ - thế mà dù bận trăm công nghìn việc, Bác vẫn tự tay viết thư cảm ơn, lại cảm ơn bằng thơ hẳn hoi. Bác thật là quá chu đáo! Đây chẳng phải chỉ là vấn đề ứng xử lịch sự, văn minh. Đây còn là vấn đề thuộc về đạo lý, đạo lý Hồ Chí Minh, đạo lý Việt Nam.
Nhân đây chúng tôi cũng xin nói rõ để bạn nào còn thắc mắc cũng vui lòng thông cảm: khi viết Chỉnh đốn để tồn tại và phát triển và Đối thoại năm 2000, hai tác giả không nhận một khoản tài trợ nào của Đảng, Nhà nước ta cũng như của ngoại quốc. Nói cho ngay, trong mấy buổi toạ đàm về tác phẩm “Đối thoại năm 2000” tại Ban tư tưởng - văn hoá trung ương và Hội đồng lý luận trung ương - theo chỉ thị của đ/c Tổng bí thư - thì riêng các đ/c bên Hội đồng LLTƯ có nhã ý đưa cho mỗi tác giả một cái phong bì đựng 100.000 ĐVN (một trăm ngàn đồng VN) gọi là tiền ăn trưa. Chúng tôi chân thành cảm tạ hành vi văn hóa này của HĐLLTƯ và đặc biệt cảm tạ giáo sư Đặng Xuân Kỳ, Phó chủ tịch chuyên trách HĐLLTƯ, mặc dù mới bị té, chân còn sưng tấy, vẫn đón đưa chúng tôi với tấm lòng ưu ái.
Vậy kinh phí lấy ở đâu? Xin thưa: toàn là do những bà con và anh chị em có lòng với việc chung lo cho cả. Một luật sư trẻ (TP Hồ Chí Minh): “Anh, chị ra Thủ đô vì việc chung, vợ chồng em xin lo vé máy bay cho anh, chị.” Một cụ cán bộ hưu trí: “Tôi vừa lĩnh được năm trăm, ủng hộ anh chị hai trăm, còn ba trăm này về nộp cho bà xã. Đừng tiết lộ, bà ấy biết thì gay đấy!” Một đại tá cựu chiến binh, một nhà thơ cao tuổi, một nữ cán bộ khoa học đương chức, một sinh viên đang học luật, một nhạc sĩ, một phóng viên, một tổng biên tập, một nữ doanh nghiệp, một nguyên bác sĩ, một cựu giáo viên, một cán bộ lão thành từng bị “xử lý” oan, mấy bạn đồng môn Đại học NDVN . . . , không thể kể hết. Tất cả, kẻ ít người nhiều cùng góp sức mong giữ vững mặt trận văn hóa dân chủ này. Chúng tôi đã cẩn thận ghi vào danh sách những tấm lòng mạnh thường quân với hy vọng con cháu sau này hiểu được ý chí đấu tranh chung cho nền dân chủ của ông bà cụ kỵ của chúng ở cuối thế kỷ XX mạnh mẽ nhường nào. Yên trí, tất cả đều là nội lực nhân dân cả thôi!
Đáp tạ tấm lòng của tất cả quý vị, chúng tôi bắt tay viết Đối thoại hai ngàn lẻ một. Để phù hợp với sức khoẻ của các vị cao tuổi và thời gian eo hẹp của bạn đọc nói chung, chúng tôi phát hành từng phần ngắn, nhằm đối thoại kịp thời theo tốc độ của thế kỷ mới: thế kỷ kinh tế tri thức. Cuối mỗi quý chúng tôi sẽ đóng gộp thành từng tập phục vụ cho những bạn đọc nào không có hoàn cảnh theo rõi thường xuyên. Mỗi tập sẽ in kèm theo phần phụ lục gồm các ý kiến khen chê của bạn đọc. Mong nhận được sự hưởng ứng rộng rãi, trừ những ai cho rằng đối thoại kiểu này là hão huyền, vô bổ.
TP Hồ Chí Minh, ngày 20 tháng XI năm 2000
Kính chào thân ái và quyết thắng.
TRẦN KHUÊ - NGUYỄN THỊ THANH XUÂN
1. Đôi lời về hai cuộc đối thoại.
Chấp hành chỉ thị của đ/c Tổng bí thư, chúng tôi đã dự hai cuộc toạ đàm về tác phẩm “Đối thoại năm 2000”: một tại Ban Tư tưởng-văn hoá trung ương (TTVHTƯ) (2 buổi), một tại Hội đồng lý luận trung ương (LLTƯ) (1 buổi) vào cuối tháng 6 năm 2000.
Sau ba buổi thảo luận chính thức sôi nổi, thân mật và thẳng thắn, cả hai phía- Ban TTVHTƯ và Hội đồng LLTƯ cũng như chúng tôi - hai tác giả - đều có trách nhiệm báo cáo nội dung và kết quả của hai cuộc tọa đàm lên Bộ Chính trị và Tổng bí thư. Cuối buổi tọa đàm ở Hội đồng LLTƯ, giáo sư viện sĩ Phạm Minh Hạc - Phó chủ tịch thường trực Hội đồng LLTƯ - đã cẩn thận nhắc nhở:
-Nội dung buổi thảo luận hôm nay bên chúng tôi ghi âm, bên các đồng chí cũng ghi âm, theo nguyên tắc chúng ta không đưa ra công khai.
Chúng tôi trả lời:
- Chúng tôi không theo nguyên tắc đó. Vì theo nguyên tắc kiểu đó làm sao chúng tôi viết được “Đối thoại năm 2000”. Các đ/c có trách nhiệm báo cáo với đ/c Tổng bí thư. Chúng tôi cũng có trách nhiệm báo cáo với đ/c Tổng bí thư. Nhưng chúng tôi thấy còn cần phải thông báo cho dư luận rộng rãi và cả con cháu chúng ta sau này biết được ý kiến của mỗi người chúng ta đúng, sai ra sao. Mọi ý kiến đúng sai của các đ/c chúng tôi xin ghi nhận để tham khảo. Nhưng có ý kiến sai mà còn mang tính xúc phạm chúng tôi như ý kiến của đ/c Phạm Minh Hạc, chúng tôi giữ quyền bác bỏ bằng văn bản. Chúng tôi không có quyền xúc phạm các đ/c và các đ/c cũng không có quyền xúc phạm chúng tôi, mọi sự xúc phạm phải được đưa ra toà án dư luận. Nếu cần, đưa ra toà án pháp lý.
Cũng đáng lưu ý đến một ý kiến của đ/c Hữu Thọ - Trưởng ban TTVHTƯ:
Bản “Đối thoại năm 2000”, anh Khuê và chị Xuân không gửi cho tôi nhưng tôi vẫn nhận được một bản từ địa phương gửi lên và tôi đã đọc rất kỹ. Tôi thấy hai tác giả viết rất tâm huyết, có những vấn đề tôi đồng tình như ý phản đối việc phục hồi Khổng giáo và hương ước, nhưng hai tác giả phê phán nhiều người quá mà những người này họ không được nói lại, e rằng họ có thể kiện tác giả. Tôi cũng không dám có ý khuyên anh Khuê và chị Xuân nhưng tôi cũng phải góp ý với các tác giả là nên gửi cho đúng địa chỉ để khỏi sinh ra nhiều phức tạp
Trước thái độ nhã nhặn niềm nở và lời lẽ lịch thiệp của đ/c Hữu Thọ, chúng tôi lại nhớ đến một thái độ niềm nở vui vẻ tương tự của các đ/c bên Bộ Công an ( cụ thể là các đ/c ở Cục A.25). Khi nhận lời mời và đến thăm các đ/c A25, chúng tôi cũng được nghe những lời thân mật ưu ái có pha chút băn khoăn của một đ/c:
-Chúng tôi thấy bản “Đối thoại năm 2000” lời lẽ rất tâm huyết và nêu những vấn đề có tính chất xây dựng. Cái tâm của các tác giả rất sáng và đẹp nhưng không nên nghĩ ai cũng đều có cái tâm như thế để tránh bị lợi dụng.
Như mọi người, chúng tôi phấn khởi khi được nghe những lời động viên, nhưng cũng không tránh khỏi băn khoăn. Cho nên khi nghe chúng tôi bộc lộ một cách thẳng thắn nhận xét của mình rằng: “đ/c Hữu Thọ khuyên chúng tôi nhưng thực chất đó là một lời doạ dẫm. Mà đ/c Hữu Thọ cũng thừa biết dọa chúng tôi là vô ích, chẳng qua đ/c muốn dọa những người sắp gặp chúng tôi”, thì đ/c Đào Duy Quát - Phó trưởng ban thường trực BTTVHTƯ đã thanh minh hộ đ/c Hữu Thọ: “ Anh Hữu Thọ nói chân thành đấy, chứ không có ý dọa đâu, các đ/c không nên suy diễn”.
Tuy nói thế nhưng ngay sau đó đ/c Quát lại dọa khéo: “Bản Đối thoại năm 2000 có nhiều ý kiến xây dựng, tốt thôi. Nhưng hiện nay có nhiều tài liệu có những quan điểm chống đối mà cứ phát tán thì không có lợi.”
Chúng tôi đã thẳng thắn chất vấn ngay:
-Thế tại sao các anh lại cho phát tán những quan điểm sai ngay trên báo Nhân Dân, tạp chí Triết học và nhiều tạp chí khác? Tại sao các quan điểm sai thì được quyền phát tán còn các quan điểm đúng lại không được quyền phát tán? Giả thiết cả hai đều sai thì cả hai đều được quyền phát tán để cho công luận phân xử, đánh giá. Thế mới là công bằng chứ! Nhiều quan điểm sai còn được phát tán trong các Hội thảo khoa học. Nếu Ban TTVHTƯ các anh nghiêm khắc kiểm điểm Hội thảo Gia Long thì làm gì có Hội thảo Việt Nhật và nếu nghiêm khắc với Hội thảo Việt Nhật lần thứ nhất thì làm sao họ lại dám rục rịch tổ chức Hội thảo Việt Nhật lần thứ hai?
Đ/c Quát phân trần:
-Về những vấn đề sai lầm đó, nhất là Hội thảo Gia Long, chúng tôi cũng đã nhắc nhở kiểm điểm, rút kinh nghiệm khi giao ban hàng tuần
-Các anh rút kinh nghiệm kiểm điểm lúc nào chúng tôi có biết đâu. Sao các anh không thông báo công khai cho nhân dân biết?
Chúng tôi cũng đã nhất trí với đ/c Quát rằng không nên glatnôts theo kiểu Liên Xô. Nhưng theo chúng tôi thì chúng ta phải công khai theo kiểu Việt Nam của chúng ta. Chúng tôi cũng đã nói với đ/c Hữu Thọ rằng tuy đ/c nói là đã đọc kỹ tác phẩm của chúng tôi nhưng đ/c lại không chú ý đến mấy dòng đã được ghi rõ trong phần Thư ngỏ gửi bạn đọc: “Văn bản này được trân trọng gửi đến đ/c Tổng bí thư Lê Khả Phiêu và Trung ương Đảng, Quốc hội và Chính phủ, những trí thức tâm huyết và bạn bè thân thiết. Chúng tôi giữ bản quyền và hoàn toàn chịu trách nhiệm trước công luận và pháp luật.”
Vậy thế nào là đúng địa chỉ hay không đúng địa chỉ? Chẳng lẽ mọi công dân trên đất nước này không được quyền thông tin và nhận thông tin hay sao? Chẳng lẽ chỉ một số ít những người này được quyền tự do ngôn luận còn số đông những người khác không được quyền ngôn luận tự do?
Chẳng lẽ hàng triệu lá đơn khiếu tố đã gửi đúng địa chỉ và được giải quyết thỏa đáng mà bà con ta vẫn còn gửi vượt cấp hay sao?
Chẳng lẽ mọi nỗi oan khuất đã được cởi bỏ, mọi nỗi ức hiếp đã được giải tỏa mà bà con ta từ Cà Mau, Lâm Đồng, Đà Nẵng, Hà Tĩnh, Nghệ An, Hải Phòng, Thái Bình . . . vẫn cứ từng đoàn, từng đoàn kéo đến kêu khóc ở cửa nhà các đ/c Lê Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh, Trần Đức Lương, Phan Văn Khải. . .?
Rõ ràng, không còn là vấn đề đúng địa chỉ hay không đúng địa chỉ. Phải nhận thức được rằng Nhân dân đang còn đặt chút niềm tin cuối cùng vào các đồng chí Trung ương. Và chúng tôi- tác giả của Đối thoại năm 2000 - cũng gửi niềm tin của mình vào Dân tộc và những người có lương tri của Dân tộc. Của tin còn một chút này cũng phải biết chọn nơi mà gửi.
Môt đ/c Vụ trưởng trẻ tuổi đang làm việc trong Chính phủ ta có ý kiến rằng nên in Đối thoại năm 2000 rồi phát hành rộng rãi cho toàn dân đọc vì nó có tác dụng củng cố lòng tin vào tư tưởng Hồ Chí Minh, vào Đảng, vào Chế độ và tiền đồ của Dân tộc.
Tất nhiên, trong khi Luật Báo chí và Xuất bản chưa sửa đổi cho phù hợp với Hiến pháp và thực tiễn Việt Nam hội nhập cùng thế giới, chúng tôi vẫn cứ phải chờ giấy phép xuất bản. Trong buổi thảo luận thứ hai, đ/c Quát đề nghị chúng tôi cho biết tên người Vụ trưởng đó, chúng tôi trả lời để chúng tôi hỏi xem đ/c ấy có vui lòng cho đ/c Quát biết tên hay không. Nói thế thôi, chứ đời nào chúng tôi lại thiếu thận trọng để tự biến mình thành những indicateur hại người lương thiện, hại một cán bộ tử tế của Đảng.
2. Có thể quên những điều không được phép quên ?
Theo Marx, tất cả mọi chuyện trên đời phải lấy hiện tại làm chuẩn mực, phải nhận thức rõ cái hôm nay trên cơ sở thấu suốt và thâu thái mọi tinh hoa, kinh nghiệm của cái hôm qua để rồi định hướng cho cái ngày mai đi tới. Tất nhiên, những ai lấy quá khứ làm chuẩn rồi nhắm mắt tụng ca quá khứ, đều là sai lầm. Nhưng dù vô tình hay hữu ý, vờ vịt hay thật thà, bằng cách này hay cách khác tìm cách phủ nhận quá khứ cũng là sai lầm nghiêm trọng không kém.
Thử hỏi vì sao năm 1999 có 4 ngày kỷ niệm quan trọng, Ban TTVHTƯ, trong Bản chỉ thị kỷ niệm những ngày lễ lớn lại chỉ qui định có ba, bớt hẳn đi một ngày cực kỳ quan trọng : ngày 7-5-1999 , 45 năm chiến thắng Điện Biên Phủ ?
Thử hỏi vì sao trong bản Chúc Văn Cáo Tổ Hùng Vương vào ngày Giỗ Tổ cuối thế kỷ long trọng và quan trọng đến thế cũng không nói gì đến chiến thắng Điện Biên Phủ?
Giáo sư Vũ Khiêu quên chăng?
Nếu quả thật gs Vũ Khiêu có đãng trí đến mức đó thì Ban TTVHTƯ phải nhắc chứ! Hoặc bộ Văn hoá - Thông tin phải nhắc chứ!
Mà đâu có phải chỉ quên chuyện Điện Biên Phủ!
Cách mạng tháng Tám vĩ đại như thế, ngày Toàn thắng 30 - 4 - 1975 vĩ đại như thế; lại cả một bản Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh dấu một kỷ nguyên mới của Dân tộc. Tất cả đều không được nhắc tới. Một thế kỷ chói lọi hào hùng là kết quả của mồ hôi và xương máu của hàng chục thế hệ mà lại được nhắc bằng hai dòng ngắn ngủn, với lời lẽ khuôn sáo.
Lỗi tại ai thế: tại gs. Vũ Khiêu? tại Ban tư tưởng - văn hoá trung ương? hay tại Bộ Văn hoá - Thông tin?
Dù lỗi tại cá nhân hay tập thể nào cũng trân trọng kiến nghị Bộ Chính trị hạ lệnh kiểm điểm.
Nhân đây chúng tôi cũng nhắc : không rõ đồng chí Tổng bí thư Lê Khả Phiêu và Bộ Chính trị đã chỉ thị cho Ban biên soạn Từ điển Bách khoa kiểm điểm hay chưa về việc họ quên soạn các mục từ: Chiến thắng Như Nguyệt, chiến thắng Chi Lăng, Chiến thắng Xương Giang, chiến thắng Rạch Gầm - Xoài Mút, chiến thắng Đống Đa, chiến thắng Điện Biên Phủ, chiến thắng Sài Gòn...?
Tất cả những lỗi lầm nghiêm trọng đối với quá khứ như kiểu này phải được kiểm điểm nghiêm khắc và thông báo công khai trên các phương tiện truyền thông đại chúng, đặc biệt là báo Nhân Dân và tạp chí Nghiên cứu lịch sử. Riêng việc sai sót trong Chúc Văn Cáo Tổ cần phải được sửa chữa kịp thời và tổ chức ngay một lễ tạ tội trước Đức Tổ Hùng Vương và Quốc dân Đồng bào vào cuối năm 2000 này, để Đất nước khỏi bị sái khi bước vào thế kỷ mới.
Nhớ lại năm 1990 - các đại biểu của ngót 200 quốc gia trong UNESCO suy tôn Bác Hồ của chúng ta là Anh hùng giải phóng dân tộc và Danh nhân văn hoá kiệt xuất cùng với một số danh nhân văn hoá thế giới khác. Nước nào nhận được vinh dự lớn lao đó đều lấy tên danh nhân đặt cho năm kỷ niệm ( thí dụ nước Áo gọi năm 90 của họ là Năm Mozart ). Thế mà Ban TTVHTƯ và Bộ Văn hoá ta bàn bạc thế nào lại gọi năm 90 của ta là Năm Du lịch.
Trong một hội nghị, chúng tôi có nêu thắc mắc với đồng chí Tổng bí thư bấy giờ là đồng chí Nguyễn Văn Linh ( mà miền Nam vẫn thân mật gọi là anh Mười Cúc):
- Thưa anh Mười, xin anh cho biết vì sao năm nay Bác của chúng ta vừa tròn trăm tuổi được thế giới suy tôn như thế mà Trung ương ta lại không đặt tên năm 90 là Năm Hồ Chí Minh?
Sau một phút sững người, đồng chí Mười Cúc bảo chúng tôi hãy yên tâm để Bộ Chính trị và Trung ương xem lại vấn đề. Nhưng rồi chẳng rõ ai can ngăn hoặc bàn ngang mà rốt cục năm 1990 giàu ý nghĩa văn hoá - lịch sử và cực kỳ trọng đại như thế vẫn cứ là Năm Du lịch chứ không phải là Năm Hồ Chí Minh. Năm ấy, trong hai tác phẩm của chúng tôi biên soạn về Bác nhằm trả ơn nghĩa Hồ Chí Minh do Ban Khoa học xã hội Thành uỷ Thành phố Hồ Chí Minh xuất bản, trong lời nói đầu chúng tôi ghi rõ:
Năm nay, nhân dân ta cùng với nhân dân thế giới long trọng kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Người. Trong NĂM HỒ CHÍ MINH này, chúng ta nghiên cứu toàn bộ tác phẩm của Người để hiểu sâu sắc thêm sự nghiệp anh hùng và sự nghiệp văn hóa Hồ Chí Minh. Đó là một bộ phận quan trọng của sự nghiệp anh hùng và sự nghiệp văn hóa Việt Nam. ( Trích “Những vần thơ đẹp Hồ Chí Minh”, tr. 5)
Ngay năm đó, chúng tôi khảo sát sách của một số nhà xuất bản ở Trung ương, không thấy một cuốn sách nào ghi tên “niên đại” này, báo chí quốc doanh của Trung ương cũng không thấy một tờ báo nào lưu tâm đến vấn đề này. Cũng phải thông cảm với họ thôi vì họ còn đang bận cổ động, tuyên truyền cho Năm Du lịch. Đáng buồn là buồn cho các vị học giả và các nhà lý luận, họ cũng biết cả đấy nhưng họ không nói hoặc không dám nói ( chúng tôi cũng ý thức rằng chúng tôi không hề có độc quyền hoặc đặc quyền hiêủ biết những chuyện thuộc loại này ). Đáng buồn hơn nữa là buồn cho những người lãnh đạo Trung tâm KHXH và Nhân văn quốc gia ( bấy giờ gọi là Uỷ ban KHXH ), Bộ Văn hoá - Thông tin và nhất là Ban Tư tưởng - Văn hoá T.Ư đã không tham mưu cho Trung ương Đảng về chuyện quan trọng này.
Tập 1 – Ngày 20-XI-2000
Mấy lời cùng bạn đọc,
Sau khi gửi đi tập Đối thoại năm 2000, chúng tôi đã nhận được nhiều thư của bạn đọc; có đủ cả lời khen, tiếng chê. Chúng tôi chân thành cảm tạ các bạn. Người xưa đã nói: Ai khen mà khen đúng là bạn ta, ai chê mà chê đúng là thày ta. Quả thật, chúng tôi vui mừng vì có thêm nhiều bạn mới và thày mới. Chúng tôi ghi nhận mọi ý kiến và sẽ sửa chữa dần dần mọi thiếu sót. Riêng khuyết điểm viết dài thì quả là khó khắc phục. Ai đã từng cầm bút đều hiểu rằng viết ngắn mà hàm xúc đòi hỏi nhiều tài năng và thời gian; cả hai thứ này chúng tôi đều thiếu nghiêm trọng, nên đành cứ là biết đến đâu thì tâu đến đấy. Xưa kia, tâu với vua quan thì khó mà hóa dễ, nay tâu với Nhân Dân thì dễ mà hóa khó, cực kỳ khó. Vì bá nhân bá khẩu mà! Tuy nhiên, không thể vì khó mà sinh nản lòng, không chú ý khắc phục. Chẳng phải vì do có tinh thần “khó khăn khắc phục” mà Việt Nam mình đã tạo nên bao nhiêu là kỳ tích trong lịch sử đó sao? Mình vinh dự được là con em của một Nhân dân như thế, không nỗ lực sao đặng?
Đáng lưu ý những ý kiến thắc mắc về vấn đề tiền bạc, “kinh phí”(?) Tiền bạc lấy đâu ra mà ngồi viết hàng năm trời, lại ra ăn đợi nằm chờ hàng tháng ở Thủ đô? Có những người thắc mắc do thiện ý, có vài người tự coi mình là “sĩ phu Bắc Hà” mắc bệnh Tào Tháo bắn tin đến tận tai chúng tôi: “Chắc bọn này lại nhận tiền của ngoại quốc hoặc của mấy người cầm quyền “đặt hàng”! “.
Cũng có người hỏi thẳng:
- Ông Nguyễn Minh Triết “đặt hàng” chắc tạm ứng và trả nhuận bút khá lắm phải không?
Chúng tôi cũng đành phải nói lên một sự thật đáng buồn:
- Đến một cái thư cảm ơn còn chẳng có, nói chi đến tạm ứng với nhuận bút! Còn lâu ta mới thực sự hiểu thế nào là kinh tế thị trường.
Trong chuyện này, cả đ/c Nguyễn Minh Triết và chúng tôi đều nhầm về nhau. Tưởng là thanh khí lẽ hằng nhưng không phải. Tuy nhiên, đ/c Triết là người có tâm nên sớm muộn rồi cũng hiểu nhau thôi.
Nhớ ngày đầu khởi nghĩa Tháng Tám, người ta chỉ gửi biếu Bác một gói cam - một vật phẩm nhỏ - thế mà dù bận trăm công nghìn việc, Bác vẫn tự tay viết thư cảm ơn, lại cảm ơn bằng thơ hẳn hoi. Bác thật là quá chu đáo! Đây chẳng phải chỉ là vấn đề ứng xử lịch sự, văn minh. Đây còn là vấn đề thuộc về đạo lý, đạo lý Hồ Chí Minh, đạo lý Việt Nam.
Nhân đây chúng tôi cũng xin nói rõ để bạn nào còn thắc mắc cũng vui lòng thông cảm: khi viết Chỉnh đốn để tồn tại và phát triển và Đối thoại năm 2000, hai tác giả không nhận một khoản tài trợ nào của Đảng, Nhà nước ta cũng như của ngoại quốc. Nói cho ngay, trong mấy buổi toạ đàm về tác phẩm “Đối thoại năm 2000” tại Ban tư tưởng - văn hoá trung ương và Hội đồng lý luận trung ương - theo chỉ thị của đ/c Tổng bí thư - thì riêng các đ/c bên Hội đồng LLTƯ có nhã ý đưa cho mỗi tác giả một cái phong bì đựng 100.000 ĐVN (một trăm ngàn đồng VN) gọi là tiền ăn trưa. Chúng tôi chân thành cảm tạ hành vi văn hóa này của HĐLLTƯ và đặc biệt cảm tạ giáo sư Đặng Xuân Kỳ, Phó chủ tịch chuyên trách HĐLLTƯ, mặc dù mới bị té, chân còn sưng tấy, vẫn đón đưa chúng tôi với tấm lòng ưu ái.
Vậy kinh phí lấy ở đâu? Xin thưa: toàn là do những bà con và anh chị em có lòng với việc chung lo cho cả. Một luật sư trẻ (TP Hồ Chí Minh): “Anh, chị ra Thủ đô vì việc chung, vợ chồng em xin lo vé máy bay cho anh, chị.” Một cụ cán bộ hưu trí: “Tôi vừa lĩnh được năm trăm, ủng hộ anh chị hai trăm, còn ba trăm này về nộp cho bà xã. Đừng tiết lộ, bà ấy biết thì gay đấy!” Một đại tá cựu chiến binh, một nhà thơ cao tuổi, một nữ cán bộ khoa học đương chức, một sinh viên đang học luật, một nhạc sĩ, một phóng viên, một tổng biên tập, một nữ doanh nghiệp, một nguyên bác sĩ, một cựu giáo viên, một cán bộ lão thành từng bị “xử lý” oan, mấy bạn đồng môn Đại họcNDVN . . . , không thể kể hết. Tất cả, kẻ ít người nhiều cùng góp sức mong giữ vững mặt trận văn hóa dân chủ này. Chúng tôi đã cẩn thận ghi vào danh sách những tấm lòng mạnh thường quân với hy vọng con cháu sau này hiểu được ý chí đấu tranh chung cho nền dân chủ của ông bà cụ kỵ của chúng ở cuối thế kỷ XX mạnh mẽ nhường nào. Yên trí, tất cả đều là nội lực nhân dân cả thôi!
Đáp tạ tấm lòng của tất cả quý vị, chúng tôi bắt tay viết Đối thoại hai ngàn lẻ một. Để phù hợp với sức khoẻ của các vị cao tuổi và thời gian eo hẹp của bạn đọc nói chung, chúng tôi phát hành từng phần ngắn, nhằm đối thoại kịp thời theo tốc độ của thế kỷ mới: thế kỷ kinh tế tri thức. Cuối mỗi quý chúng tôi sẽ đóng gộp thành từng tập phục vụ cho những bạn đọc nào không có hoàn cảnh theo rõi thường xuyên. Mỗi tập sẽ in kèm theo phần phụ lục gồm các ý kiến khen chê của bạn đọc. Mong nhận được sự hưởng ứng rộng rãi, trừ những ai cho rằng đối thoại kiểu này là hão huyền, vô bổ.
TP Hồ Chí Minh, ngày 20 tháng XI năm 2000
Kính chào thân ái và quyết thắng.
TRẦN KHUÊ - NGUYỄN THỊ THANH XUÂN
1. Đôi lời về hai cuộc đối thoại.
Chấp hành chỉ thị của đ/c Tổng bí thư, chúng tôi đã dự hai cuộc toạ đàm về tác phẩm “Đối thoại năm 2000”: một tại Ban Tư tưởng-văn hoá trung ương (TTVHTƯ) (2 buổi), một tại Hội đồng lý luận trung ương (LLTƯ) (1 buổi) vào cuối tháng 6 năm 2000.
Sau ba buổi thảo luận chính thức sôi nổi, thân mật và thẳng thắn, cả hai phía- Ban TTVHTƯ và Hội đồng LLTƯ cũng như chúng tôi - hai tác giả - đều có trách nhiệm báo cáo nội dung và kết quả của hai cuộc tọa đàm lên Bộ Chính trị và Tổng bí thư. Cuối buổi tọa đàm ở Hội đồng LLTƯ, giáo sư viện sĩ Phạm Minh Hạc - Phó chủ tịch thường trực Hội đồng LLTƯ - đã cẩn thận nhắc nhở:
-Nội dung buổi thảo luận hôm nay bên chúng tôi ghi âm, bên các đồng chí cũng ghi âm, theo nguyên tắc chúng ta không đưa ra công khai.
Chúng tôi trả lời:
- Chúng tôi không theo nguyên tắc đó. Vì theo nguyên tắc kiểu đó làm sao chúng tôi viết được “Đối thoại năm 2000”. Các đ/c có trách nhiệm báo cáo với đ/c Tổng bí thư. Chúng tôi cũng có trách nhiệm báo cáo với đ/c Tổng bí thư. Nhưng chúng tôi thấy còn cần phải thông báo cho dư luận rộng rãi và cả con cháu chúng ta sau này biết được ý kiến của mỗi người chúng ta đúng, sai ra sao. Mọi ý kiến đúng sai của các đ/c chúng tôi xin ghi nhận để tham khảo. Nhưng có ý kiến sai mà còn mang tính xúc phạm chúng tôi như ý kiến của đ/c Phạm Minh Hạc, chúng tôi giữ quyền bác bỏ bằng văn bản. Chúng tôi không có quyền xúc phạm các đ/c và các đ/c cũng không có quyền xúc phạm chúng tôi, mọi sự xúc phạm phải được đưa ra toà án dư luận. Nếu cần, đưa ra toà án pháp lý.
Cũng đáng lưu ý đến một ý kiến của đ/c Hữu Thọ - Trưởng ban TTVHTƯ:
- Bản “Đối thoại năm 2000”, anh Khuê và chị Xuân không gửi cho tôi nhưng tôi vẫn nhận được một bản từ địa phương gửi lên và tôi đã đọc rất kỹ. Tôi thấy hai tác giả viết rất tâm huyết, có những vấn đề tôi đồng tình như ý phản đối việc phục hồi Khổng giáo và hương ước, nhưng hai tác giả phê phán nhiều người quá mà những người này họ không được nói lại, e rằng họ có thể kiện tác giả. Tôi cũng không dám có ý khuyên anh Khuê và chị Xuân nhưng tôi cũng phải góp ý với các tác giả là nên gửi cho đúng địa chỉ để khỏi sinh ra nhiều phức tạp
Trước thái độ nhã nhặn niềm nở và lời lẽ lịch thiệp của đ/c Hữu Thọ, chúng tôi lại nhớ đến một thái độ niềm nở vui vẻ tương tự của các đ/c bên Bộ Công an ( cụ thể là các đ/c ở Cục A.25). Khi nhận lời mời và đến thăm các đ/c A25, chúng tôi cũng được nghe những lời thân mật ưu ái có pha chút băn khoăn của một đ/c:
-Chúng tôi thấy bản “Đối thoại năm 2000” lời lẽ rất tâm huyết và nêu những vấn đề có tính chất xây dựng. Cái tâm của các tác giả rất sáng và đẹp nhưng không nên nghĩ ai cũng đều có cái tâm như thế để tránh bị lợi dụng.
Như mọi người, chúng tôi phấn khởi khi được nghe những lời động viên, nhưng cũng không tránh khỏi băn khoăn. Cho nên khi nghe chúng tôi bộc lộ một cách thẳng thắn nhận xét của mình rằng: “đ/c Hữu Thọ khuyên chúng tôi nhưng thực chất đó là một lời doạ dẫm. Mà đ/c Hữu Thọ cũng thừa biết dọa chúng tôi là vô ích, chẳng qua đ/c muốn dọa những người sắp gặp chúng tôi”, thì đ/c Đào Duy Quát - Phó trưởng ban thường trực BTTVHTƯ đã thanh minh hộ đ/c Hữu Thọ: “ Anh Hữu Thọ nói chân thành đấy, chứ không có ý dọa đâu, các đ/c không nên suy diễn”.
Tuy nói thế nhưng ngay sau đó đ/c Quát lại dọa khéo: “Bản Đối thoại năm 2000 có nhiều ý kiến xây dựng, tốt thôi. Nhưng hiện nay có nhiều tài liệu có những quan điểm chống đối mà cứ phát tán thì không có lợi.”
Chúng tôi đã thẳng thắn chất vấn ngay:
-Thế tại sao các anh lại cho phát tán những quan điểm sai ngay trên báo Nhân Dân, tạp chí Triết học và nhiều tạp chí khác? Tại sao các quan điểm sai thì được quyền phát tán còn các quan điểm đúng lại không được quyền phát tán? Giả thiết cả hai đều sai thì cả hai đều được quyền phát tán để cho công luận phân xử, đánh giá. Thế mới là công bằng chứ! Nhiều quan điểm sai còn được phát tán trong các Hội thảo khoa học. Nếu Ban TTVHTƯ các anh nghiêm khắc kiểm điểm Hội thảo Gia Long thì làm gì có Hội thảo Việt Nhật và nếu nghiêm khắc với Hội thảo Việt Nhật lần thứ nhất thì làm sao họ lại dám rục rịch tổ chức Hội thảo Việt Nhật lần thứ hai?
Đ/c Quát phân trần:
-Về những vấn đề sai lầm đó, nhất là Hội thảo Gia Long, chúng tôi cũng đã nhắc nhở kiểm điểm, rút kinh nghiệm khi giao ban hàng tuần
-Các anh rút kinh nghiệm kiểm điểm lúc nào chúng tôi có biết đâu. Sao các anh không thông báo công khai cho nhân dân biết?
Chúng tôi cũng đã nhất trí với đ/c Quát rằng không nên glatnôts theo kiểu Liên Xô. Nhưng theo chúng tôi thì chúng ta phải công khai theo kiểu Việt Nam của chúng ta. Chúng tôi cũng đã nói với đ/c Hữu Thọ rằng tuy đ/c nói là đã đọc kỹ tác phẩm của chúng tôi nhưng đ/c lại không chú ý đến mấy dòng đã được ghi rõ trong phần Thư ngỏ gửi bạn đọc: “Văn bản này được trân trọng gửi đến đ/c Tổng bí thư Lê Khả Phiêu và Trung ương Đảng, Quốc hội và Chính phủ, những trí thức tâm huyết và bạn bè thân thiết. Chúng tôi giữ bản quyền và hoàn toàn chịu trách nhiệm trước công luận và pháp luật.”
Vậy thế nào là đúng địa chỉ hay không đúng địa chỉ? Chẳng lẽ mọi công dân trên đất nước này không được quyền thông tin và nhận thông tin hay sao? Chẳng lẽ chỉ một số ít những người này được quyền tự do ngôn luận còn số đông những người khác không được quyền ngôn luận tự do?
Chẳng lẽ hàng triệu lá đơn khiếu tố đã gửi đúng địa chỉ và được giải quyết thỏa đáng mà bà con ta vẫn còn gửi vượt cấp hay sao?
Chẳng lẽ mọi nỗi oan khuất đã được cởi bỏ, mọi nỗi ức hiếp đã được giải tỏa mà bà con ta từ Cà Mau, Lâm Đồng, Đà Nẵng, Hà Tĩnh, Nghệ An, Hải Phòng, Thái Bình . . . vẫn cứ từng đoàn, từng đoàn kéo đến kêu khóc ở cửa nhà các đ/c Lê Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh, Trần Đức Lương, Phan Văn Khải. . .?
Rõ ràng, không còn là vấn đề đúng địa chỉ hay không đúng địa chỉ. Phải nhận thức được rằng Nhân dân đang còn đặt chút niềm tin cuối cùng vào các đồng chí Trung ương. Và chúng tôi- tác giả của Đối thoại năm 2000 - cũng gửi niềm tin của mình vào Dân tộc và những người có lương tri của Dân tộc. Của tin còn một chút này cũng phải biết chọn nơi mà gửi.
Môt đ/c Vụ trưởng trẻ tuổi đang làm việc trong Chính phủ ta có ý kiến rằng nên in Đối thoại năm 2000 rồi phát hành rộng rãi cho toàn dân đọc vì nó có tác dụng củng cố lòng tin vào tư tưởng Hồ Chí Minh, vào Đảng, vào Chế độ và tiền đồ của Dân tộc.
Tất nhiên, trong khi Luật Báo chí và Xuất bản chưa sửa đổi cho phù hợp với Hiến pháp và thực tiễn Việt Nam hội nhập cùng thế giới, chúng tôi vẫn cứ phải chờ giấy phép xuất bản. Trong buổi thảo luận thứ hai, đ/c Quát đề nghị chúng tôi cho biết tên người Vụ trưởng đó, chúng tôi trả lời để chúng tôi hỏi xem đ/c ấy có vui lòng cho đ/c Quát biết tên hay không. Nói thế thôi, chứ đời nào chúng tôi lại thiếu thận trọng để tự biến mình thành những indicateur hại người lương thiện, hại một cán bộ tử tế của Đảng.
2. Có thể quên những điều không được phép quên ?
Theo Marx, tất cả mọi chuyện trên đời phải lấy hiện tại làm chuẩn mực, phải nhận thức rõ cái hôm nay trên cơ sở thấu suốt và thâu thái mọi tinh hoa, kinh nghiệm của cái hôm qua để rồi định hướng cho cái ngày mai đi tới. Tất nhiên, những ai lấy quá khứ làm chuẩn rồi nhắm mắt tụng ca quá khứ, đều là sai lầm. Nhưng dù vô tình hay hữu ý, vờ vịt hay thật thà, bằng cách này hay cách khác tìm cách phủ nhận quá khứ cũng là sai lầm nghiêm trọng không kém.
Thử hỏi vì sao năm 1999 có 4 ngày kỷ niệm quan trọng, Ban TTVHTƯ, trong Bản chỉ thị kỷ niệm những ngày lễ lớn lại chỉ qui định có ba, bớt hẳn đi một ngày cực kỳ quan trọng : ngày 7-5-1999 , 45 năm chiến thắng Điện Biên Phủ ?
Thử hỏi vì sao trong bản Chúc Văn Cáo Tổ Hùng Vương vào ngày Giỗ Tổ cuối thế kỷ long trọng và quan trọng đến thế cũng không nói gì đến chiến thắng Điện Biên Phủ?
Giáo sư Vũ Khiêu quên chăng?
Nếu quả thật gs Vũ Khiêu có đãng trí đến mức đó thì Ban TTVHTƯ phải nhắc chứ! Hoặc bộ Văn hoá - Thông tin phải nhắc chứ!
Mà đâu có phải chỉ quên chuyện Điện Biên Phủ!
Cách mạng tháng Tám vĩ đại như thế, ngày Toàn thắng 30 - 4 - 1975 vĩ đại như thế; lại cả một bản Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh dấu một kỷ nguyên mới của Dân tộc. Tất cả đều không được nhắc tới. Một thế kỷ chói lọi hào hùng là kết quả của mồ hôi và xương máu của hàng chục thế hệ mà lại được nhắc bằng hai dòng ngắn ngủn, với lời lẽ khuôn sáo.
Lỗi tại ai thế: tại gs. Vũ Khiêu? tại Ban tư tưởng - văn hoá trung ương? hay tại Bộ Văn hoá - Thông tin?
Dù lỗi tại cá nhân hay tập thể nào cũng trân trọng kiến nghị Bộ Chính trị hạ lệnh kiểm điểm.
Nhân đây chúng tôi cũng nhắc : không rõ đồng chí Tổng bí thư Lê Khả Phiêu và Bộ Chính trị đã chỉ thị cho Ban biên soạn Từ điển Bách khoa kiểm điểm hay chưa về việc họ quên soạn các mục từ: Chiến thắng Như Nguyệt, chiến thắng Chi Lăng, Chiến thắng Xương Giang, chiến thắng Rạch Gầm - Xoài Mút, chiến thắng Đống Đa, chiến thắng Điện Biên Phủ, chiến thắng Sài Gòn...?
Tất cả những lỗi lầm nghiêm trọng đối với quá khứ như kiểu này phải được kiểm điểm nghiêm khắc và thông báo công khai trên các phương tiện truyền thông đại chúng, đặc biệt là báo Nhân Dân và tạp chí Nghiên cứu lịch sử. Riêng việc sai sót trong Chúc Văn Cáo Tổ cần phải được sửa chữa kịp thời và tổ chức ngay một lễ tạ tội trước Đức Tổ Hùng Vương và Quốc dân Đồng bào vào cuối năm 2000 này, để Đất nước khỏi bị sái khi bước vào thế kỷ mới.
Nhớ lại năm 1990 - các đại biểu của ngót 200 quốc gia trong UNESCO suy tôn Bác Hồ của chúng ta là Anh hùng giải phóng dân tộc và Danh nhân văn hoá kiệt xuất cùng với một số danh nhân văn hoá thế giới khác. Nước nào nhận được vinh dự lớn lao đó đều lấy tên danh nhân đặt cho năm kỷ niệm ( thí dụ nước Áo gọi năm 90 của họ là Năm Mozart ). Thế mà Ban TTVHTƯ và Bộ Văn hoá ta bàn bạc thế nào lại gọi năm 90 của ta là Năm Du lịch.
Trong một hội nghị, chúng tôi có nêu thắc mắc với đồng chí Tổng bí thư bấy giờ là đồng chí Nguyễn Văn Linh ( mà miền Nam vẫn thân mật gọi là anh Mười Cúc):
- Thưa anh Mười, xin anh cho biết vì sao năm nay Bác của chúng ta vừa tròn trăm tuổi được thế giới suy tôn như thế mà Trung ương ta lại không đặt tên năm 90 là Năm Hồ Chí Minh?
Sau một phút sững người, đồng chí Mười Cúc bảo chúng tôi hãy yên tâm để Bộ Chính trị và Trung ương xem lại vấn đề. Nhưng rồi chẳng rõ ai can ngăn hoặc bàn ngang mà rốt cục năm 1990 giàu ý nghĩa văn hoá - lịch sử và cực kỳ trọng đại như thế vẫn cứ làNăm Du lịch chứ không phải là Năm Hồ Chí Minh. Năm ấy, trong hai tác phẩm của chúng tôi biên soạn về Bác nhằm trả ơn nghĩa Hồ Chí Minh do Ban Khoa học xã hội Thành uỷ Thành phố Hồ Chí Minh xuất bản, trong lời nói đầu chúng tôi ghi rõ:
Năm nay, nhân dân ta cùng với nhân dân thế giới long trọng kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Người. Trong NĂM HỒ CHÍ MINH này, chúng ta nghiên cứu toàn bộ tác phẩm của Người để hiểu sâu sắc thêm sự nghiệp anh hùng và sự nghiệp văn hóa Hồ Chí Minh. Đó là một bộ phận quan trọng của sự nghiệp anh hùng và sự nghiệp văn hóa Việt Nam. ( Trích “Những vần thơ đẹp Hồ Chí Minh”, tr. 5)
Ngay năm đó, chúng tôi khảo sát sách của một số nhà xuất bản ở Trung ương, không thấy một cuốn sách nào ghi tên “niên đại” này, báo chí quốc doanh của Trung ương cũng không thấy một tờ báo nào lưu tâm đến vấn đề này. Cũng phải thông cảm với họ thôi vì họ còn đang bận cổ động, tuyên truyền cho Năm Du lịch. Đáng buồn là buồn cho các vị học giả và các nhà lý luận, họ cũng biết cả đấy nhưng họ không nói hoặc không dám nói ( chúng tôi cũng ý thức rằng chúng tôi không hề có độc quyền hoặc đặc quyền hiêủ biết những chuyện thuộc loại này ). Đáng buồn hơn nữa là buồn cho những người lãnh đạo Trung tâm KHXH và Nhân văn quốc gia ( bấy giờ gọi là Uỷ ban KHXH ), Bộ Văn hoá - Thông tin và nhất là Ban Tư tưởng - Văn hoá T.Ư đã không tham mưu cho Trung ương Đảng về chuyện quan trọng này.
Mấy lời cùng bạn đọc,
Sau khi gửi đi tập Đối thoại năm 2000, chúng tôi đã nhận được nhiều thư của bạn đọc; có đủ cả lời khen, tiếng chê. Chúng tôi chân thành cảm tạ các bạn. Người xưa đã nói: Ai khen mà khen đúng là bạn ta, ai chê mà chê đúng là thày ta. Quả thật, chúng tôi vui mừng vì có thêm nhiều bạn mới và thày mới. Chúng tôi ghi nhận mọi ý kiến và sẽ sửa chữa dần dần mọi thiếu sót. Riêng khuyết điểm viết dài thì quả là khó khắc phục. Ai đã từng cầm bút đều hiểu rằng viết ngắn mà hàm xúc đòi hỏi nhiều tài năng và thời gian; cả hai thứ này chúng tôi đều thiếu nghiêm trọng, nên đành cứ là biết đến đâu thì tâu đến đấy. Xưa kia, tâu với vua quan thì khó mà hóa dễ, nay tâu với Nhân Dân thì dễ mà hóa khó, cực kỳ khó. Vì bá nhân bá khẩu mà! Tuy nhiên, không thể vì khó mà sinh nản lòng, không chú ý khắc phục. Chẳng phải vì do có tinh thần “khó khăn khắc phục” mà Việt Nam mình đã tạo nên bao nhiêu là kỳ tích trong lịch sử đó sao? Mình vinh dự được là con em của một Nhân dân như thế, không nỗ lực sao đặng?
Đáng lưu ý những ý kiến thắc mắc về vấn đề tiền bạc, “kinh phí”(?) Tiền bạc lấy đâu ra mà ngồi viết hàng năm trời, lại ra ăn đợi nằm chờ hàng tháng ở Thủ đô? Có những người thắc mắc do thiện ý, có vài người tự coi mình là “sĩ phu Bắc Hà” mắc bệnh Tào Tháo bắn tin đến tận tai chúng tôi: “Chắc bọn này lại nhận tiền của ngoại quốc hoặc của mấy người cầm quyền “đặt hàng”! “.
Cũng có người hỏi thẳng:
- Ông Nguyễn Minh Triết “đặt hàng” chắc tạm ứng và trả nhuận bút khá lắm phải không?
Chúng tôi cũng đành phải nói lên một sự thật đáng buồn:
- Đến một cái thư cảm ơn còn chẳng có, nói chi đến tạm ứng với nhuận bút! Còn lâu ta mới thực sự hiểu thế nào là kinh tế thị trường.
Trong chuyện này, cả đ/c Nguyễn Minh Triết và chúng tôi đều nhầm về nhau. Tưởng là thanh khí lẽ hằng nhưng không phải. Tuy nhiên, đ/c Triết là người có tâm nên sớm muộn rồi cũng hiểu nhau thôi.
Nhớ ngày đầu khởi nghĩa Tháng Tám, người ta chỉ gửi biếu Bác một gói cam - một vật phẩm nhỏ - thế mà dù bận trăm công nghìn việc, Bác vẫn tự tay viết thư cảm ơn, lại cảm ơn bằng thơ hẳn hoi. Bác thật là quá chu đáo! Đây chẳng phải chỉ là vấn đề ứng xử lịch sự, văn minh. Đây còn là vấn đề thuộc về đạo lý, đạo lý Hồ Chí Minh, đạo lý Việt Nam.
Nhân đây chúng tôi cũng xin nói rõ để bạn nào còn thắc mắc cũng vui lòng thông cảm: khi viết Chỉnh đốn để tồn tại và phát triển và Đối thoại năm 2000, hai tác giả không nhận một khoản tài trợ nào của Đảng, Nhà nước ta cũng như của ngoại quốc. Nói cho ngay, trong mấy buổi toạ đàm về tác phẩm “Đối thoại năm 2000” tại Ban tư tưởng - văn hoá trung ương và Hội đồng lý luận trung ương - theo chỉ thị của đ/c Tổng bí thư - thì riêng các đ/c bên Hội đồng LLTƯ có nhã ý đưa cho mỗi tác giả một cái phong bì đựng 100.000 ĐVN (một trăm ngàn đồng VN) gọi là tiền ăn trưa. Chúng tôi chân thành cảm tạ hành vi văn hóa này của HĐLLTƯ và đặc biệt cảm tạ giáo sư Đặng Xuân Kỳ, Phó chủ tịch chuyên trách HĐLLTƯ, mặc dù mới bị té, chân còn sưng tấy, vẫn đón đưa chúng tôi với tấm lòng ưu ái.
Vậy kinh phí lấy ở đâu? Xin thưa: toàn là do những bà con và anh chị em có lòng với việc chung lo cho cả. Một luật sư trẻ (TP Hồ Chí Minh): “Anh, chị ra Thủ đô vì việc chung, vợ chồng em xin lo vé máy bay cho anh, chị.” Một cụ cán bộ hưu trí: “Tôi vừa lĩnh được năm trăm, ủng hộ anh chị hai trăm, còn ba trăm này về nộp cho bà xã. Đừng tiết lộ, bà ấy biết thì gay đấy!” Một đại tá cựu chiến binh, một nhà thơ cao tuổi, một nữ cán bộ khoa học đương chức, một sinh viên đang học luật, một nhạc sĩ, một phóng viên, một tổng biên tập, một nữ doanh nghiệp, một nguyên bác sĩ, một cựu giáo viên, một cán bộ lão thành từng bị “xử lý” oan, mấy bạn đồng môn Đại họcNDVN . . . , không thể kể hết. Tất cả, kẻ ít người nhiều cùng góp sức mong giữ vững mặt trận văn hóa dân chủ này. Chúng tôi đã cẩn thận ghi vào danh sách những tấm lòng mạnh thường quân với hy vọng con cháu sau này hiểu được ý chí đấu tranh chung cho nền dân chủ của ông bà cụ kỵ của chúng ở cuối thế kỷ XX mạnh mẽ nhường nào. Yên trí, tất cả đều là nội lực nhân dân cả thôi!
Đáp tạ tấm lòng của tất cả quý vị, chúng tôi bắt tay viết Đối thoại hai ngàn lẻ một. Để phù hợp với sức khoẻ của các vị cao tuổi và thời gian eo hẹp của bạn đọc nói chung, chúng tôi phát hành từng phần ngắn, nhằm đối thoại kịp thời theo tốc độ của thế kỷ mới: thế kỷ kinh tế tri thức. Cuối mỗi quý chúng tôi sẽ đóng gộp thành từng tập phục vụ cho những bạn đọc nào không có hoàn cảnh theo rõi thường xuyên. Mỗi tập sẽ in kèm theo phần phụ lục gồm các ý kiến khen chê của bạn đọc. Mong nhận được sự hưởng ứng rộng rãi, trừ những ai cho rằng đối thoại kiểu này là hão huyền, vô bổ.
TP Hồ Chí Minh, ngày 20 tháng XI năm 2000
Kính chào thân ái và quyết thắng.
TRẦN KHUÊ - NGUYỄN THỊ THANH XUÂN
1. Đôi lời về hai cuộc đối thoại.
Chấp hành chỉ thị của đ/c Tổng bí thư, chúng tôi đã dự hai cuộc toạ đàm về tác phẩm “Đối thoại năm 2000”: một tại Ban Tư tưởng-văn hoá trung ương (TTVHTƯ) (2 buổi), một tại Hội đồng lý luận trung ương (LLTƯ) (1 buổi) vào cuối tháng 6 năm 2000.
Sau ba buổi thảo luận chính thức sôi nổi, thân mật và thẳng thắn, cả hai phía- Ban TTVHTƯ và Hội đồng LLTƯ cũng như chúng tôi - hai tác giả - đều có trách nhiệm báo cáo nội dung và kết quả của hai cuộc tọa đàm lên Bộ Chính trị và Tổng bí thư. Cuối buổi tọa đàm ở Hội đồng LLTƯ, giáo sư viện sĩ Phạm Minh Hạc - Phó chủ tịch thường trực Hội đồng LLTƯ - đã cẩn thận nhắc nhở:
-Nội dung buổi thảo luận hôm nay bên chúng tôi ghi âm, bên các đồng chí cũng ghi âm, theo nguyên tắc chúng ta không đưa ra công khai.
Chúng tôi trả lời:
- Chúng tôi không theo nguyên tắc đó. Vì theo nguyên tắc kiểu đó làm sao chúng tôi viết được “Đối thoại năm 2000”. Các đ/c có trách nhiệm báo cáo với đ/c Tổng bí thư. Chúng tôi cũng có trách nhiệm báo cáo với đ/c Tổng bí thư. Nhưng chúng tôi thấy còn cần phải thông báo cho dư luận rộng rãi và cả con cháu chúng ta sau này biết được ý kiến của mỗi người chúng ta đúng, sai ra sao. Mọi ý kiến đúng sai của các đ/c chúng tôi xin ghi nhận để tham khảo. Nhưng có ý kiến sai mà còn mang tính xúc phạm chúng tôi như ý kiến của đ/c Phạm Minh Hạc, chúng tôi giữ quyền bác bỏ bằng văn bản. Chúng tôi không có quyền xúc phạm các đ/c và các đ/c cũng không có quyền xúc phạm chúng tôi, mọi sự xúc phạm phải được đưa ra toà án dư luận. Nếu cần, đưa ra toà án pháp lý.
Cũng đáng lưu ý đến một ý kiến của đ/c Hữu Thọ - Trưởng ban TTVHTƯ:
- Bản “Đối thoại năm 2000”, anh Khuê và chị Xuân không gửi cho tôi nhưng tôi vẫn nhận được một bản từ địa phương gửi lên và tôi đã đọc rất kỹ. Tôi thấy hai tác giả viết rất tâm huyết, có những vấn đề tôi đồng tình như ý phản đối việc phục hồi Khổng giáo và hương ước, nhưng hai tác giả phê phán nhiều người quá mà những người này họ không được nói lại, e rằng họ có thể kiện tác giả. Tôi cũng không dám có ý khuyên anh Khuê và chị Xuân nhưng tôi cũng phải góp ý với các tác giả là nên gửi cho đúng địa chỉ để khỏi sinh ra nhiều phức tạp
Trước thái độ nhã nhặn niềm nở và lời lẽ lịch thiệp của đ/c Hữu Thọ, chúng tôi lại nhớ đến một thái độ niềm nở vui vẻ tương tự của các đ/c bên Bộ Công an ( cụ thể là các đ/c ở Cục A.25). Khi nhận lời mời và đến thăm các đ/c A25, chúng tôi cũng được nghe những lời thân mật ưu ái có pha chút băn khoăn của một đ/c:
-Chúng tôi thấy bản “Đối thoại năm 2000” lời lẽ rất tâm huyết và nêu những vấn đề có tính chất xây dựng. Cái tâm của các tác giả rất sáng và đẹp nhưng không nên nghĩ ai cũng đều có cái tâm như thế để tránh bị lợi dụng.
Như mọi người, chúng tôi phấn khởi khi được nghe những lời động viên, nhưng cũng không tránh khỏi băn khoăn. Cho nên khi nghe chúng tôi bộc lộ một cách thẳng thắn nhận xét của mình rằng: “đ/c Hữu Thọ khuyên chúng tôi nhưng thực chất đó là một lời doạ dẫm. Mà đ/c Hữu Thọ cũng thừa biết dọa chúng tôi là vô ích, chẳng qua đ/c muốn dọa những người sắp gặp chúng tôi”, thì đ/c Đào Duy Quát - Phó trưởng ban thường trực BTTVHTƯ đã thanh minh hộ đ/c Hữu Thọ: “ Anh Hữu Thọ nói chân thành đấy, chứ không có ý dọa đâu, các đ/c không nên suy diễn”.
Tuy nói thế nhưng ngay sau đó đ/c Quát lại dọa khéo: “Bản Đối thoại năm 2000 có nhiều ý kiến xây dựng, tốt thôi. Nhưng hiện nay có nhiều tài liệu có những quan điểm chống đối mà cứ phát tán thì không có lợi.”
Chúng tôi đã thẳng thắn chất vấn ngay:
-Thế tại sao các anh lại cho phát tán những quan điểm sai ngay trên báo Nhân Dân, tạp chí Triết học và nhiều tạp chí khác? Tại sao các quan điểm sai thì được quyền phát tán còn các quan điểm đúng lại không được quyền phát tán? Giả thiết cả hai đều sai thì cả hai đều được quyền phát tán để cho công luận phân xử, đánh giá. Thế mới là công bằng chứ! Nhiều quan điểm sai còn được phát tán trong các Hội thảo khoa học. Nếu Ban TTVHTƯ các anh nghiêm khắc kiểm điểm Hội thảo Gia Long thì làm gì có Hội thảo Việt Nhật và nếu nghiêm khắc với Hội thảo Việt Nhật lần thứ nhất thì làm sao họ lại dám rục rịch tổ chức Hội thảo Việt Nhật lần thứ hai?
Đ/c Quát phân trần:
-Về những vấn đề sai lầm đó, nhất là Hội thảo Gia Long, chúng tôi cũng đã nhắc nhở kiểm điểm, rút kinh nghiệm khi giao ban hàng tuần
-Các anh rút kinh nghiệm kiểm điểm lúc nào chúng tôi có biết đâu. Sao các anh không thông báo công khai cho nhân dân biết?
Chúng tôi cũng đã nhất trí với đ/c Quát rằng không nên glatnôts theo kiểu Liên Xô. Nhưng theo chúng tôi thì chúng ta phải công khai theo kiểu Việt Nam của chúng ta. Chúng tôi cũng đã nói với đ/c Hữu Thọ rằng tuy đ/c nói là đã đọc kỹ tác phẩm của chúng tôi nhưng đ/c lại không chú ý đến mấy dòng đã được ghi rõ trong phần Thư ngỏ gửi bạn đọc: “Văn bản này được trân trọng gửi đến đ/c Tổng bí thư Lê Khả Phiêu và Trung ương Đảng, Quốc hội và Chính phủ, những trí thức tâm huyết và bạn bè thân thiết. Chúng tôi giữ bản quyền và hoàn toàn chịu trách nhiệm trước công luận và pháp luật.”
Vậy thế nào là đúng địa chỉ hay không đúng địa chỉ? Chẳng lẽ mọi công dân trên đất nước này không được quyền thông tin và nhận thông tin hay sao? Chẳng lẽ chỉ một số ít những người này được quyền tự do ngôn luận còn số đông những người khác không được quyền ngôn luận tự do?
Chẳng lẽ hàng triệu lá đơn khiếu tố đã gửi đúng địa chỉ và được giải quyết thỏa đáng mà bà con ta vẫn còn gửi vượt cấp hay sao?
Chẳng lẽ mọi nỗi oan khuất đã được cởi bỏ, mọi nỗi ức hiếp đã được giải tỏa mà bà con ta từ Cà Mau, Lâm Đồng, Đà Nẵng, Hà Tĩnh, Nghệ An, Hải Phòng, Thái Bình . . . vẫn cứ từng đoàn, từng đoàn kéo đến kêu khóc ở cửa nhà các đ/c Lê Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh, Trần Đức Lương, Phan Văn Khải. . .?
Rõ ràng, không còn là vấn đề đúng địa chỉ hay không đúng địa chỉ. Phải nhận thức được rằng Nhân dân đang còn đặt chút niềm tin cuối cùng vào các đồng chí Trung ương. Và chúng tôi- tác giả của Đối thoại năm 2000 - cũng gửi niềm tin của mình vào Dân tộc và những người có lương tri của Dân tộc. Của tin còn một chút này cũng phải biết chọn nơi mà gửi.
Môt đ/c Vụ trưởng trẻ tuổi đang làm việc trong Chính phủ ta có ý kiến rằng nên in Đối thoại năm 2000 rồi phát hành rộng rãi cho toàn dân đọc vì nó có tác dụng củng cố lòng tin vào tư tưởng Hồ Chí Minh, vào Đảng, vào Chế độ và tiền đồ của Dân tộc.
Tất nhiên, trong khi Luật Báo chí và Xuất bản chưa sửa đổi cho phù hợp với Hiến pháp và thực tiễn Việt Nam hội nhập cùng thế giới, chúng tôi vẫn cứ phải chờ giấy phép xuất bản. Trong buổi thảo luận thứ hai, đ/c Quát đề nghị chúng tôi cho biết tên người Vụ trưởng đó, chúng tôi trả lời để chúng tôi hỏi xem đ/c ấy có vui lòng cho đ/c Quát biết tên hay không. Nói thế thôi, chứ đời nào chúng tôi lại thiếu thận trọng để tự biến mình thành những indicateur hại người lương thiện, hại một cán bộ tử tế của Đảng.
2. Có thể quên những điều không được phép quên ?
Theo Marx, tất cả mọi chuyện trên đời phải lấy hiện tại làm chuẩn mực, phải nhận thức rõ cái hôm nay trên cơ sở thấu suốt và thâu thái mọi tinh hoa, kinh nghiệm của cái hôm qua để rồi định hướng cho cái ngày mai đi tới. Tất nhiên, những ai lấy quá khứ làm chuẩn rồi nhắm mắt tụng ca quá khứ, đều là sai lầm. Nhưng dù vô tình hay hữu ý, vờ vịt hay thật thà, bằng cách này hay cách khác tìm cách phủ nhận quá khứ cũng là sai lầm nghiêm trọng không kém.
Thử hỏi vì sao năm 1999 có 4 ngày kỷ niệm quan trọng, Ban TTVHTƯ, trong Bản chỉ thị kỷ niệm những ngày lễ lớn lại chỉ qui định có ba, bớt hẳn đi một ngày cực kỳ quan trọng : ngày 7-5-1999 , 45 năm chiến thắng Điện Biên Phủ ?
Thử hỏi vì sao trong bản Chúc Văn Cáo Tổ Hùng Vương vào ngày Giỗ Tổ cuối thế kỷ long trọng và quan trọng đến thế cũng không nói gì đến chiến thắng Điện Biên Phủ?
Giáo sư Vũ Khiêu quên chăng?
Nếu quả thật gs Vũ Khiêu có đãng trí đến mức đó thì Ban TTVHTƯ phải nhắc chứ! Hoặc bộ Văn hoá - Thông tin phải nhắc chứ!
Mà đâu có phải chỉ quên chuyện Điện Biên Phủ!
Cách mạng tháng Tám vĩ đại như thế, ngày Toàn thắng 30 - 4 - 1975 vĩ đại như thế; lại cả một bản Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh dấu một kỷ nguyên mới của Dân tộc. Tất cả đều không được nhắc tới. Một thế kỷ chói lọi hào hùng là kết quả của mồ hôi và xương máu của hàng chục thế hệ mà lại được nhắc bằng hai dòng ngắn ngủn, với lời lẽ khuôn sáo.
Lỗi tại ai thế: tại gs. Vũ Khiêu? tại Ban tư tưởng - văn hoá trung ương? hay tại Bộ Văn hoá - Thông tin?
Dù lỗi tại cá nhân hay tập thể nào cũng trân trọng kiến nghị Bộ Chính trị hạ lệnh kiểm điểm.
Nhân đây chúng tôi cũng nhắc : không rõ đồng chí Tổng bí thư Lê Khả Phiêu và Bộ Chính trị đã chỉ thị cho Ban biên soạn Từ điển Bách khoa kiểm điểm hay chưa về việc họ quên soạn các mục từ: Chiến thắng Như Nguyệt, chiến thắng Chi Lăng, Chiến thắng Xương Giang, chiến thắng Rạch Gầm - Xoài Mút, chiến thắng Đống Đa, chiến thắng Điện Biên Phủ, chiến thắng Sài Gòn...?
Tất cả những lỗi lầm nghiêm trọng đối với quá khứ như kiểu này phải được kiểm điểm nghiêm khắc và thông báo công khai trên các phương tiện truyền thông đại chúng, đặc biệt là báo Nhân Dân và tạp chí Nghiên cứu lịch sử. Riêng việc sai sót trong Chúc Văn Cáo Tổ cần phải được sửa chữa kịp thời và tổ chức ngay một lễ tạ tội trước Đức Tổ Hùng Vương và Quốc dân Đồng bào vào cuối năm 2000 này, để Đất nước khỏi bị sái khi bước vào thế kỷ mới.
Nhớ lại năm 1990 - các đại biểu của ngót 200 quốc gia trong UNESCO suy tôn Bác Hồ của chúng ta là Anh hùng giải phóng dân tộc và Danh nhân văn hoá kiệt xuất cùng với một số danh nhân văn hoá thế giới khác. Nước nào nhận được vinh dự lớn lao đó đều lấy tên danh nhân đặt cho năm kỷ niệm ( thí dụ nước Áo gọi năm 90 của họ là Năm Mozart ). Thế mà Ban TTVHTƯ và Bộ Văn hoá ta bàn bạc thế nào lại gọi năm 90 của ta là Năm Du lịch.
Trong một hội nghị, chúng tôi có nêu thắc mắc với đồng chí Tổng bí thư bấy giờ là đồng chí Nguyễn Văn Linh ( mà miền Nam vẫn thân mật gọi là anh Mười Cúc):
- Thưa anh Mười, xin anh cho biết vì sao năm nay Bác của chúng ta vừa tròn trăm tuổi được thế giới suy tôn như thế mà Trung ương ta lại không đặt tên năm 90 là Năm Hồ Chí Minh?
Sau một phút sững người, đồng chí Mười Cúc bảo chúng tôi hãy yên tâm để Bộ Chính trị và Trung ương xem lại vấn đề. Nhưng rồi chẳng rõ ai can ngăn hoặc bàn ngang mà rốt cục năm 1990 giàu ý nghĩa văn hoá - lịch sử và cực kỳ trọng đại như thế vẫn cứ làNăm Du lịch chứ không phải là Năm Hồ Chí Minh. Năm ấy, trong hai tác phẩm của chúng tôi biên soạn về Bác nhằm trả ơn nghĩa Hồ Chí Minh do Ban Khoa học xã hội Thành uỷ Thành phố Hồ Chí Minh xuất bản, trong lời nói đầu chúng tôi ghi rõ:
Năm nay, nhân dân ta cùng với nhân dân thế giới long trọng kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Người. Trong NĂM HỒ CHÍ MINH này, chúng ta nghiên cứu toàn bộ tác phẩm của Người để hiểu sâu sắc thêm sự nghiệp anh hùng và sự nghiệp văn hóa Hồ Chí Minh. Đó là một bộ phận quan trọng của sự nghiệp anh hùng và sự nghiệp văn hóa Việt Nam. ( Trích “Những vần thơ đẹp Hồ Chí Minh”, tr. 5)
Ngay năm đó, chúng tôi khảo sát sách của một số nhà xuất bản ở Trung ương, không thấy một cuốn sách nào ghi tên “niên đại” này, báo chí quốc doanh của Trung ương cũng không thấy một tờ báo nào lưu tâm đến vấn đề này. Cũng phải thông cảm với họ thôi vì họ còn đang bận cổ động, tuyên truyền cho Năm Du lịch. Đáng buồn là buồn cho các vị học giả và các nhà lý luận, họ cũng biết cả đấy nhưng họ không nói hoặc không dám nói ( chúng tôi cũng ý thức rằng chúng tôi không hề có độc quyền hoặc đặc quyền hiêủ biết những chuyện thuộc loại này ). Đáng buồn hơn nữa là buồn cho những người lãnh đạo Trung tâm KHXH và Nhân văn quốc gia ( bấy giờ gọi là Uỷ ban KHXH ), Bộ Văn hoá - Thông tin và nhất là Ban Tư tưởng - Văn hoá T.Ư đã không tham mưu cho Trung ương Đảng về chuyện quan trọng này.
5. CHỚ ĐỂ LỠ CHUYẾN TÀU VĂN MINH TRÍ TUỆ !
Cuối thế kỷ XIX, Việt Nam ta đã bỏ lỡ mất chuyến tàu văn minh công nghiệp. Trung Quốc cũng lỡ, hầu như cả phương Đông bị lỡ, chỉ trừ có Nhật Bản. Minh Trị Thiên Hoàng cùng với tầng lớp trí thức và tầng lớp thương nhân Nhật đã đưa Nhật Bản kịp nhẩy lên chuyến tầu thế kỷ. Và Nhật Bản phát triển như thế nào ta đã thấy, cả mặt hay và mặt dở. Chẳng việc gì phải chúi vào mặt dở rồi quên việc học cái hay của thiên hạ. Họ cũng chẳng có phát minh sáng chế gì nhiều, cứ chăm chăm đi bắt chước cái hay của thiên hạ mà sau Thế chiến II trở thành siêu cường về kinh tế. Thua trận đến bại hoại gân cốt, thế mà lại vươn lên thành một siêu cường kinh tế, dám ngang ngửa với siêu cường Mỹ. Cùng là chịu ảnh hưởng văn hoá nho giáo Trung Hoa nhưng Nhật Bản thì biết tụng Vương Dương Minh “tri hành hợp nhất”. Trí thức Nhật Bản có hẳn một trường phái gọi là Vương học, hễ gặp nhau thì đặt tượng Vương Dương Minh trước mặt một cách trang trọng, chắp tay vái rồi mới cùng nhau bàn chuyện quốc sự. Sau Vương học có Lan học, Fukuzawa học . . . các trường phái tán thành nhau, phản đối nhau trong một phong trào sôi nổi về học thuật để tìm ra một hướng đi cho dân tộc và đất nước Nhật Bản.
Trong khi đó vua Tự Đức và triều đình Huế nhà ta vẫn rung đùi xướng họa thơ đường luật, khuyến khích làm văn bát cổ, tụng rất kỹ những điều thi vân, tử viết, chỉ lo làm chệch Khổng Mạnh, Tống nho, Thanh nho; đưa Đổng Trọng Thư và Nhị Trình lên hàng chuẩn mực; chê bọn Tây dương là man di mọi rợ, trước sau vẫn giữ đạo thần phục Thanh triều, bỏ ngoài tai những lời trung thực, những kế sách cải cách đầy tâm huyết của những Bùi Viện, Đặng Huy Trứ, Nguyễn Lộ Trạch, Nguyễn Trường Tộ. Do đó triều Nguyễn đã đẩy đất nước vào con đường tụt hậu, nô lệ. Đến nỗi phải mất 117 năm bi tráng (1858-1975) với bao lớp người vùng lên ngã xuống mới giành lại được cơ đồ của ông bà tổ tiên nghìn xưa để lại.
Đến chuyến tầu văn minh trí tuệ của thế kỷ XXI này mà lại còn dùng dằng để lỡ thì hẳn giới lãnh đạo mang tội với đất nước ít nhất cũng ngang bằng triều Nguyễn.
VIỆT NAM TA ĐANG Ở ĐÂU? VÀ SẼ ĐI VỀ ĐÂU?
Những câu hỏi có vẻ thừa nhưng vẫn không thể không đặt ra. Chẳng phải thế sao, từ vài ba ngàn năm nay nhân loại cứ vừa đi vừa băn khoăn tự hỏi: Ta là ai? Ta từ đâu tới? và Ta sẽ đi về đâu?
Không hề là triết gia hay các đấng bậc hiền triết, luôn luôn đau đời, đau đạo; cũng chẳng hề học thói Sào Phủ, nghe đến việc trị nước lại vội vã đi rửa tai; chúng tôi - cũng như các bạn - may mắn được sống trong buổi giao thời của thế kỷ và thiên niên kỷ, với tư cách những người chủ đất nước có ít nhiều hiểu biết, sẵn sàng đối thoại, bàn bạc với những ai có ý thức trách nhiệm về những việc lớn của Dân tộc và Đất nước.
Mấy chục năm liền, hồi còn sinh thời, Cụ Hồ không ngừng nhắc mọi người chớ quên rằng: nước ta là một nước sản xuất nhỏ. Ấy thế mà rất nhiều người cứ quên cái đặc điểm rất to này.
Đến nay, vào cuối năm 2000, còn có ai không hiểu rằng nước ta vẫn là một nước nông nghiệp nghèo nàn và lạc hậu, xếp hàng thứ 8/13 nước nghèo nhất hành tinh. Một thời quanh ta là một phe XHCN hùng mạnh, đứng đầu là anh cả Liên Xô siêu cường, kế bên là anh hai Trung Quốc vĩ đại. Ta được tham gia KOMECOM và, theo đúng lời Lênin dạy ta yên trí rằng vì đã có các nước anh em trong phe giúp đỡ, ta có thể tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không cần qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Đại hội IV và Đại hội V của Đảng ta thời đồng chí Lê Duẩn và đồng chí Lê Đức Thọ, mọi chuyện của đất nước đều được bàn thảo theo tinh thần này. Và đất nước rơi vào tình trạng trì trệ khủng hoảng như thế nào ta đều biết cả, miễn nhắc lại. Nhiều người nói không thể qui riêng trách nhiệm cho anh Ba vì chính Bác Hồ cũng đã lựa chọn con đường này.
Nhầm to! Họ không hiểu hết cái thâm ý của Cụ Hồ. Vào những năm cuối thập kỷ 50, thấy các đồng chí anh Cả, anh Hai lớn tiếng đả kích nhau là “xét lại”, là “giáo điều”, lo ảnh hưởng xấu đến công cuộc chống Mỹ Diệm, thống nhất Tổ quốc, Cụ đã hạ lệnh cắt tiếp vận hai đài Mạc Tư Khoa và Bắc Kinh. Sau hai hội nghị quốc tế 81 Đảng và 12 Đảng ở Mạc Tư Khoa và sự kiện hai ông anh dàn quân bắn nhau ở biên giới, cộng với các sự biến Ba lan và Hunggari, thế là Cụ hiểu cả. Toàn phe rầm rập xã hội chủ nghĩa thì mình cũng xã hội chủ nghĩa. Chẳng kể “giáo điều” hay “xét lại”, thế giới tư bản hay thế giới thứ ba, cứ ủng hộ Việt Nam chống Mỹ thì đều là bạn thiết của Việt Nam. Không phải vì kính yêu Cụ mà cố thanh minh, biện bác để tránh hoàn toàn mọi trách nhiệm cho Cụ.
Khi đất nước bị xâm lăng, Dân tộc bị nô lệ, Cụ phải rời quê hương để tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc. Khi đọc luận cương của Lênin, Cụ rất mừng và nhận thức ra rằng muốn giải phóng dân tộc thì phải đi theo con đường cách mạng vô sản.
Đây là một điểm nhiều người dễ nhận thức nhầm lẫn. Cụ Hồ có làm cách mạng vô sản cũng là nhằm mục đích giải phóng dân tộc. Như vậy con đường cách mạng vô sản hay ta thường gọi là cách mạng xã hội chủ nghĩa là phương tiện hay cứu cánh?
Xuất phát từ thực tiễn Việt Nam và mạch chính của tư tưởng Hồ Chí Minh thì đối với Cụ lúc bấy giờ con đường cách mạng vô sản hay cách mạng xã hội chủ nghĩa vẫn chỉ là phương tiện để Cụ và toàn dân đạt tới mục đích giải phóng dân tộc. Với cụ Hồ, Cụ phải làm tất cả những gì cần làm, sử dụng tất cả phương tiện nào có trong tay, miễn là đạt được mục đích độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc. Chẳng lẽ khi đã hoàn thành được sự nghiệp độc lập thống nhất rồi tất yếu phải xây dựng một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa mà Cụ lại viết nhầm và dặn nhầm con cháu phải xây dựng một nước Việt Nam hoà bình độc lập thống nhất, dân chủ và giàu mạnh?
Trước 30/4/1975, ta phải giương cao hai ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là đúng, hợp với tình thế. Từ 1960 đến 1975, miền Bắc ta đã làm cách mạng xã hội chủ nghĩa rồi, nghĩa là ta đã công hữu hoá, tập thể hoá, xoá sổ quyền tư hữu đúng như Tuyên ngôn của Đảng cộng sản của Mác và Ănghen. Và tình hình kinh tế, xã hội xấu đi như thế nào thì Đại hội VI của ta đã thừa nhận sai lầm và quyết định đường lối ĐỔI MỚI.
ĐỔI MỚI của Việt Nam ta thực chất là dân chủ hoá đất nước theo tư tưởng Hồ Chí Minh để tránh sự trì trệ, sụp đổ và tạo ra một giai đoạn phát triển mới cho đất nước.
Thực tiễn 15 năm đổi mới vừa qua đã xác nhận có dân chủ thì có phát triển. Lĩnh vực nào dân chủ nhiều thì phát triển nhanh, dân chủ ít thì phát triển chậm và mất dân chủ thì trì trệ, suy thoái.
Cho nên nói độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội cũng không sai nhưng lại dễ gây ra những sự ngộ nhận. Nhiều cán bộ, đảng viên cứ lo đổi mới mạnh mẽ thì mất chủ nghĩa xã hội. Họ đâu có hiểu rằng chính đổi mới một cách chập chờn sẽ làm cho lực lượng sản xuất phát triển chậm chạp, vô tình đã triệt tiêu những động lực khiến ta có thể tiến nhanh lên chủ nghĩa xã hội. Họ tưởng cứ cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước chậm chạp, đánh thuế nặng vào các trang trại, các doanh nghiệp tư nhân, tiếp tục bù lỗ cho các xí nghiệp quốc doanh, tiếp tục độc quyền về báo chí và xuất bản . . . là giữ vững được chủ nghĩa xã hội.
Thực tế họ chỉ làm cho nhân dân thêm chán ghét chủ nghĩa xã hội. Mà nhân dân chán ghét chủ nghĩa xã hội là đúng! Chủ nghĩa xã hội gì mà lạ thế! Hợp tác xã thì có làm mà không có hưởng, phương án nổi phương án chìm, chỉ béo các vị quản trị tham ô. Xí nghiệp quốc doanh không sản xuất đủ hàng tiêu dùng, tư doanh sản xuất thì lại “kiểm tra hành chính”, tịch thu gia sản rồi cho đi tù. Mậu dịch thì quầy hàng rỗng không, hỏi hàng gì cũng phải có tiêu chuẩn phân phối, cung cấp. Chế độ tem phiếu một thời đã sinh ra bao bất công, tệ nạn:
Tôn Đản là chợ vua quan
Nhà Thờ là chợ trung gian nịnh thần
Chợ giời là chợ thương nhân
Vỉa hè là chợ nhân dân anh hùng.
(Ca dao mới)
Văn nghệ thì đua nhau minh họa chính sách. Báo chí thì tuyên truyền “ngô bổ hơn gạo”, hướng dẫn bà con nông dân trồng khoai ụ, nuôi lợn bằng phân trâu . . . Phát biểu phê bình thủ trưởng thì bị chụp ngay cái mũ chống lãnh đạo.. Còn đã bị vu là “xét lại chống Đảng” thì đi tù, tù vô thời hạn, không cần xét xử.
Kể mãi cũng chẳng hết nhưng phải thấy rằng đó là những trò làm sai rồi đổ tiếng xấu cho chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội mà Mác dự báo đâu có thấp kém, tồi tệ và dối trá như thế.
Bản thân chủ nghĩa xã hội Stalin đã là sai lầm và không thích hợp với Liên Xô. Khi được vận dụng vào một nước nông nghiệp lạc hậu như nước ta, nó càng không thích hợp và sai lầm thảm hại hơn. Do đó, trong tập “Đối thoại năm 2000”, chúng tôi khẳng định chủ nghĩa xã hội lý thuyết của Mác là tốt đẹp, đáng mong ước và nó chỉ có thể xẩy ra ở những nước thuộc trình độ G7. Còn ta hiện nay thì phải thực thi chủ nghĩa xã hội Hồ Chí Minh. Chủ nghĩa xã hội Hồ Chí Minh không hề đối lập mà nó là một giai đoạn tất yếu phải trải qua trước khi tiến đến chủ nghĩa xã hội Các Mác.
Tóm lại, Việt Nam ta vẫn đang là dân chủ cộng hoà chứ chưa phải cộng hoà xã hội chủ nghĩa. Ta vẫn đang tiếp tục làm cách mạng dân tộc-dân chủ chứ chưa phải làm cách mạng xã hội chủ nghĩa. Ta phải nắm vững chuyên chính dân chủ nhân dân chứ không phải chuyên chính vô sản. Trong thực tế ta cũng chưa hề có giai cấp vô sản - một giai cấp công nhân đại công nghiệp đúng như khái niệm trong lý luận Mácxit. Ta thấy chủ nghĩa Mác-Lênin có nhiều cái hay, ta cứ học, cứ theo nhưng không được phép quên rằng: Tư tưởng Hồ Chí Minh tức là tư tưởng Việt Nam ở thế kỷ XX này mới đúng là nền tảng để chúng ta xây dựng, chúng ta suy nghĩ và hành động. Hơn nửa thế kỷ vừa qua xuất phát từ Hồ Chí Minh, theo Hồ Chí Minh và phải đến với Hồ Chí Minh. Như thế mới đúng là Việt Nam, mới đúng là:
“Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta!”.
Chúng tôi tán thành ý kiến của giáo sư Trần Văn Giàu là cần phải giải thích rõ thế nào là chủ nghĩa xã hội và thế nào là định hướng XHCN?
Và thế nào là kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa? Đây là một thuật ngữ mới được đặt ra từ sau Đại hội VI, nó không có tính chất khoa học. Một vài hội thảo đã thảo luận nhưng không có nhà nghiên cứu nào trình bầy có sức thuyết phục về vấn đề này, cũng không đi đến một kết luận nào rõ ràng dứt khoát mà dứt khoát và thuyết phục sao được khi bản thân thuật ngữ đó chứa đựng sự xung khắc như nước với lửa. Lâu nay các nhà lý luận của ta không dám dùng cơ chế thị trường xã hội chủ nghĩa nữa chính là vì lẽ này. Vì cơ chế thị trường là cơ chế thị trường chứ không thể dính thêm cái đuôi tư bản chủ nghĩa hay xã hội chủ nghĩa. Nói một cách nôm na, đơn giản: thị trường có nghĩa là tự do mua bán, thị trường vận động theo những qui luật của nó (qui luật giá trị, qui luật cung cầu, qui luật cạnh tranh..v...v..) không thể can thiệp một cách thô bạo được. Ngay giai cấp tư sản vốn ham lợi nhuận và siêu lợi nhuận, muốn can thiệp mà cũng phải dừng lại. Họ muốn huỷ bỏ tự do cạnh tranh để tạo ra độc quyền kinh doanh. Độc quyền có hại cho người tiêu thụ và toàn bộ nền kinh tế tư bản, nghĩa là hại cho cả người kinh doanh. Do đó họ phải ra những đạo luật chống độc quyền. Chính sự sửa chữa sai lầm này đã cứu chủ nghĩa tư bản thoát khỏi tình trạng giãy chết, rồi tiếp tục phát triển. Còn một số nước trong phe ta vì không biết tuân theo qui luật, không biết tự điều chỉnh nên đã rơi vào tình trạng sụp đổ, sụp đổ với nhịp độ thần tốc nghĩa là chết không kịp giãy.
Việt Nam ta vì đổi mới kịp thời nên thoát hiểm. Nhìn mặt tích cực, có cạnh tranh và phát triển thì ta mừng. Nhưng thấy mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, ta lại lo. Lo quá hoá ra dụt dè, nên ra tay can thiệp khiến cho nhiều mặt đang phát triển lại ngưng trệ. Lĩnh vực kinh doanh nào có sự độc quyền là y như người tiêu thụ kêu ca và lĩnh vực đó bị ngưng trệ. Do đó nhà nước ta mới đang lo chuyện phải soạn thảo và ban bố luật chống độc quyền. Làm như thế là hoàn toàn đúng qui luật. Tất nhiên ta phải lo tạo ra một môi trường pháp lý bảo đảm cho sự tự do cạnh tranh lành mạnh, chống sự chụp giật lừa đảo, trốn thuế, trốn sự kiểm soát của Nhà nước và người tiêu thụ. Đây đó lác đác thấy một vài bài báo tỏ ý lo ngại luật chống độc quyền sẽ ảnh hưởng đến sự chủ đạo của các doanh nghiệp nhà nước nghĩa là lo chệch hướng xã hội chủ nghĩa. Cũng chính những người suy nghĩ kiều này đã một thời lo “khoán” sẽ mất chủ nghĩa xã hội, nhưng thực tế đã chứng minh rằng “khi khoán hộ thì thấy chủ nghĩa xã hội không những không mất mà đi lên nhanh hơn” (Lê Khả Phiêu - Báo Tuổi trẻ chủ nhật số 2-1999).
Thử hỏi có tới 67% giám đốc và tổng giám đốc các doanh nghiệp nhà nước (nguồn: Bộ Tài chính) không biết đọc bản kết toán thì đáng sợ như thế nào? Vậy cứ ôm lấy các doanh nghiệp quốc doanh làm ăn kém cỏi để tiếp tục bù lỗ cho đến bao giờ? Đó là chưa kể những trường hợp lãi vẫn cứ khai lỗ. Điển hình là công ty Điện lực, bao nhiêu năm được phép phụ thu rồi lại xin phép chính phủ cho tăng giá điện mà vẫn kêu lỗ. Điều tra ra mới thấy rằng các vị lỗ giả lãi thật. Vậy tiền lãi ấy đi đâu? Rõ ràng định hướng xã hội chủ nghĩa kiểu này thì chỉ béo bở cho một số người nào đó, còn nhà nước và người tiêu thụ đều bị thiệt hại.
Còn nói cơ chế thị trường có sự quản lý và điều tiết của Nhà nước, mới nghe qua là rất hợp lý nhưng thực tế cho thấy một số rất đông vợ con các vị lãnh đạo, một mặt liên doanh, liên kết với các tư doanh trong nước và ngoài nước, mặt khác lại móc ngoặc với các cơ quan tổ chức ở Vụ này, Bộ khác để lũng đoạn thị trường và làm xáo trộn đời sống. Có chuyện nghe như bịa mà có thật: nhiều loại tân dược bị cấm sản xuất ở Pháp, công ty dược của họ phải chạy sang sản xuất ở Ý nhưng không được phép tiêu thụ ở Ý. Vậy mà Bộ Y tế của ta lại cho phép nhập các dược phẩm đó vào Việt Nam với số lượng lớn để cho dân ta có thể tiêu thụ thoải mái bắt chấp sức khỏe bị ảnh hưởng như thế nào? Nhiều thứ hàng khác cũng thế. Kinh hoàng hơn nữa là Tổng công ty xuất nhập khẩu sách báo dưới sự quản lý của Bộ Văn hoá lại độc quyền nhập khẩu luôn hàng chục công-ten-nơ sách báo phế thải, trong đó có cả những truyện tranh thiếu nhi cổ động cho tình dục và bạo lực. Cùng lắm là mấy cán bộ thừa hành ra toà, còn Bộ trưởng Văn hoá, Bộ trưởng Y tế vẫn vô can.
Giá cả tăng vô tội vạ. Thuốc thang, sách báo độc hại nhập vô tội vạ, thế mà người ta vẫn lớn tiếng chủ trương quốc doanh phải giữ vai trò chủ đạo.
Nơi cần có vai trò chủ đạo thì các vị lại không thèm chủ đạo. Giai cấp công nhân được mệnh danh là giai cấp lãnh đạo muốn dùng biện pháp đình công để tự bảo vệ quyền lợi của mình cũng rất khó khăn. Họ luôn luôn hoạnh họe công nhân rằng đình công thế này là bất hợp pháp, đình công thế kia là trái thủ tục. Họ đây là ai? Là Phòng lao động huyện, là Sở Lao động thành phố, là Thanh tra lao động, là Liên đoàn lao động, Công đoàn . . . nghĩa là toàn những thành phần thuộc bộ máy nhà nước có trách nhiệm bảo vệ quyền lợi của những người công nhân thì họ lại đứng ra cản trở cuộc đấu tranh đó. Chưa kể nhiều đảng viên được cử vào Hội đồng quản trị hoặc Ban giám đốc lại đứng hẳn về phía chủ, bảo vệ quyền lợi cho chủ, phản bội giai cấp mình.
Đây là một nếp tư duy sơ cứng đã hình thành trong 20 năm xây dựng CNXH ở miền Bắc (1954-1975). Bấy giờ mọi người đều quan niệm rằng chúng ta đang sống trong chủ nghĩa xã hội, tất cả đều là sở hữu công cộng thuộc về nhà nước và tập thể, ta chỉ cần nâng cao ý thức về quyền làm chủ tập thể là đủ. Ta lại đình công để tự ta chống lại ta hay sao? Vì thế lúc đó không có luật đình công. Qua Đại hội IV và Đại hội V(1976-1985), thấy kinh tế trì trệ và xã hội khủng hoảng trầm trọng, ta mới kinh hoàng nhận ra rằng ở một nước có một nền kinh tế tiểu nông nghèo nàn và lạc hậu như ta không thể chủ quan duy ý chí và nóng vội xây dựng kinh tế xã hội chủ nghĩa ngay được mà phải chuyển ngang sang kinh tế thị trường. Làm kinh tế thị trường nhưng ta vẫn vương vấn với tư duy kinh tế xã hội chủ nghĩa mà ta quen gọi tránh đi là “tư duy thời kỳ bao cấp” nên ở nhiều lĩnh vực ta rất lúng túng. Điển hình là ở lĩnh vực nông nghiệp. Khoán hộ đạt hiệu quả thần kỳ như thế (thoát nạn đói kinh niên và thừa gạo xuất khẩu), trang trại phát triển tốt như thế nhưng ta vội vã tạo ngay ra cái độc quyền quo-ta xuất khẩu và đè ra đánh thuế thu nhập đối với nông dân. Cũng may thực tiễn đã giúp ta điều chỉnh ngay những việc làm bất công hoặc thái quá đó. Độc quyền quo-ta xuất khẩu gạo thực chất là muốn quay lại tư duy bao cấp, đánh thuế thu nhập vào nông dân thực chất là ta muốn thực thi quyền điều tiết của nhà nước xã hôị chủ nghĩa đối với thị trường.
Nhiều người trong bộ máy nhà nước quên mất rằng nhà nước ta giữ quyền điều tiết để giúp cho kinh tế phát triển chứ không phải điều tiết để kìm hãm lực lượng sản xuất. Họ cũng không hiểu rằng cái gọi là nhà nước xã hội chủ nghĩa của chúng ta là do đổi tên vội vã và chứ thực chất nó là nhà nước dân chủ nhân dân. Ở đây sự nhầm lẫn nọ kéo theo sự nhầm lẫn kia nên sinh ra một tình trạng hết sức lúng túng, nhiều khi làm sai nhưng cắt nghĩa thế nào cũng đúng. Khi anh làm sai pháp luật của nhà nước, anh bảo cơ chế thị trường nó phải thế. Khi anh ra chỉ thị hay nghị định sai, anh lại bảo đây là thuộc phạm vi điều tiết quản lý của nhà nước XHCN. Chỉ thị sai thì được thực hiện rất nhanh, đặc biệt những chỉ thị về việc tăng giá các mặt hàng có tác dụng làm giảm sức mua. Chỉ thị đúng thì thực hiện rất trầy trật, chẳng hạn chỉ thị bỏ giấy phép con hoặc cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước. Điển hình là đánh thuế giá trị gia tăng, thu rất nhanh rất đủ khiến cho các doanh nghiệp tư nhân lao đao muốn sập tiệm cả loạt. Nghe họ kêu oai oái. Thủ tướng ra lệnh hoàn trả nhưng các chi cục thuế lại nhẩn nha chờ đủ thứ văn bản, chỉ thị hướng dẫn. Thế là các doanh nghiệp cứ việc đi mòn gót và dài cổ ra mà đợi. Vì sao có thể xảy ra những tình hình như thế ở trong một nhà nước đã tương đối có đầy đủ pháp luật như nhà nước chúng ta? Ở đây không thể chỉ cắt nghĩa bằng tác phong quan liêu, thiếu ý thức tôn trọng nhân dân, thiếu ý thức chấp hành kỷ cương luật pháp ..v..v. Mà phải cắt nghĩa bằng cái gốc của vấn đề. Đó là sự sai lầm về nhận thức và lý luận. Còn những sai lầm kia chẳng qua là hệ qủa tất yếu của cái sai làm gốc này.
Từ ba bốn chục năm nay, hầu hết các cán bộ đảng viên trong bộ máy nhà nước ta được huấn luyện qua các trường, các học viện đều đinh ninh rằng chủ nghĩa xã hội là công hữu, là xoá bỏ quyền tư hữu. Cái gì thuộc sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể mới đáng được tôn trọng. Còn cái gì thuộc về tư hữu, tư nhân, cá thể đều bị coi thường, cho sao được vậy. Đã một thời gian dài, cùng là một giai cấp nông dân với nhau nhưng phân tầng rất rõ: nông dân xã viên thì được tôn trọng quí hoá (dù họ sống nghèo khổ) còn nông dân cá thể thì bị khinh thường là kẻ lạc hậu chống lại tập thể, chống lại xã hội chủ nghĩa (dù họ làm ăn giỏi giang, giàu có). Người nông dân cá thể từng chịu thiệt thòi đủ đường như thế nào, ai cũng biết cả.
Cùng là tầng lớp kinh doanh nhưng vào công tư hợp doanh tức là xã hội chủ nghĩa là đã được cải tạo, được coi là có giá trị. Còn lại đám cá thể là đồ con buôn, con phe . . .. Dù những người kinh doanh đứng đắn làm giàu chính đáng, nộp thuế đầy đủ, nghiêm túc tuân theo pháp luật vẫn cứ phải tìm cách triệt đi, vì trong mắt ai họ vẫn là những kẻ đi theo con đường tư bản chủ nghĩa.
Công bằng mà nói, trong thời đổi mới, người nông dân cá thể biết làm giàu đã được tôn vinh xứng đáng, chẳng ai còn dám ngấm nguýt. Nhưng tư thương, tư doanh có làm ăn tốt đến mấy, đóng góp đầy đủ đến mấy cũng vẫn được coi là loại “con nuôi, con ghẻ”, lại thường xuyên được “thăm hỏi sức khỏe” nếu không biết lót tay hoặc không biết “liên kết” với các cấp chính quyền để nhận sự bảo trợ. Cũng là tư doanh nhưng phải là con cháu các cụ hoặc tư thương ngoại quốc mới được hưởng sự âu yếm, vồ vập.
Đáng mừng là sau khi Thủ tướng có mấy cuộc trò chuyện thân mật và nhất là lệnh huỷ bỏ hơn một trăm giấy phép con thì các tư thương bản xứ có được dễ thở hơn. Nghe các nữ giám đốc tư doanh kể khổ, cả Thủ tướng và những người hiểu biết đều thấy mủi lòng.
Như thế là ngay với nhiều cơ quan nhà nước từ cấp Bộ trở xuống vẫn nhìn những nhà tư doanh với cặp mắt thiếu thiện cảm. Cái nhìn này có nguyên nhân lịch sử sâu xa của nó. xuất phát từ quan điểm trọng nông ức thương của giai cấp thống trị phong kiến, đặc biệt dưới triều các vua quan nhà Nguyễn. Quan điểm xã hội chủ nghĩa với sự hiểu máy móc Tuyên ngôn của Đảng cộng sản là xoá bỏ quyền tư hữu không đếm xỉa gì đến thực tiễn kinh tế- xã hội Việt Nam nên vô tình đã tiếp cận với quan điểm khinh thị thương nhân trước đây. Cho nên Bộ nào, Sở nào, Phòng nào còn dùng dằng ngần ngại trong việc bỏ những giấy phép con mà Thủ tướng đã ra lệnh là do vẫn còn sơ cứng trong nhận thức về CNXH. Còn lý do “khó quản lý” là lý do không chính đáng, không có cơ sở thực tế. Có một bài trên báo Nhân Dân đã chỉ ra rằng: tại sao có đủ cả mấy cơ quan quản lý (sở Thương mai, sở Y tế, cục Kiểm dịch, cục Kiểm tra chất lượng v.v...) mà để cho bánh phở có pha foóc-môn tự do lưu hành nhiều năm liền làm hại sức khỏe của người tiêu dùng? Người phát hiện lại chính là người tiêu dùng và báo chí chứ không phải là các cơ quan quản lý. Cho nên những người nào được Đảng cử ra làm trách nhiệm quản lý trong bộ máy nhà nước mà quản lý không tốt làm hại đến quyền lợi của Nhân Dân và tổn thất đến uy tín của Đảng thì phải được truy cứu trách nhiệm trước pháp luật không được phép chỉ nhận khuyết điểm chung chung là “buông lỏng quản lý” rồi chỉ kiểm điểm nội bộ hoặc xử lý hành chính.
Dư luận vui mừng khi thấy đ/c Tổng bí thư Lê Khả Phiêu trả lời phỏng vấn của báo chí rằng sắp tới Bộ trưởng không nhất thiết cứ phải là đảng viên. Đây là một ý tưởng mới cần phải được thông suốt trong toàn Đảng. Nhưng chúng tôi giật mình khi đọc bài “Đảng viên trong doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá ”của tác giả Nguyễn Anh Dũng (báo Nhân Dân ngày 11-10-2000:
(...) “Nhưng ở những công ty mà nhà nước bán toàn bộ cổ phần thì vai trò lãnh đạo hoàn toàn tuỳ thuộc uy tín của đảng viên và chất lượng công tác Đảng, do đó phương pháp công tác phải khác, có lẽ phải đề cao và nhuần nhuyễn công tác vận động, giáo dục quần chúng, trong đó có sự động viên, giác ngộ những nhà giàu, tư sản...”
Mạn phép hỏi tác giả Nguyễn Anh Dũng: Thế nào là đề cao và nhuần nhuyễn công tác vận động giáo dục quần chúng? Thế nào là động viên, giác ngộ những nhà giàu, tư sản? Sau mấy chục năm ta giáo dục, vận động quần chúng là “có áp bức phải có đấu tranh”, thế mà khi quần chúng công nhân ở các doanh nghiệp đình công, bãi công để đấu tranh với giới chủ thì có những đảng viên trong Hội đồng quản trị doanh nghiệp, các đảng viên phụ trách công đoàn, các đảng viên viết báo lại bắt bẻ họ rằng đình công không bảo đảm thủ tục, không hợp pháp, làm mất ổn định doanh nghiệp và ổn định xã hội. Thử hỏi những đảng viên này theo chủ nghĩa Mác- Lênin hay theo chủ nghĩa nào? Theo tư tưởng Hồ Chí Minh hay theo tư tưởng nào? Đứng về phía quyền lợi giới chủ hay đứng về phía quyền lợi của giai cấp công nhân?
Và xin hỏi tác giả Nguyễn Anh Dũng: cần tăng cường công tác giáo dục quần chúng công nhân hay cần tăng cường giáo dục cái lũ đảng viên tiêu cực đang phản bội giai cấp công nhân?
Theo luật pháp của ta hiện nay mọi nhà và mọi người tư sản được quyền làm giàu chính đáng. Họ kinh doanh có lãi và nộp thuế đầy đủ, đối xử với công nhân theo đúng Luật Lao động tức là họ đóng góp tích cực vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước. Còn bọn nhà giàu mới nổi lên phần đông là đảng viên tham nhũng và không ít vợ con các vị lãnh đạo cấp cao đang hình thành một tầng lớp tư sản mới mà dân gian gọi là bọn tư sản đỏ, chính bọn này luôn luôn trồn thuế và lợi dụng những khe hở của luật pháp để làm giàu bất chính..
Vậy xin hỏi tác giả Nguyễn Anh Dũng ta cần giác ngộ đám tư sản nào: tư sản dân tộc hay tư sản đỏ? Đã đến lúc mọi sự lý luận phải xuất phát từ cơ sở thực tiễn của xã hội mà phân tích đúc kết cho rành rọt sáng sủa. Viết khơi khơi theo kiểu tác giả Nguyễn Anh Dũng, theo chúng tôi, chẳng qua đó chỉ là lặp lại một thứ lý luận đấu tranh giai cấp đậm màu sắc Mao-ít mà thôi. Chưa kể lúc nào cũng đi lo “giáo dục quần chúng” đó là bệnh “kiêu ngạo cộng sản” không thể chấp nhận được. Muốn giáo dục người khác thì trước hết phải tự giáo dục mình.
Tác giả Nguyễn Anh Dũng còn viết: “Vai trò lãnh đạo của Đảng theo địa bàn cũng hết sức quan trọng, kết hợp vai trò của Đảng trong từng doanh nghiệp và sự gương mẫu của từng đảng viên sẽ giữ vững được niềm tin, sự ngưỡng mộ của quần chúng và các nhà doanh nghiệp, cũng là giữ vững sự thừa nhận đương nhiên Điều 4 Hiến pháp nước Cộng hoà XHCN Việt Nam”
Ở đây tác giả Nguyễn Anh Dũng nhầm lẫn khái niệm lãnh đạo với quản lý. Lãnh đạo là công việc của cấp vĩ mô. Còn quản lý là công việc cụ thể của từng doanh nghiệp. Trong tình hình đổi mới hiện nay, muốn tham gia quản lý doanh nghiệp (nhất là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh) anh phải có vốn lớn hoặc có năng lực quản lý. Dù anh là đảng viên nếu anh không đủ số cổ phần nhất định thì không thể tham gia hội đồng quản trị. Dù anh là đảng viên nhưng anh không đọc nổi bản quyết toán tài chính, ai dám thuê anh làm tổng giám đốc hay giám đốc? Nếu anh đã là đảng viên đồng thời lại là nhà kinh doanh giỏi thì chưa kịp vận động, giáo dục hay giác ngộ, người ta đã phải đốt đuốc tìm đến tận nhà để “thỉnh” anh rồi.
Nguyễn Anh Dũng cũng quên rằng đâu cứ có Điều 4 Hiến pháp nước Cộng hoà XHCN Việt Nam thì nhân dân mình mới “giữ vững sự thừa nhận đương nhiên” vai trò lãnh đạo của Đảng.
Cứ thử giở lại Điều 4 Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hoà được Quốc hội thông qua ngày 31-12-59, khi còn sinh thời Bác Hồ xem điều 4 ghi cái gì?
“... Tất cả quyền lực trong nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đều thuộc về nhân dân...”.
Vậy lúc đó nhân dân có “ thừa nhận đương nhiên quyền lãnh đạo của Đảng” không? Kể từ Hiến pháp đầu tiên thông qua 19-11-1946 cho đến trước ngày thông qua Hiến pháp sửa đổi năm 1980 (18-12-80) trong 34 năm đó ai thay được Đảng cộng sản để lãnh đạo cuộc cách mạng này, đất nước này. Đâu có phải cứ đi sao chép Điều 6 của Hiến pháp Liên Xô thành Điều 4 Hiến pháp Việt Nam xã hội chủ nghĩa rồi khẳng định rằng “Đảng là lực lượng duy nhất lãnh đạo nhà nước lãnh đạo xã hội” thì nhân dân ta mới thừa nhận sự lãnh đạo của Đảng”.(Hiến pháp 92 đã bỏ đI từ duy nhất)
Trong tác phẩm “ Đối thoại năm 2000”, chúng tôi đã phân tích rất kỹ rằng bỏ Điều 4 cũ của cụ Hồ thay bằng Điều 4 mới chép theo ĐIều 6 của hiến pháp Liên xô là rất nguy hiểm. Chính Bác Hồ đã dạy rằng người cộng sản chớ có vỗ ngực nhận mình là người lãnh đạo rồi bắt dân thừa nhận sự lãnh đạo ấy. Phải chăng ghi vào Hiến pháp để khẳng định sự siêu quyền lực của Đảng như thế, theo Lênin, đó là biểu hiện một tinh thần “kiêu ngạo cộng sản” mà Nhân dân và Cuộc sống không thể chấp nhận. Và đây cũng là chỗ dựa pháp lý để cho những đảng viên tiêu cực tha hồ tác oai tác quái, phá hoại mọi kỷ cương pháp luật. Tất nhiên đảng viên chân chính không bao giờ lợi dụng điều này, vì thế họ sống thì nhân dân đi theo, họ chết thì nhân dân thờ cúng và tiếp tục noi gương sáng của họ.
Trong buổi toạ đàm ở Ban TTVHTƯ, khi nghe đồng chí Đào Duy Quát nói rằng: “vì tình hình chính trị cấp thiết hiện nay không thể xoá bỏ Điều 4 Hiến Pháp được”, chúng tôi đã thẳng thắn bác bỏ và giải thích rằng: theo chúng tôi, chính vì tình hình chính trị cấp thiết hiện nay mà cần bỏ Điều 4 trong Hiến pháp. Hạ Viện Mỹ vừa rồi cũng yêu cầu chúng ta xoá bỏ Điều 4. Về hình thức đề nghị của chúng tôi và yêu cầu của Hạ Viện Mỹ là giống nhau. Nhưng về bản chất và động cơ là hoàn toàn khác nhau. Hạ viện Mỹ yêu cầu như thế là can thiệp vào nội bộ của nước ta với ý đồ nhằm xoá bỏ sự lãnh đạo của Đảng ta; còn đề nghị của chúng tôi là nhằm giữ vững sự lãnh đạo đó. Chỉ cần nhớ lại rằng cũng chính do tình hình chính trị cấp thiết mà năm 46 Bác Hồ phải tuyên bố giải tán Đảng Cộng Sản Đông Dương. Chẳng phải vì thế mà mất sự lãnh đạo của Đảng. Ngược lại càng tạo thuận lợi cho sự lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Pháp trong 5 năm đầu. Cũng chính vì tình hình chính trị cấp thiết mà Stalin phải tuyên bố giải tán Cục Thông tin quốc tế. Cũng chẳng phải vì thế mà mất đi sự lãnh đạo thống nhất đối với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.
Căn cứ vào kinh nghiệm lịch sử cũng như tình hình toàn cầu hoá hiện nay, một lần nữa chúng tôi vẫn đề nghị rằng bỏ Điều 4 trong Hiến pháp hiện nay vẫn tốt hơn là giữ lại vì nó tạo thuận lợi cho tình hình đối ngoaị và đối nội. Sự lãnh đạo của Đảng không hề mất đi mà chỉ mất đi chỗ dựa pháp lý của bọn “nội xâm” và những thế lực chống Cộng quốc tế. Chúng tôi nghĩ rằng đây chỉ là vấn đề sách lược, nhưng sách lược này lại ảnh hưởng đến toàn bộ chiến lược phát triển của đất nước chúng ta trong thời kỳ hội nhập với thế giới. Do đó ta nên thảo luận nghiêm chỉnh và nếu cần, nên tổ chức trưng cầu ý kiến trong toàn Đảng và toàn Dân.
Xin nói thêm điều này: về đối nội bao giờ cũng phải trung thực với Nhân dân vì không có sự dối trá nào qua nổi mắt Nhân dân. Nhưng đối ngoại thì phải luôn luôn biết “vờ vịt”. Các lực lượng đối phương, đối tác của chúng ta nhiều khi biết thừa là ta “vờ vịt” nhưng vì thể diện hoặc do lẽ này lẽ khác, họ vẫn phải vui vẻ chấp nhận. Sách lược “vờ vịt” đầy khôn ngoan sắc sảo của các triều đại phong kiến trước đây đối với “thiên triều” phong kiến phương Bắc là những bài học kinh nghiệm quý báu vẫn còn nguyên vẹn tính thời sự.
6. DÂN CHỦ: NHU CẦU HÀNG ĐẦU CỦA DÂN TỘC.
Lại nhớ hôm toạ đàm với Hội đòng LLTƯ, Gs Phạm Minh Hạc thân ái phê bình chúng tôi:
“Các đồng chí biểu dương đồng chí Lê Khả Phiêu phất cao ngọn cờ dân chủ hoá đất nước, lại phê bình đồng chí Đỗ Mười không quan tâm đến các vấn đề dân chủ, như thế chứng tỏ các đồng chí thiếu thông tin. Thực ra đồng chí Đỗ Mười cũng rất quan tâm đến vấn đề này.”
Chúng tôi trả lời rằng chúng tôi biết khá rõ về đồng chí Đỗ Mười. Những thành tích hoạt động của đồng chí Đỗ Mười từ hồi đầu khởi nghĩa và chống Pháp ở vùng Nam Định và Liên khu III, cho đến nay nhân dân địa phương vẫn còn truyền tụng. Cuộc đời cách mạng của đồng chí đã đi vào lịch sử, chúng tôi thấy không có gì phải nói thêm. Nhưng khi đồng chí Đỗ Mười cùng với Đại hội VII rút đi từ dân chủ của Bác Hồ thì cần phải phê bình.
Đồng chí Dương Phú Hiệp lại nói:
- Các đồng chí yên trí, kì này lại đưa vào rồi: vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
- Vâng, nếu dưa từ dân chủ vào thì chúng tôi không phê bình nữa! Nhưng tại sao lại đưa dân chủ vào giữa. Phải dân chủ rồi mới nói chuyện công bằng, văn minh được chứ!”.
Rõ ràng đây không phải chỉ là vấn đề từ ngữ, mà là nội dung của cả một cuộc cách mạng, một chế độ mới trên đất nước này. Dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là phương tiện, động lực của cách mạng Việt Nam.
Thử hỏi, trong nửa thế kỉ vừa qua, nếu chúng ta thiếu ý thức dân chủ, thiếu tinh thần dân chủ, thiếu hành động dân chủ, ta có thể vận động toàn dân hoàn thành được sự nghiệp “hoà bình, thống nhất, độc lập” hay không?
Dân Việt Nam đi theo Cụ Hồ và Đảng này không phải chỉ vì tin rằng sẽ có độc lập mà còn có cả tự do nữa. Đi làm cách mạng, đi kháng chiến, người ta thấy mình được là mình, được tôn trọng, được khẳng định giá trị của một con người tự do
“Mẹ đi theo Đảng, mẹ theo Bác Hồ,
Mai sau con lớn làm người tự do”
( Nguyễn Khoa Điềm - Khúc hát ru em bé ngủ trên lưng mẹ)
Đây cũng không chỉ là vấn đề từ ngữ mà là khát vọng ngàn đời của 54 dân tộc đang sống trên đất Việt này.
Không phải ngẫu nhiên mà câu nói của Cụ Hồ lại trở thành khẩu hiệu vang vọng núi sông, lay động lòng người: “Không có gì quí hơn Độc lập Tự do”. Cũng không phải ngẫu nhiên mà người ta in trong tâm khảm mình câu nói: “Nước độc lập mà dân không được hưởng tự do, hạnh phúc thì độc lập ấy cũng chẳng có nghĩa lý gì”.
Chúng tôi có đôi chút kinh ngạc khi nghe Gs Đặng Xuân Kỳ chê chúng tôi đọc còn ít và chưa hiểu Tư tưởng Hồ Chí Minh:
“ Hai đồng chí chưa đọc cuốn “Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam” của chúng tôi nên chưa hiểu đúng Tư tưởng Hồ Chí Minh”.
Chúng tôi đã thưa với đồng chí Đặng Xuân Kỳ rằng, khi được Võ Đại tướng có nhã ý tặng cho cuốn sách “Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam”, chúng tôi đã đọc khá kỹ, không chỉ một lần. Chúng tôi không thấy các tác giả bàn về một trong những điểm cốt lõi của Tư tưởng Hồ Chí Minh là vấn đề dân chủ. Không có một chương nào bàn về tư tưởng dân chủ Hồ Chí Minh.
Vừa rồi sách tái bản ghi là có sửa chữa và bổ sung (5-2000) vẫn không thấy bổ sung chương này. Và những dòng mà chúng tôi quan tâm nhất vẫn thấy nguyên vẹn trong sách tái bản (trang 95):
Khái quát lại, Tư tưởng Hồ Chí Minh là gì?
(...)
Đó là tư tưởng cách mạng không ngừng, từ cách mạng Dân tộc dân chủ tiến lên Chủ nghĩa xã hội, nội dung cốt lõi là giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội (giai cấp), và giải phóng con người. Nói ngắn gọn hơn là độc lập dân tộc, dân chủ, chủ nghiã xã hội, hay nói gọn hơn: độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Thế là cứ nói “ngắn gọn” theo kiểu này thì mất đứt hai chữ dân chủ của Cụ Hồ.
Chúng tôi càng kinh ngạc hơn nữa khi nghiên cứu cuốn “Phát huy sức mạnh toàn dân tộc, xây dựng nước Việt Nam dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” của đồng chí Lê Khả Phiêu (NXB Chính trị Quốc gia - Hà Nội - 8/2000) thấy có những dòng sau đây:
(...) Đảng ta là đội tiên phong của giai cấp công nhân, hết lòng phục vụ nhân dân. Mục tiêu chiến đấu của Đảng là vì độc lập dân tộc, vì hạnh phúc của đồng bào; không có mục tiêu nào khác.
(Trích: “Trong quá trình đổi mới phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh” , trang 202).
Chúng tôi có trao đổi với một số bạn bè, nhiều người nói cứ nên hiểu trong mục tiêu hạnh phúc là có mục tiêu tự do rồi. Chúng tôi bảo: không được! Vì nếu cứ phải hiểu ngầm ý nhau như thế thì cái tiêu đề trên các công văn đơn từ hẳn phải phải viết gọn là:
Cộng hòà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Độc lập - Hạnh phúc
và cái khẩu hiệu lừng danh của cụ Hồ hẳn cũng phải “cập nhật” thành:
Không có gì quý hơn độc lập, hạnh phúc!
Không phải chuyện cứng nhắc hay méo mó nghề nghiệp hoặc “chẻ sợi tóc làm tư làm tám”, đã là thuật ngữ khoa học thì phải chính xác. Đặc biệt thuật ngữ chính trị càng phải chính xác, không thể đại khái, tuỳ tiện. Vì ở đây một từ, một cụm từ hay một mệnh đề biểu hiện một mục tiêu chiến lược bao hàm nội dung một giai đoạn cách mạng hoặc cả một cuộc cách mạng. Đúng thì thắng, sai thì bại.
“Trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi!” (Hồ Chí Minh).
Cứ thử rút đi một từ nào xem!
“Táo bạo, táo bạo hơn nữa! Thần tốc, thần tốc hơn nữa!” (Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp).
Cứ thử thay đi một từ nào xem!
“Nắm vững chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động (...) Đẩy mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa; xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa; xây dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền văn hoá mới, con người mới xã hội chủ nghĩa (...) xây dựng thành công Tổ quốc Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập và xã hội chủ nghĩa”.
Đó là những mệnh đề then chốt nằm trong “Đường lối chung của cách mạng xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới ở nước ta” (Trích trong Nghị quyết Đại hội IV- 1976)
Đại hội V vẫn “khẳng định tiếp tục thực hiện đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa do Đại hội IV vạch ra”. (Trích trong Nghị quyết Đại hội V – 1991)
Và Đại hội VI sở dĩ vĩ đại chính là vì đã sửa lại đường lối sai lầm của Đại hội IV và Đại hôI V để mở ra một thời kỳ phát triển của đất nước.
Nói một cách không quá đáng rằng tất cả những ai đã bàn về tư tưởng Hồ Chí Minh mà không bàn thấu đáo về tư tưởng dân chủ Hồ Chí Minh, có thể coi như chưa bàn về Tư tưởng Hồ Chí Minh. Vì tư tưởng dân chủ là một nét đặc trưng cơ bản khu biệt tư tưởng Hồ Chí Minh với những tư tưởng trước Hồ Chí Minh. Quá trình lịch sử 2000 năm trước Hồ Chí Minh, tư tưởng độc lập dân tộc giữ địa vị chủ đạo và thống soái. Phan Chu Trinh và một số nhà yêu nước khác có đề cập đến vấn đề dân chủ nhưng chưa thành một hệ thống lý luận, thực thi còn ít và chưa đạt hiệu quả.
Với Hồ Chí Minh, tư tưởng dân chủ của Người đã thành một hệ thống được thực tiễn kiểm nghiệm và đạt những thành quả rực rỡ chưa từng thấy trong lịch sử dân tộc: Đó là bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1945, bản Hiến pháp năm 1946, 30 năm chống thực dân Pháp và đánh đuổi đế quốc Mỹ và nhất là bản Di chúc thiêng liêng của Người để lại cho chúng ta. Hay nói khác đi tất cả những gì mà Hồ Chí Minh đã suy nghĩ và hành động suốt đời mình để dẫn dắt toàn thể Dân tộc bước sang một kỷ nguyên mới, đánh dấu bằng việc thành lập Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên trong lịch sử, đó là kỷ nguyên Việt Nam độc lập và dân chủ.
Không một lực lượng nào có quyền ngăn cản chúng ta đi lên chủ nghĩa xã hội, thực thi chủ nghĩa xã hội. Nhưng trong Đối thoại năm 2000, chúng tôi đã khẳng định đó không phải là chủ nghĩa xã hội lý thuyết của Mác, càng không phải chủ nghĩa xã hội Stalin mà chính là chủ nghĩa xã hội Hồ Chí Minh - chủ nghĩa xã hội mang đặc sắc Việt Nam.
Một lần nữa chúng tôi nhấn mạnh: hoàn thành chủ nghĩa xã hội Hồ Chí Minh chính là tạo điều kiện và tiền đề để tiếp cận chủ nghĩa xã hội Các Mác. Theo Mác, con đường lên chủ nghĩa cộng sản là con đường tất yếu của nhân loại mà giai đoạn đầu của nó là chủ nghĩa xã hội. Vậy nó đã là tất yếu thì cần gì phải hò hét nhiều! Ta cứ làm xong chủ nghĩa xã hội Hồ Chí Minh rồi ta tổ chức trưng cầu dân ý về bước đường đi tiếp. Chắc chắn khi toàn thể nhân dân hiểu được rằng chủ nghĩa xã hội Các Mác là giai đoạn phát triển kế tiếp cao hơn chủ nghĩa xã hội Hồ Chí Minh, nghĩa là dân chủ nhiều hơn, tự do nhiều hơn, giàu mạnh nhiều hơn, công bằng nhiều hơn, sung sướng nhiều hơn, hạnh phúc nhiều hơn thì có ai lại chối bỏ, trừ những vị quá ngu xuẩn hoặc mất trí.
Nhiều bạn đã thân ái phê bình chúng tôi là hay đi lan man. Quả có thế. Tản mạn, lan man và cả trùng điệp là một nhược điểm không thể ngày một ngày hai mà khắc phục ngay được khi cứ phải bàn đi bàn lại một vấn đề quá trọng đại của dân tộc và thời đại: vấn đề dân chủ. Biết là quá tải, vượt tải mà vẫn cố sức làm, không tính đến thành bại, chẳng kể đến mất còn, chỉ mong sao noi theo được chút nào tấm gương sáng của cụ Nguyễn Trường Tộ để tránh được cái tiếng bất nhân bất nghĩa (biết mà không nói là bất nhân, nói mà không nói hết là bất nghĩa); đặng có thể yên tâm nhắm mắt khi từ giã cõi đời này.
Lịch sử nước nhà, xét toàn cục là lịch sử oanh liệt cứu nước chống ngoại xâm. Cả một dân tộc anh hùng như thế, trí tuệ như thế mà cứ thắng giặc xong lại loay hoay trở về với con trâu và cái cày; ngay cả thời kỳ đánh thắng Điện Biên Phủ xong, ta quyết tâm đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội. Thực hiện công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa thì vẫn cứ là cái cày và con trâu. Hợp tác xã nào thiếu trâu đen mà lại sợ “trâu đỏ” (trâu đen ăn cỏ, trâu đỏ ăn gà) thì đành ca bài “Kéo bừa thay trâu” hoặc dàn hàng ngang mà cuốc tập thể. Vì thế nên lại phát huy cái trò chơi chữ châm biếm: “công nghiệp hoá toàn cuốc” (toàn quốc). Gần đây nghị quyết của mấy Đại hội Đảng ta liên tục chủ trương lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu. Thế là mấy chục thế kỷ qua đi, Việt Nam ta vẫn cứ phải “dĩ nông vi bản”.
Do quan hệ sản xuất phong kiến và sau này là những chính sách cai trị của chủ nghĩa thực dân cũ cũng như chủ nghĩa thực dân mới kìm hãm, nền nông nghiệp nước ta chưa bao giờ được cơ giới hoá, chưa bao giờ thành đại nông, chỉ là tiểu nông lạc hậu, quanh đi quẩn lại, manh mún vẫn hoàn manh mún. Trong một môi trường kinh tế như thế, người ta có tư duy một cách manh mún tiểu nông cũng không có gì lạ: “Cơm ai nấy ăn, việc ai nấy làm”, “đèn nhà ai nhà ấy rạng”, “mũ ni che tai chuyện ai nấy biết”, . . . đó là những nếp nghĩ, nếp sống đã kéo dài qua nhiều đời, dường như trở thành máu thịt trong một xã hội tự cấp tự túc chủ yếu sống bằng kinh nghiệm.
Cho đến năm cuối thế kỷ XX, nếp tư duy này vẫn hằn sâu và tác động vào đời sống văn hoá - xã hội và để lại các dấu ấn rõ nét trên cả các Dự thảo văn kiện Đại hội IX. Văn kiện các Đại hội trước như thế nào, giờ lại cứ ang áng chép lại, có sửa sang đôi chút gọi là có bổ sung cái mới. Vì thế nên mới có chuyện: vấn đề độc lập dân tộc giải quyết xong từ 25 năm rồi, nay lại vẫn “kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc”.
Làm kinh tế xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc ngót 20 năm đã thấy là không thích hợp làm tiếp 10 năm nữa trong cả nước lại thấy càng không thích hợp, lâm vào tình trạng khốn đốn, khủng hoảng, trì trệ. Đại hội VI đã khẳng định là sai lầm, phải sửa sai, phải đổi mới. Nhưng rồi các văn kiện Đại hội VII, Đại hội VIII mà nay là văn kiện Đại hội IX vẫn không dám bỏ mấy chữ xã hội chủ nghĩa, cũng chẳng xác định cho chính xác đó là chủ nghĩa xã hội nào. Biết rõ Trung Quốc mở cửa trước mình hàng chục năm, kinh tế phát triển rầm rộ hơn hẳn mình mà vẫn chưa dám đổi tên nước, mình đổi tên nước như thế là vội vã, cũng chẳng dám sửa. Tư duy “pháp tiên vương” tái sinh chính là thế đó. Nhưng khốn nỗi giữ lại tên nước mình thì lại tự mình mâu thuẫn với mình. Đã là nước xã hội chủ nghĩa rồi mà vẫn nêu định hướng xã hội chủ nghĩa thì chẳng hoá ra giậm chân tại chỗ hay sao? Mạnh dạn cất bước đi tới thì thấy tiến bộ phát triển. Vừa mừng rỡ nhưng rồi lại vừa lo sợ, chỉ hãi chệch hướng. Nếu quả thật mình là con tàu xã hội chủ nghĩa, quyền cầm lái ở trong tay mình thì cứ việc lái tuốt lên chủ nghĩa cộng sản chứ còn thần hồn nát thần tính, lo sợ cái nỗi gì?
Còn nếu thấy không phải như thế thì tổ chức thảo luận cho đàng hoàng, bắt buộc báo chí phải đăng những ý kiến khác nhau, trái nhau, cứ tranh luận rồi để cho công luận phán xét định giá. Cớ sao chỉ đăng bài của những người này mà không đăng bài của những người khác? Không đăng bài của người ta cũng là cách bịt mồm người ta lại và như thế là vi phạm Hiến pháp và Luật pháp (chúng tôi sẽ bàn sau về những ý kiến không đúng của các đ/c Hà Đăng, Vũ Ngọc Ngoạn... đã đăng trên Tạp chí Cộng sản và báo Nhân Dân những số gần đây).
Trở lại vấn đề dân chủ. Tại sao có thể nói đó là nhu cầu của Dân tộc và Thời đại?
Hãy tạm gác ra ngoài cái món hàng “dân chủ, nhân quyền” mà các nước phương Tây thường rêu rao rồi dùng nó để gây sức ép với Việt Nam ta và nhiều nước khác.
Vấn đề dân chủ mà chúng tôi bàn ở đây cũng như ở hai văn bản trước (Chỉnh đốn để tồn tại và phát triển và Đối thoại năm 2000) là dân chủ Hồ Chí Minh - dân chủ Việt Nam - chứ không thể lẫn lộn với bất cứ thứ dân chủ nào khác.
Ai muốn tranh luận, xin kính mời! Miễn mọi sự xuyên tạc hoặc “gắp lửa bỏ tay người”.
Như chúng tôi đã từng nói và mọi người cũng thấy rõ, hàng nghìn năm qua ông bà ta chỉ mới giải quyết được vấn đề ĐỘC LẬP DÂN TỘC, chưa hề giải quyết được vấn đề DÂN CHỦ. Cái gọi là “dân chủ thời Trần” khá là tốt đẹp nhưng chưa bao giờ được trở thành một định chế, một thể chế chính trị hẳn hoi, chế độ chính trị thì càng không. Có giặc thì triệu tập Hội Nghị Diên Hồng, hết giặc thì thôi. Chẳng bao giờ có Diên Hồng về kinh tế, hay về văn hoá xã hội.
Cái mới mà Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản mang lại cho Dân Tộc không phải là vấn đề thắng giặc ngoại xâm giành lại độc lập mà chính là chế độ dân chủ: Việt Nam dân chủ cộng hoà. Cái Mới này đáp ứng được nhu cầu của dân tộc và vì đã thực thi được một phần cái Mới này nên Dân ta mới dốc hết mọi của cải và trí tuệ, dốc hết cả sinh mạng mình và con cháu mình để bảo vệ bằng được Nhà nước dân chủ cộng hoà của mình, do đó mà lập nên những chiến công thần kỳ chưa từng có. Đó là thành tích của chế độ dân chủ chứ không phải của chế độ xã hội chủ nghĩa.
Lâu nay ta cứ nói đó là sự ưu việt của chế độ XHCN là nói nhầm, nói oan cho cụm từ này và làm xấu mặt chủ nghĩa Mác - Lênin.
- Kinh tế ở trình độ nào mà cứ nói là xây dựng CNXH?
- Xây dựng thành công CNXH ở miền Bắc hồi nào mà sao dám vội đưa cả nước lên CNXH?
- Xây dựng xong CNXH hồi nào mà dám đổi tên nước do cụ Hồ đặt: Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà thành Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam?
- Tài sản XHCN là thế nào mà lại ghi vào trong Luật hẳn một tội danh: tội xâm phạm, chiếm đoạt tài sản XHCN...?
- Con người dân chủ mới đã xây dựng xong chưa mà nói đến phải đào tạo con người XHCN?
Rồi nào là công nghiệp XHCN, nông nghiệp XHCN, văn hóa XHCN, tư tưởng XHCN, giáo dục XHCN, thương mại XHCN, đạo đức XHCN, cứ làm như càng nói thật nhiều XHCN thì CNXH càng chóng trở thành hiện thực.
Sau hội chứng XHCN thì lại đến hội chứng định hướng XHCN. Rồi cũng phải để thời giờ điều tra, thống kê, xem hàng ngày trên báo chí và các phương tiện truyền thông khác và ngay trong văn kiện Đại hội IX đã lặp đi lặp lại bao nhiêu lần cụm từ định hướng XHCN?
Tần số chắc không nhỏ đâu. Đến nỗi ngay giáo sư Trần Văn Giầu - một người từng tốt nghiệp Đại học Phương Đông ở thập kỷ 30, từng nghiên cứu bạc đầu về chủ nghĩa Mác Lênin, thế mà đến năm cuối thập kỷ 90, lại đúng vào năm ăn mừng thượng thọ 90 tuổi cũng phải suốt ruột, chất vấn Ban soạn thảo văn kiện rằng: thế nào là XHCN? Và thế nào là định hướng XHCN? Cụ Sáu Giầu mà còn phải thắc mắc như thế nói chi đến lũ hậu sinh thất học về chủ nghĩa Mác hoặc chỉ lơ mơ ăn theo, nói leo về chủ nghĩa Mác. Tất nhiên về tài nghệ sao chép, trích dẫn kinh điển Mác Lênin thì đáng được ghi vào kỷ lục Guiness từ lâu rồi.
Cho nên, thật buồn cười mà cũng thật đau lòng khi thấy dân gian châm biếm: chủ nghĩa xã hội là cả ngày xếp hàng (CNXH) nếu không thì cũng xếp hàng cả ngày (XHCN). Một học thuyết hay như thế, một chế độ đáng mơ ước như thế mà ta nỡ làm sai làm hỏng để đến nỗi mọi chuyện đều đi “từ nghiêm túc đến buồn cười”? (tên một chuyên mục trên Họa báo Liên Xô trước đây).
Buồn cười nhất là khi đọc bài “Cái mới trong dự thảo báo cáo Đại hội IX” của tác giả Hà Đăng vừa in trên Tạp chí Cộng sản số 18 tháng 9-2000 và trên báo Nhân Dân ngày 12/10/2000.
Tác giả Hà Đăng nêu lên 15 điểm mới thì có tới 8 điểm cũ, hoàn toàn cũ và 6 điểm cũ có tân trang chút đỉnh. Duy có một điểm mới, thực sự là mới, nhưng lại mới từ năm 45, rồi do sự nhầm lẫn quá lâu ngày - ít nhất cũng từ Đại hội IV năm 1976 đến nay nên khi lục ra xem lại vẫn thấy còn mới tinh khôi. Đó là vấn đề DÂN CHỦ.
Mạn phép chạy theo thú trích dẫn và xin bạn đọc vui lòng đọc nguyên văn điểm mới thứ tư này do tác giả Hà Đăng phát hiện:
(...) “ Bốn: mục tiêu dân chủ:
Cho đến Đại hội VIII, mục tiêu lý tưởng của chúng ta là chủ nghĩa xã hội đã được trình bày khái quát bằng công thức đi vào lòng dân: “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh” Nay dự thảo thêm hai từ “dân chủ”, thành ra “Dân giàu, nước manh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Trước đây cứ nghĩ rằng bản chất của chủ nghĩa xã hội là dân chủ, cho nên dù có nêu hay không nêu hai từ đó, chế độ ta vẫn là chế độ dân chủ. Song thực tiễn cho thấy, cái bản chất dân chủ ấy không chỉ phải được nói lên mà còn cần nhấn mạnh thêm và nhất là đưa vào cuộc sống hằng ngày. Dân chủ, hay quyền làm chủ của nhân dân, vừa là bản chất của chế độ, vừa là mục tiêu phấn đấu, vừa là một động lực phát triển xã hội. Việc bổ sung hai từ dân chủ làm cho công thức 12 chữ này trở nên trọn vẹn hơn, sống động hơn.” (Tạp chí Cộng Sản-số 18, trang 6).
Mong bạn đọc vui lòng cho phép chúng tôi lan man một chút về vấn đề này.
Đầu tiên là cái tiêu đề của điểm mới thứ tư: mục tiêu dân chủ.
Sao lại mục tiêu? Thế 55 năm qua chế độ ta là chế độ gì? Chẳng lẽ Bác Hồ của chúng ta khẳng định “nước ta là một nước dân chủ” lại là chuyện nói đùa chăng? Chẳng lẽ Tuyên ngôn độc lập 2-9 lại không phải là một tuyên ngôn về Độc lập và Dân chủ? Chẳng lẽ Hiến pháp 46 (và sau đó sửa thành Hiến pháp 59) lại chưa phải là Hiến pháp dân chủ hay sao? Chẳng lẽ 30 năm toàn dân chiến đấu, hy sinh lại không phải là để bảo vệ nhà nước dân chủ cộng hoà của mình và giành bằng được độc lập, tự do, hạnh phúc thực sự.
Chúng tôi nhắc lại vì thực sự nhớ ra rằng nhân dân ta chưa bao giờ chấp nhận cái thứ độc lập bánh vẽ mà các vị ngoại xâm đã từng trao trả cho ông cựu hoàng Bảo Đại bù nhìn và ông tổng thống Ngô Đình Diệm bán nước. (Viết đến đây chúng tôi kinh hoàng liên tưởng đến việc mấy nhà soạn Từ điển của ta lại có nhã ý đưa ông Ngô Đình Diệm và em ruột ông là cố vấn Ngô Đình Nhu vào mục từ danh nhân văn hoá(?!) Đúng là “đổi mới tư duy”). Chẳng lẽ đã kiên quyết từ chối món độc lập bánh vẽ lại vui lòng xơi món dân chủ tự do bánh vẽ hay sao? Chẳng có gì phải khó khăn khi cần nhất trí với tác giả Hà Đăng rằng “mục tiêu lý tưởng của chúng ta là CNXH” nhưng xin hỏi bạn Hà Đăng: Chủ nghĩa xã hội nào vậy? CNXH của Mác? CNXH của Lênin? hay CNXH của Hồ Chí Minh?
Sở dĩ trong tác phẩm Chỉnh đốn để tồn tại và phát triển, chúng tôi tỏ ý không tán thành quan điểm của đồng chí Cựu tổng bí thư Đỗ Mười và các Đại hội VII, Đại hội VIII biểu hiện trong công thức “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh” vì thấy công thức này đã đi chệch mục tiêu chiến lược Hồ Chí Minh. Xén đi hai chữ dân chủ thử hỏi còn gì là tư tưởng Hồ Chí Minh? Làm gì mà lũ cơ hội trong Đảng không lợi dụng để ra sức vơ vét, bóp hầu bóp cổ nhân dân, làm tổn thất nghiêm trọng uy tín của Đảng, bôi nhọ chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Hà Đăng lại còn viết rằng: “Trước đây cứ nghĩ rằng bản chất của chủ nghĩa xã hội là dân chủ nên dù có nêu hay không nêu hai từ đó, chế độ ta vẫn là chế độ dân chủ”.
Xin thưa với đồng chí Hà Đăng: dân chủ là một từ ghép chứ không phải là hai từ. Và nghĩ như đ/c là nghĩ theo sách vở, hoàn toàn không xuất phát từ thực tế Việt Nam. Chủ nghĩa xã hội của Mác với tư cách là giai đoạn đầu của phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa thì dứt khoát bản thân nó là dân chủ rồi, về mặt chính trị. Còn các lĩnh vực kinh tế, văn hoá-xã hội phải được tiếp tục hoàn thiện. Ngay về mặt chính trị mà phần dân chủ nào mới chỉ được đề ra trên giấy, chưa được thực thi thì trách nhiệm của CNXH phải tiếp tục hoàn thiện và phát triển thêm. Nhưng đó là chuyện thuộc các nước tư bản phát triển khi chuyển lên CNXH, không phảI chuyện của ta.
Đại hội IX sắp tới sẽ chỉ thực sự thành công và mang ý nghĩa lịch sử nếu mọi người tập trung trí tuệ thảo luận đường đi nước bước của tiến trình thực thi sự nghiệp dân chủ hoá đất nước, cụ thể là thực thi Hiến pháp 46 và Hiến pháp 59, những hiến pháp đã được soạn thảo theo tư tưởng Hồ Chí Minh, chứ không phảI theo Hiến pháp 80 và Hiến pháp 92, những hiến pháp được sao chép mô phỏng theo hiến pháp Liên Xô, gò bó và thủ tiêu mọi quyền tự do dân chủ bằng cụm từ “theo luật pháp quy định”.
Theo “luật pháp quy định” có nghĩa là đối với mọi quyền tự do dân chủ đã được ghi trong hiến pháp, ta lại ban hành những đạo luật có khả năng vô hiệu hoá những quyền tự do đó. Điển hình là Luật báo chí và xuất bản. Một lần nữa chúng tôi nhắc lại lời nói nổi tiếng của văn hào Voltaire (Pháp):
“Tự do ngôn luận là linh hồn của mọi thứ tự do”
Không có tự do ngôn luận nghĩa là không có tự do nào hết. Thực tế 25 năm qua đã chứng minh rằng vì thiếu tự do ngôn luận mà đất nước ta phát triển rất chậm chạp, thua kém bạn bè một cách đáng xấu hổ. Thiếu tự do ngôn luận nên những sự ức hiếp, bóc lột vẫn dai dảng tồn tại, lòng dân không yên, sức sản xuất không thể phát triển tương xứng với nội lực trí tuệ và văn hoá của dân tộc. Đất nước tiếp tục tụt hậu một cách đáng sợ.
Do đó, ngày nào còn chưa có báo chí và xuất bản ngoài quốc doanh, như đã từng có doanh nghiệp ngoài quốc doanh trên lĩnh vực kinh tế, trường học ngoài quốc doanh trên lĩnh vực giáo dục, bệnh viện ngoài quốc doanh trên lĩnh vực y tế.v.v... thì ngày ấy chúng ta còn lạc hậu một cách thảm hại. Phải có tự do báo chí, tự do lập hội và những quyền tự do khác đã được ghi trong hiến pháp do chính cụ Hồ chỉ đạo soạn thảo vào năm 46 và năm 59.
Xin phép hỏi các đồng chí Nguyễn Phú Trọng, Hà Đăng, Hồng Hà, Nguyễn Khánh, Trần Đình Nghiêm, Vũ Hữu Ngoạn- những người được tin cậy giao phó việc soạn thảo văn kiện Đại hội IX:
“Các đồng chí cho biết câu nói của Bác Hồ “Nước có độc lập mà dân không được hưởng tự do hạnh phúc thì độc lập ấy cũng chẳng có nghĩa lý gì” liệu còn có giá trị hay không? có còn là chân lý đối với cuộc sống của nhân dân ta nữa hay không?”
Nếu còn giá trị sao các đồng chí không mang tinh thần đó thể hiện trong việc soạn thảo văn kiện Đại hội IX?
Và xin thẳng thắn thách thức tất cả những ai dám cho rằng câu nói trên của Hồ Chí Minh đã trở thành vô nghĩa, không còn là chân lý của Việt Nam và thời đại nữa. Trân trọng kính mời tranh luận!
Chúng tôi tin chắc rằng: Ta sẽ chẳng thể “đi tắt đón đầu”, chẳng thể đặt chân lên chuyến tàu kinh tế tri thức của thế kỷ mới, nếu chúng ta không đồng lòng thực thi những quyền tự do dân chủ đã ghi trong Hiến pháp 46 và Hiến pháp 59 nhằm xây dựng thành công một nước Việt Nam dân chủ và giàu mạnh.
Tự do dân chủ là một vấn đề đã cũ, cũ từ 55 năm qua, nhưng thực sự vẫn còn hết sức mới mẻ với Việt Nam ta hiện nay. Chúng ta chỉ có thể vươn lên sánh ngang hàng với bạn bè quốc tế nếu chúng ta nghiêm chỉnh tuân theo lời di chúc thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Xây dựng xong một nước Việt Nam dân chủ, giàu mạnh rồi ta sẽ xây tiếp một Việt Nam xã hội chủ nghĩa, một Việt Nam cộng sản chủ nghĩa hoặc gì gì nữa . . . tất cả hoàn toàn thuộc quyền của chúng ta.
Cũng xin mạn phép thưa với những quý vị nào còn đang bi quan với tình hình hiện tại: Hãy tin vào Dân tộc, tin vào Nhân dân!
Dân tộc ta không phải là một dân tộc hèn kém; nhân dân ta không phảI là một nhân dân chịu khuất phục trước bất công, đói khổ. Nhân dân chính là lực lượng sáng tạo ra lịch sử và quyết định hướng đi của lịch sử. Từ mấy ngàn năm qua đã như vậy, hiện tại đã như vậy và mãi mãi sau này vẫn không thể khác. Nhân dân sẽ là người có tiếng nói cuối cùng quyết định vận mệnh của mình và đất nước của mình.
Chúng tôi xin phép nhắc lại không biết mệt mỏi một điều mà chúng tôi đã nhấn mạnh trong Đối thoại năm 2000:
“Có tự do dân chủ là có tất cả! Mất tự do dân chủ là mất tất cả! Vậy còn lại gì?- Chỉ còn lại một bầy nô lệ mới cho bọn tài phiệt bản xứ và tài phiệt quốc tế mà thôi!”
Cũng như độc lập dân tộc, tự do dân chủ đã được trả giá bằng xương máu của hàng chục thế hệ Việt Nam trong 117 năm đấu tranh (1858-1975). Những kẻ nào mượn danh nghĩa Đảng và Nhà nước để tước đoạt những quyền thiêng liêng này của Nhân dân thì cần phải vạch mặt chúng, bêu rõ tên tuổi chúng để cho Lịch sử và Nhân dân đời đời phỉ nhổ.
Cần nhớ rằng tự do dân chủ là thuộc quyền sở hữu của Nhân dân, không ai có quyền ban phát. Và chúng ta cũng không có quyền mở rộng hay mở hẹp gì cả!
Đại hội IX của Đảng ta phải là một Đại Hội Dân Chủ!
Thế kỷ XXI phải trở thành một Thế Kỷ Dân Chủ của Việt Nam!
Đó là bảo đảm chắc chắn cho thắng lợi của Việt Nam trong công cuộc hội nhập ở thời đại Toàn cầu hóa. Chỉ có thể đối trọng với Toàn cầu hóa bằng Toàn dân hóa tài năng và trí tuệ Việt Nam.
TRẦN KHUÊ - NG. T. THANH XUÂN
Đón xem kỳ sau:
Vai trò của Đảng và Nhà nước ta trong nền kinh tế thị trường.
(Tiếp tục thảo luận với các tác giả Hà Đăng, Nguyễn Đình Ước,
Lê HữuTầng, Lê Văn Dũng, Quang Cận, Đức Lượng . . .)
Việt Nam, ngày 25 tháng 11 năm 2000
Thư ngỏ
Kính gửi: Ngài William Jefferson Clinton, Tổng thống Hoa Kỳ.
Thưa ngài Tổng thống kính mến,
Cho đến hôm nay, hầu như vẫn còn đọng lại trong tôi những ấn tượng tươi tắn và tốt đẹp về chuyến đi của Ngài, của gia đình Ngài và các đại biểu ưu tú khác từ Hoa Kỳ đến thăm Việt Nam chúng tôi.
Năm xưa, Cố chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn nhắc nhân dân Việt Nam nhận biết hai nước Pháp và hai nước Mỹ - một nước Mỹ của Johnson và Nixon, một nước Mỹ của T. Jefferson và A. Lincoln, W. Whitman và E. Hemingway . . . Và ngay từ cuối thế kỷ trước, nhà yêu nước Bùi Viện của Việt Nam đã lặn lội sang tận Hoa Kỳ mong tìm một tình bạn và một sự giúp đỡ cho đất nước chúng tôi có thể phát triển. Sau này, Nguyễn Ái Quốc của chúng tôi cũng tiếp tục tìm hiểu Hoa Kỳ và Người cùng các đồng chí của mình đã từng cộng tác với người Hoa Kỳ trên Mặt trận đồng minh chống phát xít.
Nay, sau 25 năm cuộc chiến tranh đã qua đi, còn lại với chúng tôi, như Nguyễn Trãi từng nói, là cuộc sống yên bình và tình hòa hiếu. Chúng tôi mong tìm thấy tình bạn ở mọi dân tộc, nhất là với nhân dân Hoa Kỳ tài năng và hào hiệp, vốn yêu độc lập và tự do. Chân thành cảm ơn Chính phủ và Nhân dân Hoa Kỳ đã và đang giúp đỡ hàng triệu đồng bào Việt Nam của chúng tôi sinh sống, học tập và làm việc trên đất nước Hoa Kỳ.
Thông qua chuyến công du của Ngài và đoàn đại biểu Hoa Kỳ, chúng tôi có dịp tìm hiểu sâu sắc thêm tình cảm của nhân dân Hoa Kỳ đối với Việt Nam. Chúng tôi xúc động khi nghe phu nhân của Ngài - bà Tân thượng nghị sĩ Hillary- nhắc đến Bà Trưng, Bà Triệu, những vị nữ anh hùng đã lãnh đạo nhân dân vùng dậy chống ngoại xâm, giành độc lập - tự do ngay từ đầu thiên niên kỷ thứ nhất. Còn Ngài, với bài diễn văn giàu sức chinh phục lòng người của mình, đã nhắc đến tư tưởng nhân bản của nhà văn hoá Nguyễn Trãi và, chẳng khác gì một người Việt Nam thứ thiệt, Ngài đã lẩy Kiều một cách thành thạo, văn hoa và duyên dáng. Và Ngài lại không quên nhắc đến Hồ Xuân Hương kính yêu của chúng tôi, người nữ thi hào, bằng những áng thơ tuyệt tác của mình, đã không ngừng đấu tranh cho quyền sống và quyền hưởng hạnh phúc của giới phụ nữ .
Chắc không có gì quá đáng khi nhận xét rằng sự am hiểu và trân trọng đối với nền văn hóa Việt Nam cũng như những lời nói, ánh mắt thân thiện của Ngài và Phu nhân đã gây được thiện cảm và để lại những ấn tượng hết sức tốt đẹp trong lòng chúng tôi. Như tập quán của người Việt Nam thường nói lời tiễn khách: mong khách quý lượng thứ nếu có điều gì cư xử không phải.
Hiện nay, mặc dù còn phải liên tục chống thiên tai, nhân họa - lũ lụt và tham nhũng - và lại còn rất vất vả trong việc hàn gắn các vết thương chiến tranh, nhân dân Việt Nam vẫn lạc quan với cuộc sống. Phương Tây có câu: “Khi ta chưa có cái ta yêu thì ta hãy yêu cái ta có”, thành ngữ Việt Nam cũng nói: “Có hoa mừng hoa, có nụ mừng nụ”. Dẫu Hoa Kỳ và Việt Nam gặp nhau và thật sự hiểu nhau có phần muộn màng nhưng chẳng gì có thể cản trở tình cảm bạn bè thân thiết của chúng ta nảy nở. Riêng với Ngài Clinton và những thanh niên Mỹ khảng khái chống quân dịch năm xưa để phản đối cuộc chiến tranh ở Việt Nam, chúng tôi đã coi các vị là bạn thân của Việt Nam từ ngày ấy. Và 8 năm qua, trong hai nhiệm kỳ Tổng thống, Ngài đã làm nhiều việc mang ý nghĩa lịch sử giúp cho Việt Nam và Hoa Kỳ ngày thêm xích lại gần nhau. Những việc làm tốt đẹp ấy hẳn không bao giờ phai mờ trong trí nhớ của nhân dân hai nước chúng ta.
Tôi hy vọng những người kế tục sự nghiệp của Ngài và chính phủ Ngài, cũng như những nhà khoa học và những thương gia . . . sẽ không ngừng góp phần phát triển tình hữu nghị giữa nhân dân hai nước. Tôi tin tưởng rằng, với tinh thần tự lực cánh sinh, với sức mạnh trí tuệ và văn hóa của mình, lại nhận thêm được sự giúp đỡ khảng khái và hào hiệp của chính phủ và nhân dân các nước trên thế giới, nhất là của chính phủ và nhân dân Hoa Kỳ, sau khi đã giành được “hoà bình, độc lập và thống nhất”, chắc chắn nhân dân Việt Nam chúng tôi sẽ xây dựng thành công một nước Việt Nam dân chủ và giàu mạnh, đúng như di huấn của lãnh tụ Hồ Chí Minh và khát vọng ngàn đời của nhân dân chúng tôi.
Với tư cách một công dân Việt Nam, tôi xin gửi đến Ngài và nhân dân Hoa Kỳ lòng quý trọng và niềm hy vọng.
Kính chúc Ngài cùng quý quyến an khang và thịnh vượng.
Kính chúc tình hữu nghị giữa nhân dân Việt nam và nhân dân Hoa Kỳ ngày càng phát triển và bền vững.
Kính
Địa chỉ:
Trần Khuê
296-Nguyễn Trãi-Quận 5
TP Hồ Chí Minh
ĐT: (848) 8.363.825
E-mail: trankhue@hcm.fpt.vn
Cuối thế kỷ XIX, Việt Nam ta đã bỏ lỡ mất chuyến tàu văn minh công nghiệp. Trung Quốc cũng lỡ, hầu như cả phương Đông bị lỡ, chỉ trừ có Nhật Bản. Minh Trị Thiên Hoàng cùng với tầng lớp trí thức và tầng lớp thương nhân Nhật đã đưa Nhật Bản kịp nhẩy lên chuyến tầu thế kỷ. Và Nhật Bản phát triển như thế nào ta đã thấy, cả mặt hay và mặt dở. Chẳng việc gì phải chúi vào mặt dở rồi quên việc học cái hay của thiên hạ. Họ cũng chẳng có phát minh sáng chế gì nhiều, cứ chăm chăm đi bắt chước cái hay của thiên hạ mà sau Thế chiến II trở thành siêu cường về kinh tế. Thua trận đến bại hoại gân cốt, thế mà lại vươn lên thành một siêu cường kinh tế, dám ngang ngửa với siêu cường Mỹ. Cùng là chịu ảnh hưởng văn hoá nho giáo Trung Hoa nhưng Nhật Bản thì biết tụng Vương Dương Minh “tri hành hợp nhất”. Trí thức Nhật Bản có hẳn một trường phái gọi là Vương học, hễ gặp nhau thì đặt tượng Vương Dương Minh trước mặt một cách trang trọng, chắp tay vái rồi mới cùng nhau bàn chuyện quốc sự. Sau Vương học có Lan học, Fukuzawa học . . . các trường phái tán thành nhau, phản đối nhau trong một phong trào sôi nổi về học thuật để tìm ra một hướng đi cho dân tộc và đất nước Nhật Bản.
Trong khi đó vua Tự Đức và triều đình Huế nhà ta vẫn rung đùi xướng họa thơ đường luật, khuyến khích làm văn bát cổ, tụng rất kỹ những điều thi vân, tử viết, chỉ lo làm chệch Khổng Mạnh, Tống nho, Thanh nho; đưa Đổng Trọng Thư và Nhị Trình lên hàng chuẩn mực; chê bọn Tây dương là man di mọi rợ, trước sau vẫn giữ đạo thần phục Thanh triều, bỏ ngoài tai những lời trung thực, những kế sách cải cách đầy tâm huyết của những Bùi Viện, Đặng Huy Trứ, Nguyễn Lộ Trạch, Nguyễn Trường Tộ. Do đó triều Nguyễn đã đẩy đất nước vào con đường tụt hậu, nô lệ. Đến nỗi phải mất 117 năm bi tráng (1858-1975) với bao lớp người vùng lên ngã xuống mới giành lại được cơ đồ của ông bà tổ tiên nghìn xưa để lại.
Đến chuyến tầu văn minh trí tuệ của thế kỷ XXI này mà lại còn dùng dằng để lỡ thì hẳn giới lãnh đạo mang tội với đất nước ít nhất cũng ngang bằng triều Nguyễn.
VIỆT NAM TA ĐANG Ở ĐÂU? VÀ SẼ ĐI VỀ ĐÂU?
Những câu hỏi có vẻ thừa nhưng vẫn không thể không đặt ra. Chẳng phải thế sao, từ vài ba ngàn năm nay nhân loại cứ vừa đi vừa băn khoăn tự hỏi: Ta là ai? Ta từ đâu tới? và Ta sẽ đi về đâu?
Không hề là triết gia hay các đấng bậc hiền triết, luôn luôn đau đời, đau đạo; cũng chẳng hề học thói Sào Phủ, nghe đến việc trị nước lại vội vã đi rửa tai; chúng tôi - cũng như các bạn - may mắn được sống trong buổi giao thời của thế kỷ và thiên niên kỷ, với tư cách những người chủ đất nước có ít nhiều hiểu biết, sẵn sàng đối thoại, bàn bạc với những ai có ý thức trách nhiệm về những việc lớn của Dân tộc và Đất nước.
Mấy chục năm liền, hồi còn sinh thời, Cụ Hồ không ngừng nhắc mọi người chớ quên rằng: nước ta là một nước sản xuất nhỏ. Ấy thế mà rất nhiều người cứ quên cái đặc điểm rất to này.
Đến nay, vào cuối năm 2000, còn có ai không hiểu rằng nước ta vẫn là một nước nông nghiệp nghèo nàn và lạc hậu, xếp hàng thứ 8/13 nước nghèo nhất hành tinh. Một thời quanh ta là một phe XHCN hùng mạnh, đứng đầu là anh cả Liên Xô siêu cường, kế bên là anh hai Trung Quốc vĩ đại. Ta được tham gia KOMECOM và, theo đúng lời Lênin dạy ta yên trí rằng vì đã có các nước anh em trong phe giúp đỡ, ta có thể tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không cần qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Đại hội IV và Đại hội V của Đảng ta thời đồng chí Lê Duẩn và đồng chí Lê Đức Thọ, mọi chuyện của đất nước đều được bàn thảo theo tinh thần này. Và đất nước rơi vào tình trạng trì trệ khủng hoảng như thế nào ta đều biết cả, miễn nhắc lại. Nhiều người nói không thể qui riêng trách nhiệm cho anh Ba vì chính Bác Hồ cũng đã lựa chọn con đường này.
Nhầm to! Họ không hiểu hết cái thâm ý của Cụ Hồ. Vào những năm cuối thập kỷ 50, thấy các đồng chí anh Cả, anh Hai lớn tiếng đả kích nhau là “xét lại”, là “giáo điều”, lo ảnh hưởng xấu đến công cuộc chống Mỹ Diệm, thống nhất Tổ quốc, Cụ đã hạ lệnh cắt tiếp vận hai đài Mạc Tư Khoa và Bắc Kinh. Sau hai hội nghị quốc tế 81 Đảng và 12 Đảng ở Mạc Tư Khoa và sự kiện hai ông anh dàn quân bắn nhau ở biên giới, cộng với các sự biến Ba lan và Hunggari, thế là Cụ hiểu cả. Toàn phe rầm rập xã hội chủ nghĩa thì mình cũng xã hội chủ nghĩa. Chẳng kể “giáo điều” hay “xét lại”, thế giới tư bản hay thế giới thứ ba, cứ ủng hộ Việt Nam chống Mỹ thì đều là bạn thiết của Việt Nam. Không phải vì kính yêu Cụ mà cố thanh minh, biện bác để tránh hoàn toàn mọi trách nhiệm cho Cụ.
Khi đất nước bị xâm lăng, Dân tộc bị nô lệ, Cụ phải rời quê hương để tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc. Khi đọc luận cương của Lênin, Cụ rất mừng và nhận thức ra rằng muốn giải phóng dân tộc thì phải đi theo con đường cách mạng vô sản.
Đây là một điểm nhiều người dễ nhận thức nhầm lẫn. Cụ Hồ có làm cách mạng vô sản cũng là nhằm mục đích giải phóng dân tộc. Như vậy con đường cách mạng vô sản hay ta thường gọi là cách mạng xã hội chủ nghĩa là phương tiện hay cứu cánh?
Xuất phát từ thực tiễn Việt Nam và mạch chính của tư tưởng Hồ Chí Minh thì đối với Cụ lúc bấy giờ con đường cách mạng vô sản hay cách mạng xã hội chủ nghĩa vẫn chỉ là phương tiện để Cụ và toàn dân đạt tới mục đích giải phóng dân tộc. Với cụ Hồ, Cụ phải làm tất cả những gì cần làm, sử dụng tất cả phương tiện nào có trong tay, miễn là đạt được mục đích độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc. Chẳng lẽ khi đã hoàn thành được sự nghiệp độc lập thống nhất rồi tất yếu phải xây dựng một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa mà Cụ lại viết nhầm và dặn nhầm con cháu phải xây dựng một nước Việt Nam hoà bình độc lập thống nhất, dân chủ và giàu mạnh?
Trước 30/4/1975, ta phải giương cao hai ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là đúng, hợp với tình thế. Từ 1960 đến 1975, miền Bắc ta đã làm cách mạng xã hội chủ nghĩa rồi, nghĩa là ta đã công hữu hoá, tập thể hoá, xoá sổ quyền tư hữu đúng như Tuyên ngôn của Đảng cộng sản của Mác và Ănghen. Và tình hình kinh tế, xã hội xấu đi như thế nào thì Đại hội VI của ta đã thừa nhận sai lầm và quyết định đường lối ĐỔI MỚI.
ĐỔI MỚI của Việt Nam ta thực chất là dân chủ hoá đất nước theo tư tưởng Hồ Chí Minh để tránh sự trì trệ, sụp đổ và tạo ra một giai đoạn phát triển mới cho đất nước.
Thực tiễn 15 năm đổi mới vừa qua đã xác nhận có dân chủ thì có phát triển. Lĩnh vực nào dân chủ nhiều thì phát triển nhanh, dân chủ ít thì phát triển chậm và mất dân chủ thì trì trệ, suy thoái.
Cho nên nói độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội cũng không sai nhưng lại dễ gây ra những sự ngộ nhận. Nhiều cán bộ, đảng viên cứ lo đổi mới mạnh mẽ thì mất chủ nghĩa xã hội. Họ đâu có hiểu rằng chính đổi mới một cách chập chờn sẽ làm cho lực lượng sản xuất phát triển chậm chạp, vô tình đã triệt tiêu những động lực khiến ta có thể tiến nhanh lên chủ nghĩa xã hội. Họ tưởng cứ cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước chậm chạp, đánh thuế nặng vào các trang trại, các doanh nghiệp tư nhân, tiếp tục bù lỗ cho các xí nghiệp quốc doanh, tiếp tục độc quyền về báo chí và xuất bản . . . là giữ vững được chủ nghĩa xã hội.
Thực tế họ chỉ làm cho nhân dân thêm chán ghét chủ nghĩa xã hội. Mà nhân dân chán ghét chủ nghĩa xã hội là đúng! Chủ nghĩa xã hội gì mà lạ thế! Hợp tác xã thì có làm mà không có hưởng, phương án nổi phương án chìm, chỉ béo các vị quản trị tham ô. Xí nghiệp quốc doanh không sản xuất đủ hàng tiêu dùng, tư doanh sản xuất thì lại “kiểm tra hành chính”, tịch thu gia sản rồi cho đi tù. Mậu dịch thì quầy hàng rỗng không, hỏi hàng gì cũng phải có tiêu chuẩn phân phối, cung cấp. Chế độ tem phiếu một thời đã sinh ra bao bất công, tệ nạn:
Tôn Đản là chợ vua quan
Nhà Thờ là chợ trung gian nịnh thần
Chợ giời là chợ thương nhân
Vỉa hè là chợ nhân dân anh hùng.
(Ca dao mới)
Văn nghệ thì đua nhau minh họa chính sách. Báo chí thì tuyên truyền “ngô bổ hơn gạo”, hướng dẫn bà con nông dân trồng khoai ụ, nuôi lợn bằng phân trâu . . . Phát biểu phê bình thủ trưởng thì bị chụp ngay cái mũ chống lãnh đạo.. Còn đã bị vu là “xét lại chống Đảng” thì đi tù, tù vô thời hạn, không cần xét xử.
Kể mãi cũng chẳng hết nhưng phải thấy rằng đó là những trò làm sai rồi đổ tiếng xấu cho chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội mà Mác dự báo đâu có thấp kém, tồi tệ và dối trá như thế.
Bản thân chủ nghĩa xã hội Stalin đã là sai lầm và không thích hợp với Liên Xô. Khi được vận dụng vào một nước nông nghiệp lạc hậu như nước ta, nó càng không thích hợp và sai lầm thảm hại hơn. Do đó, trong tập “Đối thoại năm 2000”, chúng tôi khẳng định chủ nghĩa xã hội lý thuyết của Mác là tốt đẹp, đáng mong ước và nó chỉ có thể xẩy ra ở những nước thuộc trình độ G7. Còn ta hiện nay thì phải thực thi chủ nghĩa xã hội Hồ Chí Minh. Chủ nghĩa xã hội Hồ Chí Minh không hề đối lập mà nó là một giai đoạn tất yếu phải trải qua trước khi tiến đến chủ nghĩa xã hội Các Mác.
Tóm lại, Việt Nam ta vẫn đang là dân chủ cộng hoà chứ chưa phải cộng hoà xã hội chủ nghĩa. Ta vẫn đang tiếp tục làm cách mạng dân tộc-dân chủ chứ chưa phải làm cách mạng xã hội chủ nghĩa. Ta phải nắm vững chuyên chính dân chủ nhân dân chứ không phải chuyên chính vô sản. Trong thực tế ta cũng chưa hề có giai cấp vô sản - một giai cấp công nhân đại công nghiệp đúng như khái niệm trong lý luận Mácxit. Ta thấy chủ nghĩa Mác-Lênin có nhiều cái hay, ta cứ học, cứ theo nhưng không được phép quên rằng: Tư tưởng Hồ Chí Minh tức là tư tưởng Việt Nam ở thế kỷ XX này mới đúng là nền tảng để chúng ta xây dựng, chúng ta suy nghĩ và hành động. Hơn nửa thế kỷ vừa qua xuất phát từ Hồ Chí Minh, theo Hồ Chí Minh và phải đến với Hồ Chí Minh. Như thế mới đúng là Việt Nam, mới đúng là:
“Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta!”.
Chúng tôi tán thành ý kiến của giáo sư Trần Văn Giàu là cần phải giải thích rõ thế nào là chủ nghĩa xã hội và thế nào là định hướng XHCN?
Và thế nào là kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa? Đây là một thuật ngữ mới được đặt ra từ sau Đại hội VI, nó không có tính chất khoa học. Một vài hội thảo đã thảo luận nhưng không có nhà nghiên cứu nào trình bầy có sức thuyết phục về vấn đề này, cũng không đi đến một kết luận nào rõ ràng dứt khoát mà dứt khoát và thuyết phục sao được khi bản thân thuật ngữ đó chứa đựng sự xung khắc như nước với lửa. Lâu nay các nhà lý luận của ta không dám dùng cơ chế thị trường xã hội chủ nghĩa nữa chính là vì lẽ này. Vì cơ chế thị trường là cơ chế thị trường chứ không thể dính thêm cái đuôi tư bản chủ nghĩa hay xã hội chủ nghĩa. Nói một cách nôm na, đơn giản: thị trường có nghĩa là tự do mua bán, thị trường vận động theo những qui luật của nó (qui luật giá trị, qui luật cung cầu, qui luật cạnh tranh..v...v..) không thể can thiệp một cách thô bạo được. Ngay giai cấp tư sản vốn ham lợi nhuận và siêu lợi nhuận, muốn can thiệp mà cũng phải dừng lại. Họ muốn huỷ bỏ tự do cạnh tranh để tạo ra độc quyền kinh doanh. Độc quyền có hại cho người tiêu thụ và toàn bộ nền kinh tế tư bản, nghĩa là hại cho cả người kinh doanh. Do đó họ phải ra những đạo luật chống độc quyền. Chính sự sửa chữa sai lầm này đã cứu chủ nghĩa tư bản thoát khỏi tình trạng giãy chết, rồi tiếp tục phát triển. Còn một số nước trong phe ta vì không biết tuân theo qui luật, không biết tự điều chỉnh nên đã rơi vào tình trạng sụp đổ, sụp đổ với nhịp độ thần tốc nghĩa là chết không kịp giãy.
Việt Nam ta vì đổi mới kịp thời nên thoát hiểm. Nhìn mặt tích cực, có cạnh tranh và phát triển thì ta mừng. Nhưng thấy mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, ta lại lo. Lo quá hoá ra dụt dè, nên ra tay can thiệp khiến cho nhiều mặt đang phát triển lại ngưng trệ. Lĩnh vực kinh doanh nào có sự độc quyền là y như người tiêu thụ kêu ca và lĩnh vực đó bị ngưng trệ. Do đó nhà nước ta mới đang lo chuyện phải soạn thảo và ban bố luật chống độc quyền. Làm như thế là hoàn toàn đúng qui luật. Tất nhiên ta phải lo tạo ra một môi trường pháp lý bảo đảm cho sự tự do cạnh tranh lành mạnh, chống sự chụp giật lừa đảo, trốn thuế, trốn sự kiểm soát của Nhà nước và người tiêu thụ. Đây đó lác đác thấy một vài bài báo tỏ ý lo ngại luật chống độc quyền sẽ ảnh hưởng đến sự chủ đạo của các doanh nghiệp nhà nước nghĩa là lo chệch hướng xã hội chủ nghĩa. Cũng chính những người suy nghĩ kiều này đã một thời lo “khoán” sẽ mất chủ nghĩa xã hội, nhưng thực tế đã chứng minh rằng “khi khoán hộ thì thấy chủ nghĩa xã hội không những không mất mà đi lên nhanh hơn” (Lê Khả Phiêu - Báo Tuổi trẻ chủ nhật số 2-1999).
Thử hỏi có tới 67% giám đốc và tổng giám đốc các doanh nghiệp nhà nước (nguồn: Bộ Tài chính) không biết đọc bản kết toán thì đáng sợ như thế nào? Vậy cứ ôm lấy các doanh nghiệp quốc doanh làm ăn kém cỏi để tiếp tục bù lỗ cho đến bao giờ? Đó là chưa kể những trường hợp lãi vẫn cứ khai lỗ. Điển hình là công ty Điện lực, bao nhiêu năm được phép phụ thu rồi lại xin phép chính phủ cho tăng giá điện mà vẫn kêu lỗ. Điều tra ra mới thấy rằng các vị lỗ giả lãi thật. Vậy tiền lãi ấy đi đâu? Rõ ràng định hướng xã hội chủ nghĩa kiểu này thì chỉ béo bở cho một số người nào đó, còn nhà nước và người tiêu thụ đều bị thiệt hại.
Còn nói cơ chế thị trường có sự quản lý và điều tiết của Nhà nước, mới nghe qua là rất hợp lý nhưng thực tế cho thấy một số rất đông vợ con các vị lãnh đạo, một mặt liên doanh, liên kết với các tư doanh trong nước và ngoài nước, mặt khác lại móc ngoặc với các cơ quan tổ chức ở Vụ này, Bộ khác để lũng đoạn thị trường và làm xáo trộn đời sống. Có chuyện nghe như bịa mà có thật: nhiều loại tân dược bị cấm sản xuất ở Pháp, công ty dược của họ phải chạy sang sản xuất ở Ý nhưng không được phép tiêu thụ ở Ý. Vậy mà Bộ Y tế của ta lại cho phép nhập các dược phẩm đó vào Việt Nam với số lượng lớn để cho dân ta có thể tiêu thụ thoải mái bắt chấp sức khỏe bị ảnh hưởng như thế nào? Nhiều thứ hàng khác cũng thế. Kinh hoàng hơn nữa là Tổng công ty xuất nhập khẩu sách báo dưới sự quản lý của Bộ Văn hoá lại độc quyền nhập khẩu luôn hàng chục công-ten-nơ sách báo phế thải, trong đó có cả những truyện tranh thiếu nhi cổ động cho tình dục và bạo lực. Cùng lắm là mấy cán bộ thừa hành ra toà, còn Bộ trưởng Văn hoá, Bộ trưởng Y tế vẫn vô can.
Giá cả tăng vô tội vạ. Thuốc thang, sách báo độc hại nhập vô tội vạ, thế mà người ta vẫn lớn tiếng chủ trương quốc doanh phải giữ vai trò chủ đạo.
Nơi cần có vai trò chủ đạo thì các vị lại không thèm chủ đạo. Giai cấp công nhân được mệnh danh là giai cấp lãnh đạo muốn dùng biện pháp đình công để tự bảo vệ quyền lợi của mình cũng rất khó khăn. Họ luôn luôn hoạnh họe công nhân rằng đình công thế này là bất hợp pháp, đình công thế kia là trái thủ tục. Họ đây là ai? Là Phòng lao động huyện, là Sở Lao động thành phố, là Thanh tra lao động, là Liên đoàn lao động, Công đoàn . . . nghĩa là toàn những thành phần thuộc bộ máy nhà nước có trách nhiệm bảo vệ quyền lợi của những người công nhân thì họ lại đứng ra cản trở cuộc đấu tranh đó. Chưa kể nhiều đảng viên được cử vào Hội đồng quản trị hoặc Ban giám đốc lại đứng hẳn về phía chủ, bảo vệ quyền lợi cho chủ, phản bội giai cấp mình.
Đây là một nếp tư duy sơ cứng đã hình thành trong 20 năm xây dựng CNXH ở miền Bắc (1954-1975). Bấy giờ mọi người đều quan niệm rằng chúng ta đang sống trong chủ nghĩa xã hội, tất cả đều là sở hữu công cộng thuộc về nhà nước và tập thể, ta chỉ cần nâng cao ý thức về quyền làm chủ tập thể là đủ. Ta lại đình công để tự ta chống lại ta hay sao? Vì thế lúc đó không có luật đình công. Qua Đại hội IV và Đại hội V(1976-1985), thấy kinh tế trì trệ và xã hội khủng hoảng trầm trọng, ta mới kinh hoàng nhận ra rằng ở một nước có một nền kinh tế tiểu nông nghèo nàn và lạc hậu như ta không thể chủ quan duy ý chí và nóng vội xây dựng kinh tế xã hội chủ nghĩa ngay được mà phải chuyển ngang sang kinh tế thị trường. Làm kinh tế thị trường nhưng ta vẫn vương vấn với tư duy kinh tế xã hội chủ nghĩa mà ta quen gọi tránh đi là “tư duy thời kỳ bao cấp” nên ở nhiều lĩnh vực ta rất lúng túng. Điển hình là ở lĩnh vực nông nghiệp. Khoán hộ đạt hiệu quả thần kỳ như thế (thoát nạn đói kinh niên và thừa gạo xuất khẩu), trang trại phát triển tốt như thế nhưng ta vội vã tạo ngay ra cái độc quyền quo-ta xuất khẩu và đè ra đánh thuế thu nhập đối với nông dân. Cũng may thực tiễn đã giúp ta điều chỉnh ngay những việc làm bất công hoặc thái quá đó. Độc quyền quo-ta xuất khẩu gạo thực chất là muốn quay lại tư duy bao cấp, đánh thuế thu nhập vào nông dân thực chất là ta muốn thực thi quyền điều tiết của nhà nước xã hôị chủ nghĩa đối với thị trường.
Nhiều người trong bộ máy nhà nước quên mất rằng nhà nước ta giữ quyền điều tiết để giúp cho kinh tế phát triển chứ không phải điều tiết để kìm hãm lực lượng sản xuất. Họ cũng không hiểu rằng cái gọi là nhà nước xã hội chủ nghĩa của chúng ta là do đổi tên vội vã và chứ thực chất nó là nhà nước dân chủ nhân dân. Ở đây sự nhầm lẫn nọ kéo theo sự nhầm lẫn kia nên sinh ra một tình trạng hết sức lúng túng, nhiều khi làm sai nhưng cắt nghĩa thế nào cũng đúng. Khi anh làm sai pháp luật của nhà nước, anh bảo cơ chế thị trường nó phải thế. Khi anh ra chỉ thị hay nghị định sai, anh lại bảo đây là thuộc phạm vi điều tiết quản lý của nhà nước XHCN. Chỉ thị sai thì được thực hiện rất nhanh, đặc biệt những chỉ thị về việc tăng giá các mặt hàng có tác dụng làm giảm sức mua. Chỉ thị đúng thì thực hiện rất trầy trật, chẳng hạn chỉ thị bỏ giấy phép con hoặc cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước. Điển hình là đánh thuế giá trị gia tăng, thu rất nhanh rất đủ khiến cho các doanh nghiệp tư nhân lao đao muốn sập tiệm cả loạt. Nghe họ kêu oai oái. Thủ tướng ra lệnh hoàn trả nhưng các chi cục thuế lại nhẩn nha chờ đủ thứ văn bản, chỉ thị hướng dẫn. Thế là các doanh nghiệp cứ việc đi mòn gót và dài cổ ra mà đợi. Vì sao có thể xảy ra những tình hình như thế ở trong một nhà nước đã tương đối có đầy đủ pháp luật như nhà nước chúng ta? Ở đây không thể chỉ cắt nghĩa bằng tác phong quan liêu, thiếu ý thức tôn trọng nhân dân, thiếu ý thức chấp hành kỷ cương luật pháp ..v..v. Mà phải cắt nghĩa bằng cái gốc của vấn đề. Đó là sự sai lầm về nhận thức và lý luận. Còn những sai lầm kia chẳng qua là hệ qủa tất yếu của cái sai làm gốc này.
Từ ba bốn chục năm nay, hầu hết các cán bộ đảng viên trong bộ máy nhà nước ta được huấn luyện qua các trường, các học viện đều đinh ninh rằng chủ nghĩa xã hội là công hữu, là xoá bỏ quyền tư hữu. Cái gì thuộc sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể mới đáng được tôn trọng. Còn cái gì thuộc về tư hữu, tư nhân, cá thể đều bị coi thường, cho sao được vậy. Đã một thời gian dài, cùng là một giai cấp nông dân với nhau nhưng phân tầng rất rõ: nông dân xã viên thì được tôn trọng quí hoá (dù họ sống nghèo khổ) còn nông dân cá thể thì bị khinh thường là kẻ lạc hậu chống lại tập thể, chống lại xã hội chủ nghĩa (dù họ làm ăn giỏi giang, giàu có). Người nông dân cá thể từng chịu thiệt thòi đủ đường như thế nào, ai cũng biết cả.
Cùng là tầng lớp kinh doanh nhưng vào công tư hợp doanh tức là xã hội chủ nghĩa là đã được cải tạo, được coi là có giá trị. Còn lại đám cá thể là đồ con buôn, con phe . . .. Dù những người kinh doanh đứng đắn làm giàu chính đáng, nộp thuế đầy đủ, nghiêm túc tuân theo pháp luật vẫn cứ phải tìm cách triệt đi, vì trong mắt ai họ vẫn là những kẻ đi theo con đường tư bản chủ nghĩa.
Công bằng mà nói, trong thời đổi mới, người nông dân cá thể biết làm giàu đã được tôn vinh xứng đáng, chẳng ai còn dám ngấm nguýt. Nhưng tư thương, tư doanh có làm ăn tốt đến mấy, đóng góp đầy đủ đến mấy cũng vẫn được coi là loại “con nuôi, con ghẻ”, lại thường xuyên được “thăm hỏi sức khỏe” nếu không biết lót tay hoặc không biết “liên kết” với các cấp chính quyền để nhận sự bảo trợ. Cũng là tư doanh nhưng phải là con cháu các cụ hoặc tư thương ngoại quốc mới được hưởng sự âu yếm, vồ vập.
Đáng mừng là sau khi Thủ tướng có mấy cuộc trò chuyện thân mật và nhất là lệnh huỷ bỏ hơn một trăm giấy phép con thì các tư thương bản xứ có được dễ thở hơn. Nghe các nữ giám đốc tư doanh kể khổ, cả Thủ tướng và những người hiểu biết đều thấy mủi lòng.
Như thế là ngay với nhiều cơ quan nhà nước từ cấp Bộ trở xuống vẫn nhìn những nhà tư doanh với cặp mắt thiếu thiện cảm. Cái nhìn này có nguyên nhân lịch sử sâu xa của nó. xuất phát từ quan điểm trọng nông ức thương của giai cấp thống trị phong kiến, đặc biệt dưới triều các vua quan nhà Nguyễn. Quan điểm xã hội chủ nghĩa với sự hiểu máy móc Tuyên ngôn của Đảng cộng sản là xoá bỏ quyền tư hữu không đếm xỉa gì đến thực tiễn kinh tế- xã hội Việt Nam nên vô tình đã tiếp cận với quan điểm khinh thị thương nhân trước đây. Cho nên Bộ nào, Sở nào, Phòng nào còn dùng dằng ngần ngại trong việc bỏ những giấy phép con mà Thủ tướng đã ra lệnh là do vẫn còn sơ cứng trong nhận thức về CNXH. Còn lý do “khó quản lý” là lý do không chính đáng, không có cơ sở thực tế. Có một bài trên báo Nhân Dân đã chỉ ra rằng: tại sao có đủ cả mấy cơ quan quản lý (sở Thương mai, sở Y tế, cục Kiểm dịch, cục Kiểm tra chất lượng v.v...) mà để cho bánh phở có pha foóc-môn tự do lưu hành nhiều năm liền làm hại sức khỏe của người tiêu dùng? Người phát hiện lại chính là người tiêu dùng và báo chí chứ không phải là các cơ quan quản lý. Cho nên những người nào được Đảng cử ra làm trách nhiệm quản lý trong bộ máy nhà nước mà quản lý không tốt làm hại đến quyền lợi của Nhân Dân và tổn thất đến uy tín của Đảng thì phải được truy cứu trách nhiệm trước pháp luật không được phép chỉ nhận khuyết điểm chung chung là “buông lỏng quản lý” rồi chỉ kiểm điểm nội bộ hoặc xử lý hành chính.
Dư luận vui mừng khi thấy đ/c Tổng bí thư Lê Khả Phiêu trả lời phỏng vấn của báo chí rằng sắp tới Bộ trưởng không nhất thiết cứ phải là đảng viên. Đây là một ý tưởng mới cần phải được thông suốt trong toàn Đảng. Nhưng chúng tôi giật mình khi đọc bài “Đảng viên trong doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá ”của tác giả Nguyễn Anh Dũng (báo Nhân Dân ngày 11-10-2000:
(...) “Nhưng ở những công ty mà nhà nước bán toàn bộ cổ phần thì vai trò lãnh đạo hoàn toàn tuỳ thuộc uy tín của đảng viên và chất lượng công tác Đảng, do đó phương pháp công tác phải khác, có lẽ phải đề cao và nhuần nhuyễn công tác vận động, giáo dục quần chúng, trong đó có sự động viên, giác ngộ những nhà giàu, tư sản...”
Mạn phép hỏi tác giả Nguyễn Anh Dũng: Thế nào là đề cao và nhuần nhuyễn công tác vận động giáo dục quần chúng? Thế nào là động viên, giác ngộ những nhà giàu, tư sản? Sau mấy chục năm ta giáo dục, vận động quần chúng là “có áp bức phải có đấu tranh”, thế mà khi quần chúng công nhân ở các doanh nghiệp đình công, bãi công để đấu tranh với giới chủ thì có những đảng viên trong Hội đồng quản trị doanh nghiệp, các đảng viên phụ trách công đoàn, các đảng viên viết báo lại bắt bẻ họ rằng đình công không bảo đảm thủ tục, không hợp pháp, làm mất ổn định doanh nghiệp và ổn định xã hội. Thử hỏi những đảng viên này theo chủ nghĩa Mác- Lênin hay theo chủ nghĩa nào? Theo tư tưởng Hồ Chí Minh hay theo tư tưởng nào? Đứng về phía quyền lợi giới chủ hay đứng về phía quyền lợi của giai cấp công nhân?
Và xin hỏi tác giả Nguyễn Anh Dũng: cần tăng cường công tác giáo dục quần chúng công nhân hay cần tăng cường giáo dục cái lũ đảng viên tiêu cực đang phản bội giai cấp công nhân?
Theo luật pháp của ta hiện nay mọi nhà và mọi người tư sản được quyền làm giàu chính đáng. Họ kinh doanh có lãi và nộp thuế đầy đủ, đối xử với công nhân theo đúng Luật Lao động tức là họ đóng góp tích cực vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước. Còn bọn nhà giàu mới nổi lên phần đông là đảng viên tham nhũng và không ít vợ con các vị lãnh đạo cấp cao đang hình thành một tầng lớp tư sản mới mà dân gian gọi là bọn tư sản đỏ, chính bọn này luôn luôn trồn thuế và lợi dụng những khe hở của luật pháp để làm giàu bất chính..
Vậy xin hỏi tác giả Nguyễn Anh Dũng ta cần giác ngộ đám tư sản nào: tư sản dân tộc hay tư sản đỏ? Đã đến lúc mọi sự lý luận phải xuất phát từ cơ sở thực tiễn của xã hội mà phân tích đúc kết cho rành rọt sáng sủa. Viết khơi khơi theo kiểu tác giả Nguyễn Anh Dũng, theo chúng tôi, chẳng qua đó chỉ là lặp lại một thứ lý luận đấu tranh giai cấp đậm màu sắc Mao-ít mà thôi. Chưa kể lúc nào cũng đi lo “giáo dục quần chúng” đó là bệnh “kiêu ngạo cộng sản” không thể chấp nhận được. Muốn giáo dục người khác thì trước hết phải tự giáo dục mình.
Tác giả Nguyễn Anh Dũng còn viết: “Vai trò lãnh đạo của Đảng theo địa bàn cũng hết sức quan trọng, kết hợp vai trò của Đảng trong từng doanh nghiệp và sự gương mẫu của từng đảng viên sẽ giữ vững được niềm tin, sự ngưỡng mộ của quần chúng và các nhà doanh nghiệp, cũng là giữ vững sự thừa nhận đương nhiên Điều 4 Hiến pháp nước Cộng hoà XHCN Việt Nam”
Ở đây tác giả Nguyễn Anh Dũng nhầm lẫn khái niệm lãnh đạo với quản lý. Lãnh đạo là công việc của cấp vĩ mô. Còn quản lý là công việc cụ thể của từng doanh nghiệp. Trong tình hình đổi mới hiện nay, muốn tham gia quản lý doanh nghiệp (nhất là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh) anh phải có vốn lớn hoặc có năng lực quản lý. Dù anh là đảng viên nếu anh không đủ số cổ phần nhất định thì không thể tham gia hội đồng quản trị. Dù anh là đảng viên nhưng anh không đọc nổi bản quyết toán tài chính, ai dám thuê anh làm tổng giám đốc hay giám đốc? Nếu anh đã là đảng viên đồng thời lại là nhà kinh doanh giỏi thì chưa kịp vận động, giáo dục hay giác ngộ, người ta đã phải đốt đuốc tìm đến tận nhà để “thỉnh” anh rồi.
Nguyễn Anh Dũng cũng quên rằng đâu cứ có Điều 4 Hiến pháp nước Cộng hoà XHCN Việt Nam thì nhân dân mình mới “giữ vững sự thừa nhận đương nhiên” vai trò lãnh đạo của Đảng.
Cứ thử giở lại Điều 4 Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hoà được Quốc hội thông qua ngày 31-12-59, khi còn sinh thời Bác Hồ xem điều 4 ghi cái gì?
“... Tất cả quyền lực trong nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đều thuộc về nhân dân...”.
Vậy lúc đó nhân dân có “ thừa nhận đương nhiên quyền lãnh đạo của Đảng” không? Kể từ Hiến pháp đầu tiên thông qua 19-11-1946 cho đến trước ngày thông qua Hiến pháp sửa đổi năm 1980 (18-12-80) trong 34 năm đó ai thay được Đảng cộng sản để lãnh đạo cuộc cách mạng này, đất nước này. Đâu có phải cứ đi sao chép Điều 6 của Hiến pháp Liên Xô thành Điều 4 Hiến pháp Việt Nam xã hội chủ nghĩa rồi khẳng định rằng “Đảng là lực lượng duy nhất lãnh đạo nhà nước lãnh đạo xã hội” thì nhân dân ta mới thừa nhận sự lãnh đạo của Đảng”.(Hiến pháp 92 đã bỏ đI từ duy nhất)
Trong tác phẩm “ Đối thoại năm 2000”, chúng tôi đã phân tích rất kỹ rằng bỏ Điều 4 cũ của cụ Hồ thay bằng Điều 4 mới chép theo ĐIều 6 của hiến pháp Liên xô là rất nguy hiểm. Chính Bác Hồ đã dạy rằng người cộng sản chớ có vỗ ngực nhận mình là người lãnh đạo rồi bắt dân thừa nhận sự lãnh đạo ấy. Phải chăng ghi vào Hiến pháp để khẳng định sự siêu quyền lực của Đảng như thế, theo Lênin, đó là biểu hiện một tinh thần “kiêu ngạo cộng sản” mà Nhân dân và Cuộc sống không thể chấp nhận. Và đây cũng là chỗ dựa pháp lý để cho những đảng viên tiêu cực tha hồ tác oai tác quái, phá hoại mọi kỷ cương pháp luật. Tất nhiên đảng viên chân chính không bao giờ lợi dụng điều này, vì thế họ sống thì nhân dân đi theo, họ chết thì nhân dân thờ cúng và tiếp tục noi gương sáng của họ.
Trong buổi toạ đàm ở Ban TTVHTƯ, khi nghe đồng chí Đào Duy Quát nói rằng: “vì tình hình chính trị cấp thiết hiện nay không thể xoá bỏ Điều 4 Hiến Pháp được”, chúng tôi đã thẳng thắn bác bỏ và giải thích rằng: theo chúng tôi, chính vì tình hình chính trị cấp thiết hiện nay mà cần bỏ Điều 4 trong Hiến pháp. Hạ Viện Mỹ vừa rồi cũng yêu cầu chúng ta xoá bỏ Điều 4. Về hình thức đề nghị của chúng tôi và yêu cầu của Hạ Viện Mỹ là giống nhau. Nhưng về bản chất và động cơ là hoàn toàn khác nhau. Hạ viện Mỹ yêu cầu như thế là can thiệp vào nội bộ của nước ta với ý đồ nhằm xoá bỏ sự lãnh đạo của Đảng ta; còn đề nghị của chúng tôi là nhằm giữ vững sự lãnh đạo đó. Chỉ cần nhớ lại rằng cũng chính do tình hình chính trị cấp thiết mà năm 46 Bác Hồ phải tuyên bố giải tán Đảng Cộng Sản Đông Dương. Chẳng phải vì thế mà mất sự lãnh đạo của Đảng. Ngược lại càng tạo thuận lợi cho sự lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Pháp trong 5 năm đầu. Cũng chính vì tình hình chính trị cấp thiết mà Stalin phải tuyên bố giải tán Cục Thông tin quốc tế. Cũng chẳng phải vì thế mà mất đi sự lãnh đạo thống nhất đối với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.
Căn cứ vào kinh nghiệm lịch sử cũng như tình hình toàn cầu hoá hiện nay, một lần nữa chúng tôi vẫn đề nghị rằng bỏ Điều 4 trong Hiến pháp hiện nay vẫn tốt hơn là giữ lại vì nó tạo thuận lợi cho tình hình đối ngoaị và đối nội. Sự lãnh đạo của Đảng không hề mất đi mà chỉ mất đi chỗ dựa pháp lý của bọn “nội xâm” và những thế lực chống Cộng quốc tế. Chúng tôi nghĩ rằng đây chỉ là vấn đề sách lược, nhưng sách lược này lại ảnh hưởng đến toàn bộ chiến lược phát triển của đất nước chúng ta trong thời kỳ hội nhập với thế giới. Do đó ta nên thảo luận nghiêm chỉnh và nếu cần, nên tổ chức trưng cầu ý kiến trong toàn Đảng và toàn Dân.
Xin nói thêm điều này: về đối nội bao giờ cũng phải trung thực với Nhân dân vì không có sự dối trá nào qua nổi mắt Nhân dân. Nhưng đối ngoại thì phải luôn luôn biết “vờ vịt”. Các lực lượng đối phương, đối tác của chúng ta nhiều khi biết thừa là ta “vờ vịt” nhưng vì thể diện hoặc do lẽ này lẽ khác, họ vẫn phải vui vẻ chấp nhận. Sách lược “vờ vịt” đầy khôn ngoan sắc sảo của các triều đại phong kiến trước đây đối với “thiên triều” phong kiến phương Bắc là những bài học kinh nghiệm quý báu vẫn còn nguyên vẹn tính thời sự.
6. DÂN CHỦ: NHU CẦU HÀNG ĐẦU CỦA DÂN TỘC.
Lại nhớ hôm toạ đàm với Hội đòng LLTƯ, Gs Phạm Minh Hạc thân ái phê bình chúng tôi:
“Các đồng chí biểu dương đồng chí Lê Khả Phiêu phất cao ngọn cờ dân chủ hoá đất nước, lại phê bình đồng chí Đỗ Mười không quan tâm đến các vấn đề dân chủ, như thế chứng tỏ các đồng chí thiếu thông tin. Thực ra đồng chí Đỗ Mười cũng rất quan tâm đến vấn đề này.”
Chúng tôi trả lời rằng chúng tôi biết khá rõ về đồng chí Đỗ Mười. Những thành tích hoạt động của đồng chí Đỗ Mười từ hồi đầu khởi nghĩa và chống Pháp ở vùng Nam Định và Liên khu III, cho đến nay nhân dân địa phương vẫn còn truyền tụng. Cuộc đời cách mạng của đồng chí đã đi vào lịch sử, chúng tôi thấy không có gì phải nói thêm. Nhưng khi đồng chí Đỗ Mười cùng với Đại hội VII rút đi từ dân chủ của Bác Hồ thì cần phải phê bình.
Đồng chí Dương Phú Hiệp lại nói:
- Các đồng chí yên trí, kì này lại đưa vào rồi: vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
- Vâng, nếu dưa từ dân chủ vào thì chúng tôi không phê bình nữa! Nhưng tại sao lại đưa dân chủ vào giữa. Phải dân chủ rồi mới nói chuyện công bằng, văn minh được chứ!”.
Rõ ràng đây không phải chỉ là vấn đề từ ngữ, mà là nội dung của cả một cuộc cách mạng, một chế độ mới trên đất nước này. Dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là phương tiện, động lực của cách mạng Việt Nam.
Thử hỏi, trong nửa thế kỉ vừa qua, nếu chúng ta thiếu ý thức dân chủ, thiếu tinh thần dân chủ, thiếu hành động dân chủ, ta có thể vận động toàn dân hoàn thành được sự nghiệp “hoà bình, thống nhất, độc lập” hay không?
Dân Việt Nam đi theo Cụ Hồ và Đảng này không phải chỉ vì tin rằng sẽ có độc lập mà còn có cả tự do nữa. Đi làm cách mạng, đi kháng chiến, người ta thấy mình được là mình, được tôn trọng, được khẳng định giá trị của một con người tự do
“Mẹ đi theo Đảng, mẹ theo Bác Hồ,
Mai sau con lớn làm người tự do”
( Nguyễn Khoa Điềm - Khúc hát ru em bé ngủ trên lưng mẹ)
Đây cũng không chỉ là vấn đề từ ngữ mà là khát vọng ngàn đời của 54 dân tộc đang sống trên đất Việt này.
Không phải ngẫu nhiên mà câu nói của Cụ Hồ lại trở thành khẩu hiệu vang vọng núi sông, lay động lòng người: “Không có gì quí hơn Độc lập Tự do”. Cũng không phải ngẫu nhiên mà người ta in trong tâm khảm mình câu nói: “Nước độc lập mà dân không được hưởng tự do, hạnh phúc thì độc lập ấy cũng chẳng có nghĩa lý gì”.
Chúng tôi có đôi chút kinh ngạc khi nghe Gs Đặng Xuân Kỳ chê chúng tôi đọc còn ít và chưa hiểu Tư tưởng Hồ Chí Minh:
“ Hai đồng chí chưa đọc cuốn “Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam” của chúng tôi nên chưa hiểu đúng Tư tưởng Hồ Chí Minh”.
Chúng tôi đã thưa với đồng chí Đặng Xuân Kỳ rằng, khi được Võ Đại tướng có nhã ý tặng cho cuốn sách “Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam”, chúng tôi đã đọc khá kỹ, không chỉ một lần. Chúng tôi không thấy các tác giả bàn về một trong những điểm cốt lõi của Tư tưởng Hồ Chí Minh là vấn đề dân chủ. Không có một chương nào bàn về tư tưởng dân chủ Hồ Chí Minh.
Vừa rồi sách tái bản ghi là có sửa chữa và bổ sung (5-2000) vẫn không thấy bổ sung chương này. Và những dòng mà chúng tôi quan tâm nhất vẫn thấy nguyên vẹn trong sách tái bản (trang 95):
Khái quát lại, Tư tưởng Hồ Chí Minh là gì?
(...)
Đó là tư tưởng cách mạng không ngừng, từ cách mạng Dân tộc dân chủ tiến lên Chủ nghĩa xã hội, nội dung cốt lõi là giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội (giai cấp), và giải phóng con người. Nói ngắn gọn hơn là độc lập dân tộc, dân chủ, chủ nghiã xã hội, hay nói gọn hơn: độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Thế là cứ nói “ngắn gọn” theo kiểu này thì mất đứt hai chữ dân chủ của Cụ Hồ.
Chúng tôi càng kinh ngạc hơn nữa khi nghiên cứu cuốn “Phát huy sức mạnh toàn dân tộc, xây dựng nước Việt Nam dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” của đồng chí Lê Khả Phiêu (NXB Chính trị Quốc gia - Hà Nội - 8/2000) thấy có những dòng sau đây:
(...) Đảng ta là đội tiên phong của giai cấp công nhân, hết lòng phục vụ nhân dân. Mục tiêu chiến đấu của Đảng là vì độc lập dân tộc, vì hạnh phúc của đồng bào; không có mục tiêu nào khác.
(Trích: “Trong quá trình đổi mới phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh” , trang 202).
Chúng tôi có trao đổi với một số bạn bè, nhiều người nói cứ nên hiểu trong mục tiêu hạnh phúc là có mục tiêu tự do rồi. Chúng tôi bảo: không được! Vì nếu cứ phải hiểu ngầm ý nhau như thế thì cái tiêu đề trên các công văn đơn từ hẳn phải phải viết gọn là:
Cộng hòà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Độc lập - Hạnh phúc
và cái khẩu hiệu lừng danh của cụ Hồ hẳn cũng phải “cập nhật” thành:
Không có gì quý hơn độc lập, hạnh phúc!
Không phải chuyện cứng nhắc hay méo mó nghề nghiệp hoặc “chẻ sợi tóc làm tư làm tám”, đã là thuật ngữ khoa học thì phải chính xác. Đặc biệt thuật ngữ chính trị càng phải chính xác, không thể đại khái, tuỳ tiện. Vì ở đây một từ, một cụm từ hay một mệnh đề biểu hiện một mục tiêu chiến lược bao hàm nội dung một giai đoạn cách mạng hoặc cả một cuộc cách mạng. Đúng thì thắng, sai thì bại.
“Trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi!” (Hồ Chí Minh).
Cứ thử rút đi một từ nào xem!
“Táo bạo, táo bạo hơn nữa! Thần tốc, thần tốc hơn nữa!” (Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp).
Cứ thử thay đi một từ nào xem!
“Nắm vững chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động (...) Đẩy mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa; xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa; xây dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền văn hoá mới, con người mới xã hội chủ nghĩa (...) xây dựng thành công Tổ quốc Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập và xã hội chủ nghĩa”.
Đó là những mệnh đề then chốt nằm trong “Đường lối chung của cách mạng xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới ở nước ta” (Trích trong Nghị quyết Đại hội IV- 1976)
Đại hội V vẫn “khẳng định tiếp tục thực hiện đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa do Đại hội IV vạch ra”. (Trích trong Nghị quyết Đại hội V – 1991)
Và Đại hội VI sở dĩ vĩ đại chính là vì đã sửa lại đường lối sai lầm của Đại hội IV và Đại hôI V để mở ra một thời kỳ phát triển của đất nước.
Nói một cách không quá đáng rằng tất cả những ai đã bàn về tư tưởng Hồ Chí Minh mà không bàn thấu đáo về tư tưởng dân chủ Hồ Chí Minh, có thể coi như chưa bàn về Tư tưởng Hồ Chí Minh. Vì tư tưởng dân chủ là một nét đặc trưng cơ bản khu biệt tư tưởng Hồ Chí Minh với những tư tưởng trước Hồ Chí Minh. Quá trình lịch sử 2000 năm trước Hồ Chí Minh, tư tưởng độc lập dân tộc giữ địa vị chủ đạo và thống soái. Phan Chu Trinh và một số nhà yêu nước khác có đề cập đến vấn đề dân chủ nhưng chưa thành một hệ thống lý luận, thực thi còn ít và chưa đạt hiệu quả.
Với Hồ Chí Minh, tư tưởng dân chủ của Người đã thành một hệ thống được thực tiễn kiểm nghiệm và đạt những thành quả rực rỡ chưa từng thấy trong lịch sử dân tộc: Đó là bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1945, bản Hiến pháp năm 1946, 30 năm chống thực dân Pháp và đánh đuổi đế quốc Mỹ và nhất là bản Di chúc thiêng liêng của Người để lại cho chúng ta. Hay nói khác đi tất cả những gì mà Hồ Chí Minh đã suy nghĩ và hành động suốt đời mình để dẫn dắt toàn thể Dân tộc bước sang một kỷ nguyên mới, đánh dấu bằng việc thành lập Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên trong lịch sử, đó là kỷ nguyên Việt Nam độc lập và dân chủ.
Không một lực lượng nào có quyền ngăn cản chúng ta đi lên chủ nghĩa xã hội, thực thi chủ nghĩa xã hội. Nhưng trong Đối thoại năm 2000, chúng tôi đã khẳng định đó không phải là chủ nghĩa xã hội lý thuyết của Mác, càng không phải chủ nghĩa xã hội Stalin mà chính là chủ nghĩa xã hội Hồ Chí Minh - chủ nghĩa xã hội mang đặc sắc Việt Nam.
Một lần nữa chúng tôi nhấn mạnh: hoàn thành chủ nghĩa xã hội Hồ Chí Minh chính là tạo điều kiện và tiền đề để tiếp cận chủ nghĩa xã hội Các Mác. Theo Mác, con đường lên chủ nghĩa cộng sản là con đường tất yếu của nhân loại mà giai đoạn đầu của nó là chủ nghĩa xã hội. Vậy nó đã là tất yếu thì cần gì phải hò hét nhiều! Ta cứ làm xong chủ nghĩa xã hội Hồ Chí Minh rồi ta tổ chức trưng cầu dân ý về bước đường đi tiếp. Chắc chắn khi toàn thể nhân dân hiểu được rằng chủ nghĩa xã hội Các Mác là giai đoạn phát triển kế tiếp cao hơn chủ nghĩa xã hội Hồ Chí Minh, nghĩa là dân chủ nhiều hơn, tự do nhiều hơn, giàu mạnh nhiều hơn, công bằng nhiều hơn, sung sướng nhiều hơn, hạnh phúc nhiều hơn thì có ai lại chối bỏ, trừ những vị quá ngu xuẩn hoặc mất trí.
Nhiều bạn đã thân ái phê bình chúng tôi là hay đi lan man. Quả có thế. Tản mạn, lan man và cả trùng điệp là một nhược điểm không thể ngày một ngày hai mà khắc phục ngay được khi cứ phải bàn đi bàn lại một vấn đề quá trọng đại của dân tộc và thời đại: vấn đề dân chủ. Biết là quá tải, vượt tải mà vẫn cố sức làm, không tính đến thành bại, chẳng kể đến mất còn, chỉ mong sao noi theo được chút nào tấm gương sáng của cụ Nguyễn Trường Tộ để tránh được cái tiếng bất nhân bất nghĩa (biết mà không nói là bất nhân, nói mà không nói hết là bất nghĩa); đặng có thể yên tâm nhắm mắt khi từ giã cõi đời này.
Lịch sử nước nhà, xét toàn cục là lịch sử oanh liệt cứu nước chống ngoại xâm. Cả một dân tộc anh hùng như thế, trí tuệ như thế mà cứ thắng giặc xong lại loay hoay trở về với con trâu và cái cày; ngay cả thời kỳ đánh thắng Điện Biên Phủ xong, ta quyết tâm đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội. Thực hiện công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa thì vẫn cứ là cái cày và con trâu. Hợp tác xã nào thiếu trâu đen mà lại sợ “trâu đỏ” (trâu đen ăn cỏ, trâu đỏ ăn gà) thì đành ca bài “Kéo bừa thay trâu” hoặc dàn hàng ngang mà cuốc tập thể. Vì thế nên lại phát huy cái trò chơi chữ châm biếm: “công nghiệp hoá toàn cuốc” (toàn quốc). Gần đây nghị quyết của mấy Đại hội Đảng ta liên tục chủ trương lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu. Thế là mấy chục thế kỷ qua đi, Việt Nam ta vẫn cứ phải “dĩ nông vi bản”.
Do quan hệ sản xuất phong kiến và sau này là những chính sách cai trị của chủ nghĩa thực dân cũ cũng như chủ nghĩa thực dân mới kìm hãm, nền nông nghiệp nước ta chưa bao giờ được cơ giới hoá, chưa bao giờ thành đại nông, chỉ là tiểu nông lạc hậu, quanh đi quẩn lại, manh mún vẫn hoàn manh mún. Trong một môi trường kinh tế như thế, người ta có tư duy một cách manh mún tiểu nông cũng không có gì lạ: “Cơm ai nấy ăn, việc ai nấy làm”, “đèn nhà ai nhà ấy rạng”, “mũ ni che tai chuyện ai nấy biết”, . . . đó là những nếp nghĩ, nếp sống đã kéo dài qua nhiều đời, dường như trở thành máu thịt trong một xã hội tự cấp tự túc chủ yếu sống bằng kinh nghiệm.
Cho đến năm cuối thế kỷ XX, nếp tư duy này vẫn hằn sâu và tác động vào đời sống văn hoá - xã hội và để lại các dấu ấn rõ nét trên cả các Dự thảo văn kiện Đại hội IX. Văn kiện các Đại hội trước như thế nào, giờ lại cứ ang áng chép lại, có sửa sang đôi chút gọi là có bổ sung cái mới. Vì thế nên mới có chuyện: vấn đề độc lập dân tộc giải quyết xong từ 25 năm rồi, nay lại vẫn “kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc”.
Làm kinh tế xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc ngót 20 năm đã thấy là không thích hợp làm tiếp 10 năm nữa trong cả nước lại thấy càng không thích hợp, lâm vào tình trạng khốn đốn, khủng hoảng, trì trệ. Đại hội VI đã khẳng định là sai lầm, phải sửa sai, phải đổi mới. Nhưng rồi các văn kiện Đại hội VII, Đại hội VIII mà nay là văn kiện Đại hội IX vẫn không dám bỏ mấy chữ xã hội chủ nghĩa, cũng chẳng xác định cho chính xác đó là chủ nghĩa xã hội nào. Biết rõ Trung Quốc mở cửa trước mình hàng chục năm, kinh tế phát triển rầm rộ hơn hẳn mình mà vẫn chưa dám đổi tên nước, mình đổi tên nước như thế là vội vã, cũng chẳng dám sửa. Tư duy “pháp tiên vương” tái sinh chính là thế đó. Nhưng khốn nỗi giữ lại tên nước mình thì lại tự mình mâu thuẫn với mình. Đã là nước xã hội chủ nghĩa rồi mà vẫn nêu định hướng xã hội chủ nghĩa thì chẳng hoá ra giậm chân tại chỗ hay sao? Mạnh dạn cất bước đi tới thì thấy tiến bộ phát triển. Vừa mừng rỡ nhưng rồi lại vừa lo sợ, chỉ hãi chệch hướng. Nếu quả thật mình là con tàu xã hội chủ nghĩa, quyền cầm lái ở trong tay mình thì cứ việc lái tuốt lên chủ nghĩa cộng sản chứ còn thần hồn nát thần tính, lo sợ cái nỗi gì?
Còn nếu thấy không phải như thế thì tổ chức thảo luận cho đàng hoàng, bắt buộc báo chí phải đăng những ý kiến khác nhau, trái nhau, cứ tranh luận rồi để cho công luận phán xét định giá. Cớ sao chỉ đăng bài của những người này mà không đăng bài của những người khác? Không đăng bài của người ta cũng là cách bịt mồm người ta lại và như thế là vi phạm Hiến pháp và Luật pháp (chúng tôi sẽ bàn sau về những ý kiến không đúng của các đ/c Hà Đăng, Vũ Ngọc Ngoạn... đã đăng trên Tạp chí Cộng sản và báo Nhân Dân những số gần đây).
Trở lại vấn đề dân chủ. Tại sao có thể nói đó là nhu cầu của Dân tộc và Thời đại?
Hãy tạm gác ra ngoài cái món hàng “dân chủ, nhân quyền” mà các nước phương Tây thường rêu rao rồi dùng nó để gây sức ép với Việt Nam ta và nhiều nước khác.
Vấn đề dân chủ mà chúng tôi bàn ở đây cũng như ở hai văn bản trước (Chỉnh đốn để tồn tại và phát triển và Đối thoại năm 2000) là dân chủ Hồ Chí Minh - dân chủ Việt Nam - chứ không thể lẫn lộn với bất cứ thứ dân chủ nào khác.
Ai muốn tranh luận, xin kính mời! Miễn mọi sự xuyên tạc hoặc “gắp lửa bỏ tay người”.
Như chúng tôi đã từng nói và mọi người cũng thấy rõ, hàng nghìn năm qua ông bà ta chỉ mới giải quyết được vấn đề ĐỘC LẬP DÂN TỘC, chưa hề giải quyết được vấn đề DÂN CHỦ. Cái gọi là “dân chủ thời Trần” khá là tốt đẹp nhưng chưa bao giờ được trở thành một định chế, một thể chế chính trị hẳn hoi, chế độ chính trị thì càng không. Có giặc thì triệu tập Hội Nghị Diên Hồng, hết giặc thì thôi. Chẳng bao giờ có Diên Hồng về kinh tế, hay về văn hoá xã hội.
Cái mới mà Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản mang lại cho Dân Tộc không phải là vấn đề thắng giặc ngoại xâm giành lại độc lập mà chính là chế độ dân chủ: Việt Nam dân chủ cộng hoà. Cái Mới này đáp ứng được nhu cầu của dân tộc và vì đã thực thi được một phần cái Mới này nên Dân ta mới dốc hết mọi của cải và trí tuệ, dốc hết cả sinh mạng mình và con cháu mình để bảo vệ bằng được Nhà nước dân chủ cộng hoà của mình, do đó mà lập nên những chiến công thần kỳ chưa từng có. Đó là thành tích của chế độ dân chủ chứ không phải của chế độ xã hội chủ nghĩa.
Lâu nay ta cứ nói đó là sự ưu việt của chế độ XHCN là nói nhầm, nói oan cho cụm từ này và làm xấu mặt chủ nghĩa Mác - Lênin.
- Kinh tế ở trình độ nào mà cứ nói là xây dựng CNXH?
- Xây dựng thành công CNXH ở miền Bắc hồi nào mà sao dám vội đưa cả nước lên CNXH?
- Xây dựng xong CNXH hồi nào mà dám đổi tên nước do cụ Hồ đặt: Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà thành Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam?
- Tài sản XHCN là thế nào mà lại ghi vào trong Luật hẳn một tội danh: tội xâm phạm, chiếm đoạt tài sản XHCN...?
- Con người dân chủ mới đã xây dựng xong chưa mà nói đến phải đào tạo con người XHCN?
Rồi nào là công nghiệp XHCN, nông nghiệp XHCN, văn hóa XHCN, tư tưởng XHCN, giáo dục XHCN, thương mại XHCN, đạo đức XHCN, cứ làm như càng nói thật nhiều XHCN thì CNXH càng chóng trở thành hiện thực.
Sau hội chứng XHCN thì lại đến hội chứng định hướng XHCN. Rồi cũng phải để thời giờ điều tra, thống kê, xem hàng ngày trên báo chí và các phương tiện truyền thông khác và ngay trong văn kiện Đại hội IX đã lặp đi lặp lại bao nhiêu lần cụm từ định hướng XHCN?
Tần số chắc không nhỏ đâu. Đến nỗi ngay giáo sư Trần Văn Giầu - một người từng tốt nghiệp Đại học Phương Đông ở thập kỷ 30, từng nghiên cứu bạc đầu về chủ nghĩa Mác Lênin, thế mà đến năm cuối thập kỷ 90, lại đúng vào năm ăn mừng thượng thọ 90 tuổi cũng phải suốt ruột, chất vấn Ban soạn thảo văn kiện rằng: thế nào là XHCN? Và thế nào là định hướng XHCN? Cụ Sáu Giầu mà còn phải thắc mắc như thế nói chi đến lũ hậu sinh thất học về chủ nghĩa Mác hoặc chỉ lơ mơ ăn theo, nói leo về chủ nghĩa Mác. Tất nhiên về tài nghệ sao chép, trích dẫn kinh điển Mác Lênin thì đáng được ghi vào kỷ lục Guiness từ lâu rồi.
Cho nên, thật buồn cười mà cũng thật đau lòng khi thấy dân gian châm biếm: chủ nghĩa xã hội là cả ngày xếp hàng (CNXH) nếu không thì cũng xếp hàng cả ngày (XHCN). Một học thuyết hay như thế, một chế độ đáng mơ ước như thế mà ta nỡ làm sai làm hỏng để đến nỗi mọi chuyện đều đi “từ nghiêm túc đến buồn cười”? (tên một chuyên mục trên Họa báo Liên Xô trước đây).
Buồn cười nhất là khi đọc bài “Cái mới trong dự thảo báo cáo Đại hội IX” của tác giả Hà Đăng vừa in trên Tạp chí Cộng sản số 18 tháng 9-2000 và trên báo Nhân Dân ngày 12/10/2000.
Tác giả Hà Đăng nêu lên 15 điểm mới thì có tới 8 điểm cũ, hoàn toàn cũ và 6 điểm cũ có tân trang chút đỉnh. Duy có một điểm mới, thực sự là mới, nhưng lại mới từ năm 45, rồi do sự nhầm lẫn quá lâu ngày - ít nhất cũng từ Đại hội IV năm 1976 đến nay nên khi lục ra xem lại vẫn thấy còn mới tinh khôi. Đó là vấn đề DÂN CHỦ.
Mạn phép chạy theo thú trích dẫn và xin bạn đọc vui lòng đọc nguyên văn điểm mới thứ tư này do tác giả Hà Đăng phát hiện:
(...) “ Bốn: mục tiêu dân chủ:
Cho đến Đại hội VIII, mục tiêu lý tưởng của chúng ta là chủ nghĩa xã hội đã được trình bày khái quát bằng công thức đi vào lòng dân: “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh” Nay dự thảo thêm hai từ “dân chủ”, thành ra “Dân giàu, nước manh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Trước đây cứ nghĩ rằng bản chất của chủ nghĩa xã hội là dân chủ, cho nên dù có nêu hay không nêu hai từ đó, chế độ ta vẫn là chế độ dân chủ. Song thực tiễn cho thấy, cái bản chất dân chủ ấy không chỉ phải được nói lên mà còn cần nhấn mạnh thêm và nhất là đưa vào cuộc sống hằng ngày. Dân chủ, hay quyền làm chủ của nhân dân, vừa là bản chất của chế độ, vừa là mục tiêu phấn đấu, vừa là một động lực phát triển xã hội. Việc bổ sung hai từ dân chủ làm cho công thức 12 chữ này trở nên trọn vẹn hơn, sống động hơn.” (Tạp chí Cộng Sản-số 18, trang 6).
Mong bạn đọc vui lòng cho phép chúng tôi lan man một chút về vấn đề này.
Đầu tiên là cái tiêu đề của điểm mới thứ tư: mục tiêu dân chủ.
Sao lại mục tiêu? Thế 55 năm qua chế độ ta là chế độ gì? Chẳng lẽ Bác Hồ của chúng ta khẳng định “nước ta là một nước dân chủ” lại là chuyện nói đùa chăng? Chẳng lẽ Tuyên ngôn độc lập 2-9 lại không phải là một tuyên ngôn về Độc lập và Dân chủ? Chẳng lẽ Hiến pháp 46 (và sau đó sửa thành Hiến pháp 59) lại chưa phải là Hiến pháp dân chủ hay sao? Chẳng lẽ 30 năm toàn dân chiến đấu, hy sinh lại không phải là để bảo vệ nhà nước dân chủ cộng hoà của mình và giành bằng được độc lập, tự do, hạnh phúc thực sự.
Chúng tôi nhắc lại vì thực sự nhớ ra rằng nhân dân ta chưa bao giờ chấp nhận cái thứ độc lập bánh vẽ mà các vị ngoại xâm đã từng trao trả cho ông cựu hoàng Bảo Đại bù nhìn và ông tổng thống Ngô Đình Diệm bán nước. (Viết đến đây chúng tôi kinh hoàng liên tưởng đến việc mấy nhà soạn Từ điển của ta lại có nhã ý đưa ông Ngô Đình Diệm và em ruột ông là cố vấn Ngô Đình Nhu vào mục từ danh nhân văn hoá(?!) Đúng là “đổi mới tư duy”). Chẳng lẽ đã kiên quyết từ chối món độc lập bánh vẽ lại vui lòng xơi món dân chủ tự do bánh vẽ hay sao? Chẳng có gì phải khó khăn khi cần nhất trí với tác giả Hà Đăng rằng “mục tiêu lý tưởng của chúng ta là CNXH” nhưng xin hỏi bạn Hà Đăng: Chủ nghĩa xã hội nào vậy? CNXH của Mác? CNXH của Lênin? hay CNXH của Hồ Chí Minh?
Sở dĩ trong tác phẩm Chỉnh đốn để tồn tại và phát triển, chúng tôi tỏ ý không tán thành quan điểm của đồng chí Cựu tổng bí thư Đỗ Mười và các Đại hội VII, Đại hội VIII biểu hiện trong công thức “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh” vì thấy công thức này đã đi chệch mục tiêu chiến lược Hồ Chí Minh. Xén đi hai chữ dân chủ thử hỏi còn gì là tư tưởng Hồ Chí Minh? Làm gì mà lũ cơ hội trong Đảng không lợi dụng để ra sức vơ vét, bóp hầu bóp cổ nhân dân, làm tổn thất nghiêm trọng uy tín của Đảng, bôi nhọ chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Hà Đăng lại còn viết rằng: “Trước đây cứ nghĩ rằng bản chất của chủ nghĩa xã hội là dân chủ nên dù có nêu hay không nêu hai từ đó, chế độ ta vẫn là chế độ dân chủ”.
Xin thưa với đồng chí Hà Đăng: dân chủ là một từ ghép chứ không phải là hai từ. Và nghĩ như đ/c là nghĩ theo sách vở, hoàn toàn không xuất phát từ thực tế Việt Nam. Chủ nghĩa xã hội của Mác với tư cách là giai đoạn đầu của phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa thì dứt khoát bản thân nó là dân chủ rồi, về mặt chính trị. Còn các lĩnh vực kinh tế, văn hoá-xã hội phải được tiếp tục hoàn thiện. Ngay về mặt chính trị mà phần dân chủ nào mới chỉ được đề ra trên giấy, chưa được thực thi thì trách nhiệm của CNXH phải tiếp tục hoàn thiện và phát triển thêm. Nhưng đó là chuyện thuộc các nước tư bản phát triển khi chuyển lên CNXH, không phảI chuyện của ta.
Đại hội IX sắp tới sẽ chỉ thực sự thành công và mang ý nghĩa lịch sử nếu mọi người tập trung trí tuệ thảo luận đường đi nước bước của tiến trình thực thi sự nghiệp dân chủ hoá đất nước, cụ thể là thực thi Hiến pháp 46 và Hiến pháp 59, những hiến pháp đã được soạn thảo theo tư tưởng Hồ Chí Minh, chứ không phảI theo Hiến pháp 80 và Hiến pháp 92, những hiến pháp được sao chép mô phỏng theo hiến pháp Liên Xô, gò bó và thủ tiêu mọi quyền tự do dân chủ bằng cụm từ “theo luật pháp quy định”.
Theo “luật pháp quy định” có nghĩa là đối với mọi quyền tự do dân chủ đã được ghi trong hiến pháp, ta lại ban hành những đạo luật có khả năng vô hiệu hoá những quyền tự do đó. Điển hình là Luật báo chí và xuất bản. Một lần nữa chúng tôi nhắc lại lời nói nổi tiếng của văn hào Voltaire (Pháp):
“Tự do ngôn luận là linh hồn của mọi thứ tự do”
Không có tự do ngôn luận nghĩa là không có tự do nào hết. Thực tế 25 năm qua đã chứng minh rằng vì thiếu tự do ngôn luận mà đất nước ta phát triển rất chậm chạp, thua kém bạn bè một cách đáng xấu hổ. Thiếu tự do ngôn luận nên những sự ức hiếp, bóc lột vẫn dai dảng tồn tại, lòng dân không yên, sức sản xuất không thể phát triển tương xứng với nội lực trí tuệ và văn hoá của dân tộc. Đất nước tiếp tục tụt hậu một cách đáng sợ.
Do đó, ngày nào còn chưa có báo chí và xuất bản ngoài quốc doanh, như đã từng có doanh nghiệp ngoài quốc doanh trên lĩnh vực kinh tế, trường học ngoài quốc doanh trên lĩnh vực giáo dục, bệnh viện ngoài quốc doanh trên lĩnh vực y tế.v.v... thì ngày ấy chúng ta còn lạc hậu một cách thảm hại. Phải có tự do báo chí, tự do lập hội và những quyền tự do khác đã được ghi trong hiến pháp do chính cụ Hồ chỉ đạo soạn thảo vào năm 46 và năm 59.
Xin phép hỏi các đồng chí Nguyễn Phú Trọng, Hà Đăng, Hồng Hà, Nguyễn Khánh, Trần Đình Nghiêm, Vũ Hữu Ngoạn- những người được tin cậy giao phó việc soạn thảo văn kiện Đại hội IX:
“Các đồng chí cho biết câu nói của Bác Hồ “Nước có độc lập mà dân không được hưởng tự do hạnh phúc thì độc lập ấy cũng chẳng có nghĩa lý gì” liệu còn có giá trị hay không? có còn là chân lý đối với cuộc sống của nhân dân ta nữa hay không?”
Nếu còn giá trị sao các đồng chí không mang tinh thần đó thể hiện trong việc soạn thảo văn kiện Đại hội IX?
Và xin thẳng thắn thách thức tất cả những ai dám cho rằng câu nói trên của Hồ Chí Minh đã trở thành vô nghĩa, không còn là chân lý của Việt Nam và thời đại nữa. Trân trọng kính mời tranh luận!
Chúng tôi tin chắc rằng: Ta sẽ chẳng thể “đi tắt đón đầu”, chẳng thể đặt chân lên chuyến tàu kinh tế tri thức của thế kỷ mới, nếu chúng ta không đồng lòng thực thi những quyền tự do dân chủ đã ghi trong Hiến pháp 46 và Hiến pháp 59 nhằm xây dựng thành công một nước Việt Nam dân chủ và giàu mạnh.
Tự do dân chủ là một vấn đề đã cũ, cũ từ 55 năm qua, nhưng thực sự vẫn còn hết sức mới mẻ với Việt Nam ta hiện nay. Chúng ta chỉ có thể vươn lên sánh ngang hàng với bạn bè quốc tế nếu chúng ta nghiêm chỉnh tuân theo lời di chúc thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Xây dựng xong một nước Việt Nam dân chủ, giàu mạnh rồi ta sẽ xây tiếp một Việt Nam xã hội chủ nghĩa, một Việt Nam cộng sản chủ nghĩa hoặc gì gì nữa . . . tất cả hoàn toàn thuộc quyền của chúng ta.
Cũng xin mạn phép thưa với những quý vị nào còn đang bi quan với tình hình hiện tại: Hãy tin vào Dân tộc, tin vào Nhân dân!
Dân tộc ta không phải là một dân tộc hèn kém; nhân dân ta không phảI là một nhân dân chịu khuất phục trước bất công, đói khổ. Nhân dân chính là lực lượng sáng tạo ra lịch sử và quyết định hướng đi của lịch sử. Từ mấy ngàn năm qua đã như vậy, hiện tại đã như vậy và mãi mãi sau này vẫn không thể khác. Nhân dân sẽ là người có tiếng nói cuối cùng quyết định vận mệnh của mình và đất nước của mình.
Chúng tôi xin phép nhắc lại không biết mệt mỏi một điều mà chúng tôi đã nhấn mạnh trong Đối thoại năm 2000:
“Có tự do dân chủ là có tất cả! Mất tự do dân chủ là mất tất cả! Vậy còn lại gì?- Chỉ còn lại một bầy nô lệ mới cho bọn tài phiệt bản xứ và tài phiệt quốc tế mà thôi!”
Cũng như độc lập dân tộc, tự do dân chủ đã được trả giá bằng xương máu của hàng chục thế hệ Việt Nam trong 117 năm đấu tranh (1858-1975). Những kẻ nào mượn danh nghĩa Đảng và Nhà nước để tước đoạt những quyền thiêng liêng này của Nhân dân thì cần phải vạch mặt chúng, bêu rõ tên tuổi chúng để cho Lịch sử và Nhân dân đời đời phỉ nhổ.
Cần nhớ rằng tự do dân chủ là thuộc quyền sở hữu của Nhân dân, không ai có quyền ban phát. Và chúng ta cũng không có quyền mở rộng hay mở hẹp gì cả!
Đại hội IX của Đảng ta phải là một Đại Hội Dân Chủ!
Thế kỷ XXI phải trở thành một Thế Kỷ Dân Chủ của Việt Nam!
Đó là bảo đảm chắc chắn cho thắng lợi của Việt Nam trong công cuộc hội nhập ở thời đại Toàn cầu hóa. Chỉ có thể đối trọng với Toàn cầu hóa bằng Toàn dân hóa tài năng và trí tuệ Việt Nam.
TRẦN KHUÊ - NG. T. THANH XUÂN
Đón xem kỳ sau:
Vai trò của Đảng và Nhà nước ta trong nền kinh tế thị trường.
(Tiếp tục thảo luận với các tác giả Hà Đăng, Nguyễn Đình Ước,
Lê HữuTầng, Lê Văn Dũng, Quang Cận, Đức Lượng . . .)
Việt Nam, ngày 25 tháng 11 năm 2000
Thư ngỏ
Kính gửi: Ngài William Jefferson Clinton, Tổng thống Hoa Kỳ.
Thưa ngài Tổng thống kính mến,
Cho đến hôm nay, hầu như vẫn còn đọng lại trong tôi những ấn tượng tươi tắn và tốt đẹp về chuyến đi của Ngài, của gia đình Ngài và các đại biểu ưu tú khác từ Hoa Kỳ đến thăm Việt Nam chúng tôi.
Năm xưa, Cố chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn nhắc nhân dân Việt Nam nhận biết hai nước Pháp và hai nước Mỹ - một nước Mỹ của Johnson và Nixon, một nước Mỹ của T. Jefferson và A. Lincoln, W. Whitman và E. Hemingway . . . Và ngay từ cuối thế kỷ trước, nhà yêu nước Bùi Viện của Việt Nam đã lặn lội sang tận Hoa Kỳ mong tìm một tình bạn và một sự giúp đỡ cho đất nước chúng tôi có thể phát triển. Sau này, Nguyễn Ái Quốc của chúng tôi cũng tiếp tục tìm hiểu Hoa Kỳ và Người cùng các đồng chí của mình đã từng cộng tác với người Hoa Kỳ trên Mặt trận đồng minh chống phát xít.
Nay, sau 25 năm cuộc chiến tranh đã qua đi, còn lại với chúng tôi, như Nguyễn Trãi từng nói, là cuộc sống yên bình và tình hòa hiếu. Chúng tôi mong tìm thấy tình bạn ở mọi dân tộc, nhất là với nhân dân Hoa Kỳ tài năng và hào hiệp, vốn yêu độc lập và tự do. Chân thành cảm ơn Chính phủ và Nhân dân Hoa Kỳ đã và đang giúp đỡ hàng triệu đồng bào Việt Nam của chúng tôi sinh sống, học tập và làm việc trên đất nước Hoa Kỳ.
Thông qua chuyến công du của Ngài và đoàn đại biểu Hoa Kỳ, chúng tôi có dịp tìm hiểu sâu sắc thêm tình cảm của nhân dân Hoa Kỳ đối với Việt Nam. Chúng tôi xúc động khi nghe phu nhân của Ngài - bà Tân thượng nghị sĩ Hillary- nhắc đến Bà Trưng, Bà Triệu, những vị nữ anh hùng đã lãnh đạo nhân dân vùng dậy chống ngoại xâm, giành độc lập - tự do ngay từ đầu thiên niên kỷ thứ nhất. Còn Ngài, với bài diễn văn giàu sức chinh phục lòng người của mình, đã nhắc đến tư tưởng nhân bản của nhà văn hoá Nguyễn Trãi và, chẳng khác gì một người Việt Nam thứ thiệt, Ngài đã lẩy Kiều một cách thành thạo, văn hoa và duyên dáng. Và Ngài lại không quên nhắc đến Hồ Xuân Hương kính yêu của chúng tôi, người nữ thi hào, bằng những áng thơ tuyệt tác của mình, đã không ngừng đấu tranh cho quyền sống và quyền hưởng hạnh phúc của giới phụ nữ .
Chắc không có gì quá đáng khi nhận xét rằng sự am hiểu và trân trọng đối với nền văn hóa Việt Nam cũng như những lời nói, ánh mắt thân thiện của Ngài và Phu nhân đã gây được thiện cảm và để lại những ấn tượng hết sức tốt đẹp trong lòng chúng tôi. Như tập quán của người Việt Nam thường nói lời tiễn khách: mong khách quý lượng thứ nếu có điều gì cư xử không phải.
Hiện nay, mặc dù còn phải liên tục chống thiên tai, nhân họa - lũ lụt và tham nhũng - và lại còn rất vất vả trong việc hàn gắn các vết thương chiến tranh, nhân dân Việt Nam vẫn lạc quan với cuộc sống. Phương Tây có câu: “Khi ta chưa có cái ta yêu thì ta hãy yêu cái ta có”, thành ngữ Việt Nam cũng nói: “Có hoa mừng hoa, có nụ mừng nụ”. Dẫu Hoa Kỳ và Việt Nam gặp nhau và thật sự hiểu nhau có phần muộn màng nhưng chẳng gì có thể cản trở tình cảm bạn bè thân thiết của chúng ta nảy nở. Riêng với Ngài Clinton và những thanh niên Mỹ khảng khái chống quân dịch năm xưa để phản đối cuộc chiến tranh ở Việt Nam, chúng tôi đã coi các vị là bạn thân của Việt Nam từ ngày ấy. Và 8 năm qua, trong hai nhiệm kỳ Tổng thống, Ngài đã làm nhiều việc mang ý nghĩa lịch sử giúp cho Việt Nam và Hoa Kỳ ngày thêm xích lại gần nhau. Những việc làm tốt đẹp ấy hẳn không bao giờ phai mờ trong trí nhớ của nhân dân hai nước chúng ta.
Tôi hy vọng những người kế tục sự nghiệp của Ngài và chính phủ Ngài, cũng như những nhà khoa học và những thương gia . . . sẽ không ngừng góp phần phát triển tình hữu nghị giữa nhân dân hai nước. Tôi tin tưởng rằng, với tinh thần tự lực cánh sinh, với sức mạnh trí tuệ và văn hóa của mình, lại nhận thêm được sự giúp đỡ khảng khái và hào hiệp của chính phủ và nhân dân các nước trên thế giới, nhất là của chính phủ và nhân dân Hoa Kỳ, sau khi đã giành được “hoà bình, độc lập và thống nhất”, chắc chắn nhân dân Việt Nam chúng tôi sẽ xây dựng thành công một nước Việt Nam dân chủ và giàu mạnh, đúng như di huấn của lãnh tụ Hồ Chí Minh và khát vọng ngàn đời của nhân dân chúng tôi.
Với tư cách một công dân Việt Nam, tôi xin gửi đến Ngài và nhân dân Hoa Kỳ lòng quý trọng và niềm hy vọng.
Kính chúc Ngài cùng quý quyến an khang và thịnh vượng.
Kính chúc tình hữu nghị giữa nhân dân Việt nam và nhân dân Hoa Kỳ ngày càng phát triển và bền vững.
Kính
Địa chỉ:
Trần Khuê
296-Nguyễn Trãi-Quận 5
TP Hồ Chí Minh
ĐT: (848) 8.363.825
E-mail: trankhue@hcm.fpt.vn
1 - TRƯỚC HẾT PHẢI TRUNG THÀNH VỚI AI :
TỔ QUỐC HAY ĐẢNG CỘNG SẢN ?
Đọc báo Nhân Dân, chúng tôi giật mình khi thấy đồng chí Lê Văn Dũng - Tổng tham mưu trưởng QĐNDVN - trong bài “ ...” viết rằng : “Quân đội ta phải trung với Đảng, trung với Nước, hiếu với Dân”.
Viết như thế này hóa ra đ/c Lê Văn Dũng đặt Đảng ở vị thế trên cả ĐẤT NƯỚC, trên cả TỔ QUỐC. Vậy, đúng hay sai ?
Chúng tôi không rõ đ/c Dũng viết theo ai hay tự nghĩ ra ?
Theo sự hiểu biết hạn hẹp của chúng tôi thì chưa có một văn bản, nghị quyết nào của Đảng viết như thế. Cũng chưa có sách vở lý luận nào dạy như thế. Mà có viết và dạy như thế cũng là sai, sai cả về lý luận và thực tiễn, đặc biệt là sai với tư tưởng Hồ Chí Minh.
Chuyện “trung hiếu” xưa vốn là chuyện của Khổng Mạnh.
Chuyện “trung hiếu” nay - trung hiếu kiểu mới - mang nội dung dân tộc hiện đại, đó là chuyện của Hồ Chí Minh. Ai cũng thấy Cụ Hồ rất giỏi trong việc đưa nội hàm mới vào trong các khái niệm cũ để cho mọi người dù ít học hay nhiều chữ nghĩa cũng đều hiểu rất nhanh đặng thực hành thắng lợi công cuộc kháng chiến và kiến quốc. Từ khái niệm hạn hẹp của ngàn xưa : “trung quân” tức là trung với vua, Cụ Hồ mở rộng thành trung với Nước ; từ “hiếu ư phụ mẫu” tức là hiếu với cha mẹ, Cụ mở rộng thành hiếu với Nhân Dân. Nếu chúng tôi không nhầm thì văn bản đầu tiên nói đến vấn đề này lá cờ thêu sáu chữ TRUNG VỚI NƯỚC, HIẾU VỚI DÂN mà chính Cụ Hồ đã tận tay trao tặng cho các học viên trường Lục quân Trần Quốc Tuấn khóa II ngày ... tại Việt Bắc.
Chữ nghĩa như thế và chính chữ nghĩa đúng đắn như thế khi đã thấm vào lòng người, nó đã trở thành những lực lượng tinh thần và vật chất bất khả chiến thắng.
Bất kỳ một kẻ thù nào đối đầu với một quân đội như thế đều phải hoặc là giơ tay đầu hàng (chủ nghĩa thực dân cũ) hoặc là cuốn cờ rút trong danh dự (chủ nghĩa thực dân mới).
Đánh nhau với bộ đội Việt Nam, mọi kẻ thù dứt khoát phải thất bại vì đó là QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM. Mọi kẻ thù không hiểu hoặc cố tình không chịu hiểu rằng đây là một thứ quân đội do Nhân Dân đẻ ra, Nhân Dân nuôi dưỡng, Nhân Dân che chở bảo vệ. Hãy tiêu diệt Nhân Dân này rồi mới tính được chuyện tiêu diệt Quân Đội này. Mà Nhân Dân này đã 4000 năm sừng sững trụ vững trên đất này, tìm đâu ra lực lượng nào tiêu diệt nổi ? Lịch sử chỉ thấy mọi lực lượng ngu xuẩn đụng đầu với Nhân Dân này đều chuốc lấy thất bại thảm hại. Thù Việt Nam thì cứ việc thù, còn những ai muốn tính đến chuyện phục thù Việt Nam, hãy coi chừng ! Xin vui vẻ thân ái nói rõ với nhau như thế !
Vởy, tại sao lại có chuyện đang “trung với Nước, hiếu với Dân” lại trở thành “trung với Đảng, hiếu với Dân”.
Ai đã từng nghiên cứu lịch sử Nước ta và lịch sử Đảng ta hẳn thấy rõ, đó là chuyện xảy ra vào thời kỳ sau khi Cụ Hồ qua đời. Việc Bộ Chính trị Lê Duẩn duyệt sự thay đổi này đã gây ra một phản ứng không nhỏ. Nó cũng tương tự như chuyện sau ngày toàn thắng 30-4-75, người ta cứ nhấn mạnh công ơn của Đảng đối với Dân. Mãi gần đây, Bộ Chính trị Lê Khả Phiêu mới điều chỉnh được rằng phải nhấn mạnh công ơn của Nhân Dân đối với Đảng. Như thế là trở lại với Hồ Chí Minh, vì đánh giá đúng vị thế của Nhân Dân là một bộ phận quan trọng về lý luận cũng như thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh.
Hình như đ/c Lê Văn Dũng cũng nhận thấy cần phải chấp hành chỉ thị của Bộ Chính trị và trở lại với Hồ Chí Minh. Nhưng sao đ/c lại trở về nửa vời như thế ? “Trung với Đảng, trung với Nước, hiếu với Dân”, viết như thế hóa ra được đặt trên cả Tổ Quốc và Nhân Dân.
Thú thật, chúng tôi cũng không rõ, trước khi được bổ nhiệm làm Tổng tham mưu trưởng QĐNDVN, đồng chí đã được học qua những học viện chính trị, học viện quân sự nào ? Chẳng lẽ ở những học viện đó người ta lại không giảng hoặc giảng sai một luận điểm hết sức quan trọng của Lê-nin : Theo sự phát triển tất yếu của xã hội thì đến một thời điểm nào đó nhà nước sẽ tiêu vong, giai cấp cũng tiêu vong và đảng cũng không tồn tại nữa, nhưng Tổ Quốc, Dân Tộc vẫn sẽ còn lại, còn lại cho đến khi không còn hành tinh và nhân loại. Cho nên, Cụ Hồ nói : “Tổ Quốc trên hết” là đúng, đúng với truyền thống, đúng với hiện tại và mãi mãi.
Vởy thì không được phép quên rằng nhiệm vụ của Quân Đội Nhân Dân là bảo vệ TỔ QUỐC và bảo vệ NHÂN DÂN, nghĩa là phải đặt tổ quốc trên hết, phải “trung với Nước, hiếu với Dân“.
Từng có nơi, có những người lãnh đạo ra lệnh cho quân đội bắn vào nhân dân, do đó họ phải ra hầu tòa. Hai cựu tổng thống Hàn Quốc Chung Đô Hoan và Rô-tê là những tấm gương tầy liếp. ậ phe ta thì có đ/c Đặng Tiểu Bình tuy thoát được tòa án pháp lý như vẫn phải ra hầu tòa án lịch sử.
Nhân Dân tha thứ hay không là quyền của Nhân Dân.
Mặc dù chưa bao giờ nguôi lòng căm ghét cái ông công sản lão thành Đặng Tiểu Bình từng mở miệng nói một câu đáng tởm : “Phải dạy cho Việt Nam một bài học” rồi dám lùa hàng chục vạn quân tràn qua biên giới cướp bóc, đánh phá nhân dân của một dân tộc anh em cùng phe XHCN với mình, xóa bỏ tình nghĩa “môi răng”, “vừa là đồng chí vừa là anh em”, chúng tôi vẫn khâm phục lòng tự trọng của ông và kêu gọi mọi người lãnh đạo nên học tập tinh thần tự trọng đó.
Mọi sự ân hận, sám hối đều đáng được hưởng lượng khoan hồng của Nhân Dân và hậu thế. Nói cho mọi người nào đã từng lầm lỗi hoặc đã trót nhúng tay vào tội ác hãy mau tỉnh ngộ.
Lưới trời lồng lộng, không một Chung Đô Hoan, một Đặng Tiểu Bình, môt Pinochê nào có thể trốn thoát. Tất cả những kẻ nào chủ trương dùng vũ lực để tàn sát nhân dân đều sẽ bị Nhân Dân và Lịch Sử tiêu diệt !
2 - SỬA ĐẢNG CHÍNH LÀ SỬA TẬN GỐC
Nhiều vị cứ thắc mắc với chúng tôi : thế ông giáo sư Phạm Minh Hạc xúc phạm đến anh và chị như thế nào ?
Chúng tôi xin trình bày vắn tắt như sau :
Giáo sư Phạm Minh Hạc, với thái độ niềm nở, lịch sự đã phát biểu ý kiến khá đúng và cũng khá là xúc phạm :
- Chúng tôi đã đọc kỹ tác phẩm “Đối thoại năm 2000” của hai đồng chí. Tôi thấy đây là một tác phẩm lý luận quan trọng, đề xuất được nhiều luận điểm lớn có tính cách xây dựng. Nhưng theo tôi có những dòng không nên đưa vào. Ví ndụ như mấy dòng ở trang : ... Đưa những dòng như thế này vào, nó làm nham nhở tác phẩm. Căn cứ vào những dòng như thế này làm người ta hiểu hình như ở ta luôn tiềm tàng một sự phản đối và Đảng ta vốn mang bản chất nhân đạo, đâu có thể để xảy những sự tàn sát như thế.
Chúng tôi cảm ơn lời khen của gs. Hạc va thanh minh rằng chúng tôi không chủ trương viết một tác phẩm lý luận, đồng thời cũng thẳng thắn phản bác lối dùng từ xúc phạm :
- Trong tác phẩm của chúng tôi, chúng tôi có đưa ra nhiều dự báo. Còn những chuyện như Quang Du, Thiên An Môn mà không xảy ra ở nước ta là điều đáng mừng, có gì cần phải nói. Còn bản chất nhân đạo của Đảng ta, chúng tôi đâu có lạ nhưng chúng tôi phản đối đ/c Phạm Minh Hạc đã dùng từ “nham nhở”. Thế nào là nham nhở ? Chúng ta không được dùng những từ như thế trong một cuộc thảo luận nghiêm túc ?
Đ/c Hạc vội vàng ngắt lời chúng tôi :
- Các đ/c đừng hiểu lầm, tôi dùng từ nham nhở này là trong ngoặc kép.
- Không ! Dù ngoặc kép hay không ngoặc kép thì vẫn là nham nhở. Chúng tôi coi đó là một sự xúc phạm. Chúng tôi sẽ phản bác bằng văn bản và chúng tôi cũng yêu cầu đ/c trả lời bằng văn bản. Chúng tôi không có quyền xúc phạm đ/c và đ/c cũng không được quyền xúc phạm chúng tôi. Mọi sự xúc phạm đều phải đưa ra tòa án dư luận, nếu cần đưa ra tòa án pháp lý.
Cho đến hôm nay, chúng tôi vẫn không hiểu đ/c Phạm Minh Hạc dùng từ “nham nhở” như thế là vô tình hay cố ý. Vô tình tức là không hiểu văn học dân gian. Còn cố ý là thiếu văn hóa trong tranh luận học thuật. Một chuyên gia nghiên cứu tâm lý học vào loại kỳ cựu như đ/c Hạc không thể không biết chuyện này.
Về bản chất nhân đạo cũa Đảng Cộng sản, chúng tôi chẳng có lý do gì để không nhất trí với đ/c Phạm Minh Hạc. Không nhân đạo thì việc gì mà phải đi tiên phong sẵn sàng vào nhà tù, lên máy chém chỉ để cho tất cả những nô lệ trên thế gian này đứng thẳng dậy làm người tự do. Cũng nên lấy làm buồn khi hàng vài chục năm nay, khi họp đảng, người ta quên cả việc hát “Quốc tế ca”.
“Vùng lên hỡi các nô lệ ở thế gian,
Vùng lên hỡi ai cực khổ bần hàn”.
Đáng buồn hơn nữa là “một bộ phận không nhỏ” đảng viên không thuộc Quốc tế ca, thậm chí không biết mặt mũi, không hiểu giai điệu hào hùng của Quốc tế ca ra làm sao. Tình hình này chắc chẳng phải chỉ riêng ở Ta mà ở Tàu, ở Tây cũng rứa !
Gần đây, ta đã phải có chỉ thị chấn chỉnh tình hình hát Quốc ca và Quốc tế ca nhưng xem ra việc chấp hành vẫn còn lác đác nhu nhơ lắm. Đây là trách nhiệm của các tổ chức nhà trường, tổ chức đảng, tổ chức đoàn thể hoặc tất cả các ban tổ chức hội nghị nói chung. Chúng tôi thích nói cụ thể như thế, không tán thành lối nói “”cơ quan chức năng” chung chung mà báo chí ta hiện nay hay dùng. Nhân đây chúng tôi đề nghị báo chí của ta phản ánh tình hình nên qui rõ trách nhiệm cho từng cơ quan cụ thể như Giao thông, Xây dựng, Ủy ban nhân dân, Công an, Tòa án, ... chứ không nên nói chung chung nữa.
Bản chất cộng sản là nhân đạo nhưng tại sao lại có nghịch lý này : có những đảng viên cao cấp lại hành động một cách vô nhân đạo không chỉ đối với nhân dân mà ngay đối với các đ/c trong Đảng của mình. Hiện tượng Stalin, Mao Trạch Đông, Đặng Tiểu Bình, Pôn-Pốt, ... được lặp đi lặp lại ở hầu hết các đảng cộng sản ở nhiều cấp độ khác nhau; ở ta, hiện tượng Lê Đức Thọ có nhẹ hơn nhưng những việc làm thất nhân tâm trái với bản chất cộng sản, bản chất dân tộc cũng không thể chấp nhận được.
Tất nhiên, việc luận công định tội đối với từng nhân vật lịch sử đều phải hết sức thận trọng, khách quan và công bằng. Đó là việc của đương thời nhưng chủ yếu là của hậu thế. Nên luôn luôn nghĩ đến sự đánh giá của hậu thế mà biết tiến, biết dừng, biết sống cho đúng và sống cho tốt.
Theo chúng tôi, sở dĩ các đảng cộng sản mắc sai lầm trầm trọng trong việc đối nhân xử thế là do mới sáng suốt trong việc tổ chức đấu tranh giành chính quyền và tổ chức các cuộc chiến tranh vệ quốc, nhưng lại chưa đủ sáng suốt trong việc tổ chức xây dựng một xã hội mới. Chỉ riêng Lê-nin biết mình cần phải làm gì để lãnh đạo nhân dân xây dựng một xã hội mới. Ông mới thật là người mácxít chân chính. Ông biết xuất phát từ thực tiễn Nga và thực tiễn của thời đại để định ra chủ trương đúng và hành động đúng. Tiếc rằng ông mất quá sớm và những người kế tục ông đã làm sai nên hỏng việc. Một thực thể cách mạng vĩ đại như thế mà chỉ tồn tại có 72 năm, thật là đau đớn cho tất cả những người nô lệ trên hành tinh.
Chúng tôi không tán thành với những ai nói và viết rằng sự sụp đổ và tan rã của Liên Xô và các nước Đông Âu vừa qua chỉ là bước thoái trào tạm thời của chủ nghĩa xã hội. Thực ra do lý luận sai lầm của Stalin và những người đi theo ông đã xây dựng một thứ CNXH không đúng qui luật và cũng không hợp với nguyên vọng của nhân dân. Cần nhắc lại rằng sự sụp đổ này không thể chỉ cắt nghĩa bằng nguyên nhân phản bội của một vài cá nhân hoặc sự “diễn biến hòa bình” của những lực lượng thù địch. Chúng tôi đã nêu trong văn bản “Chỉnh đốn để tồn tại và phát triển“, một lần nữa lại khẳng định rằng : quá trình chống lại qui luật, quá trình chống lại trí tuệ và bệnh “kiêu ngạo cộng sản” là ba nguyên nhân chủ yếu tạo ra sự sụp đổ chế độ XHCN. Đây là một sự mai táng vĩnh viễn đối với chế độ XHCN Stalin, một thực thể chính trị - kinh tế - xã hội phi qui luật và phi nhân đạo. Cũng nên tỉnh táo và phân biệt cho rõ chế độ XHCN đã thành hiện thực của Stalin và chế độ XHCN mới ở trên bình diện lý thuyết của Mác. Một lần nữa lại xin được phép thẳng thắn chất vấn Ban soạn thảo văn kiện Đại hội IX :
- Các đ/c vạch mục tiêu chiến lược cho toàn Dân, toàn Đảng ta đi lên CNXH thì đó là CNXH nào ? CNXH lý thuyết của Mác ư ? Còn lâu mới đến lượt Việt Nam chúng ta. Ngay Trung Quốc làm ăn khá như thế mà đ/c Đặng Tiểu Bình còn phải phán rằng phải cần 100 năm nữa. Vậy, Việt Nam ta định “đốt cháy giai đoạn” cho nó ngót 100 năm chăng ?
- CNXH Stalin ư ? Chúng ta đã làm thử rồi. Đại hội VI (1986) đã khẳng định đường lối XHCN Stalin do Đại hội IV đề ra và Đại hội V nói tiếp là sai lầm. Và nhờ đường lối đổi mới kịp thời của Đại hội VI nên ta đã tránh được sụp đổ để có thể tồn tại và phát triển.
Chúng tôi vẫn khẳng định rằng Việt Nam ta chỉ có thể tiến hành xây dựng CNXH Hồ Chí Minh mới thích hợp với trình độ phát triển của ta hiện nay.
Rất tiếc, không có ai trong giới lý luận mặn mà thảo luận. Chỉ riêng có đ/c giáo sư - viện sĩ Nguyễn Duy Quý - một thành viên của đoàn đại biểu lý luận khoa học xã hội Việt Nam đã qua hai lần thảo luận với đoàn đại biểu lý luận Trung Quốc về CNXH ở thế kỷ XXI - phản đối bâng quơ :
...
Tạp chí Triết học số ... trang ...
Xin hỏi đ/c Nguyễn Duy Quý :
- Cái mà Trung Quốc gọi là “CNXH mang đặc sắc Trung Quốc”, nếu không phải là CNXH dân tộc thì nó thuộc loại CNXH nào ? Nếu đ/c không đồng ý xây dựng CNXH dân tộc ở những nước chậm phát triển như Trung Quốc và ta, nhất là với Bắc Triều Tiên và Cu-ba thì đ/c định xây dựng CNXH nào ?
Vấn đề có vẻ đơn giản nhưng lại cực kỳ nghiêm trọng vì chính ở đây mới đúng là "sai một ly đi một dặm". Chẳng phải vì xác định đường lối XHCN một cách sai lầm mà từ sau Đại hội III (1960) đến nay, nền kinh tế của chúng ta cứ lao đao, chệnh choạng, trì trệ đó sao ?
Chúng tôi xin nhắc lại : nếu nói chúng ta phải theo CN Mác-Lênin thì cũng nên hiểu theo tinh thần Hồ Chí Minh là chúng ta tiếp nhận phép biện chứng mácxít chứ không phải theo từng câu từng chữ trong các văn bản của Mác và Lênin. Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản hay thật đấy nhưng chúng tôi đã chứng minh rằng có nhiều dòng, nhiều ý, nhiều câu chữ hoàn toàn không thích hợp với Việt Nam, không thể vận dụng được, dù là "vận dụng sáng tạo". Thí dụ như các vấn đề thực hiện "chuyên chính vô sản", "xóa bỏ quyền tư hữu", v.v.
Những đồng chí chủ trương đưa Điều 6 của Hiến pháp Liên Xô thành Điều 4 của Hiến pháp Việt Nam, những đồng chí kiên trì giữ lại Điều 4 hiện nay và kiên trì giữ lại các xí nghiệp quốc doanh để bù lỗ, kiên trì cho báo chí quốc doanh giữ độc quyền ngôn luận, kiên trì tiêu diệt những ai có ý kiến "đa nguyên", "đa đảng", ... chính là do ngấm quá sâu các luận điểm trên của Tuyên ngôn.
Nếu chịu bỏ công khảo sát thực tiễn Việt Nam một cách thực sự khoa học thì ta sẽ dễ nhận thấy việc vận dụng cứng nhắc những "giáo điều" của Mác và Enghen cũng như việc quay lưng lại với những "điều dạy" của Lênin đã đưa đến những hệ quả hết sức tai hại. Ví như mới nhìn tình hình các cấp ủy Đảng và các cấp chính quyền tùy tiện chiếm đất, tùy tiện cấp đất, tùy tiện giải tỏa, tùy tiện định giá đền bù ... (cũng như trước đây tùy tiện tịch thu nhà cửa đất đai và cho đến nay đã thấy sai vẫn không trả lại), người ta lại tưởng đó chỉ là vấn đề thoái hóa đạo đức của cán bộ và đảng viên. Do đó mới có những người kê đơn "tu thân", "chống chủ nghĩa cá nhân", ...
Không phải ! Ta kết nạp toàn những người ưu tú vào Đảng, sao lại có thể có tình hình đảng viên thoái hóa biến chất nhanh đến như thế, phổ biến đến như thế ? Nói "một bộ phận" là không đúng. Sửa lại thành "một bộ phận không nhỏ" thì chẳng qua cũng chỉ là cách nói để biểu hiện số cán bộ thoái hóa là đông là nhiều.
Kỷ luật hay xét xử tất cả cũng không được, vì hàng triệu đảng viên này đang làm sai một cách rất đúng, đúng với luật đất đai mà Quốc hội đã thông qua. Do đó, phải sửa cái gốc là luật. Mà luật sai lại bắt nguồn từ luận điểm "xóa quyền tư hữu" nằm ngay trong Tuyên ngôn. Cho nên cái gốc của cái gốc là cái phần nhận thức lý luận của chúng ta. Nhận thức sai, lý luận sai làm sao lại có thể hành động đúng được. Chúng tôi phản đối các đ/c giáo điều lúc nào cũng bênh chầm chập Mác, vin vào Mác mà làm sai. Và chúng tôi cũng phản đối cả những người, những lực lượng nào cứ căn cứ vào cái thực tiễn làm sai để chê bai Mác, phủ định Mác.
Những dự báo của Mác, công bằng mà nói là rất đẹp. Còn đúng hay không, đợi các cuộc cách mạng ở các nước G7 trả lời. Quyền trả lời này cũng chưa đến phần chúng ta.
Trong ba buổi tọa đàm với tiến sĩ Hà Sĩ Phu và một số nhân sĩ ở Đà Lạt, chúng tôi cũng đã tranh luận khá thẳng thắn và gay gắt về những điểm này.
Thực tình, chúng tôi không dám khuyên bảo ai, mà có khuyên bảo cũng chẳng được. Chúng tôi chỉ xin lưu ý cnhắc nhở : những đ/c "giáo điều" thì nên vui lòng khảo sát kỹ hơn nữa thực tiễn của Việt Nam ta mà soạn thảo luật lệ, nghị quyết, văn kiện, v.v. ; còn những đ/c "xét lại" thì nên vui lòng bỏ thì giờ vàng ngọc đọc lại một quyển thôi "Marx, nhà tư tưởng của cái có thể", nếu rỗi rãi có thể đọc thêm "Marx, người vượt thời đại". Cả hai ông Michel Vadet và Belside đều là là các học giả tư sản cả đấy ạ.
Và trân trọng kiến nghị Đảng và Nhà Nước ta giữ vai trò chủ đạo và điều tiết xã hội, hãy tổ chức các diễn đàn để cho cả hai bên "giáo điều" và "xét lại" tự do tranh luận, miễn mọi sự theo dõi, trù dập, cách ly, bỏ tù nhau một cách vô lối và vô pháp luật.
Xét cho cùng, việc CNXH thất bại trong keo vật vừa qua không phải do CNTB thắng mà do CNXH tự thua. Phải phân tích cho kỹ vì sao lại có chuyện tự thua ấy để không tiếp tục thua nữa. Thực tế lịch sử đã xác nhận CNXH đã từng có thời kỳ tỏ ra có sức sống, khỏe khoắn hào hùng, nhưng thời kỳ đó đã qua rồi. Không nên ngoái cổ luyến tiếc và sống bằng hoài niệm. Người cách mạng phải có gan nhìn thẳng vào thực tại và gq có hiệu quả những vấn đề của hiện tại. Cộng hòa Cuba một thời gian dài không chịu chấp nhận kinh tế thị trường nên hết sức lúng túng. Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên, cho đến năm 2000 vẫn chưa biết cách thoát ra bằng lối nào. Cộng hòa nhân dân Trung Hoa tỏ ra khôn ngoan hơn : tuyên bố xây dựng CNXH mang đặc sắc Trung Quốc, làm kinh tế thị trường XHCN. Thực chất họ đang làm kinh tế TBCN. Làm kinh tế TBCN mà không thi hành luật pháp cho nghiêm, không có dân chủ lại sợ tự do ngôn luận, sợ đa nguyên, đa đảng ... thì tham nhũng nảy nở sinh sôi là điều hiển nhiên và tất yếu. Dù có bắn bỏ phó chủ tịch, cách bỏ hàng loạt bí thư tỉnh ủy hoặc ủy viên trung ương cũng chẳng thể ngăn chặn được. Thay thủ tướng Lý Bằng bằng thủ tướng Chu Dung Cơ đầy mưu lược cũng chẳng giải quyết được tình hình thua lỗ của các xí nghiệp quốc doanh, không cách nào tiết nọc được nòi tham nhũng. Có nhiều người cứ kêu tại sao ta lại giống Tàu thế ?
- Thì cũng cùng một CNXH, cùng một cơ chế như nhau. Chẳng qua họ tiến nhanh hơn là do họ khôn hơn. Họ lẳng lặng từ bỏ CNXH Stalin. Họ bỏ từ từ, ta cũng bỏ tư từ. Nhưng caí tốc độ từ từ của họ nhanh hơn ta nhiều. Riêng cái chuyện họ không nhắc đến chủ nghĩa Lênin, tuyên bố một nước Trung Hoa hai chế độ, lại bàn nhau giúp các lãnh đạo bô lão về tuyến 2 ... Thế là khôn quá đi chứ ! Thế là "đặc sắc" Trung Quốc. Thế là "CNXH mang đặc sắc Trung Quốc".
CHúng tôi cũng chẳng hiểu đ/c giáo sư viện sĩ Nguyễn Duy Quý dựa trên cơ sở nào để phản đối "chủ nghĩa xã hội dân tộc". Chúng tôi đưa ra chủ nghĩa xã hội dân tộc Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội Việt Nam, đ/c Quý lại khủng khỉnh, vờ vịt coi như không trông thấy, không nghe thấy. Cả Ban soạn thảo văn kiện Đại hội IX cũng đánh bài phớt lờ.
Xin phép hỏi thêm một lần nữa : cái CNXH mà các đ/c kiên quyết khẳng định, kiên trì dẫn dắt chúng tôi đi theo, nó là thứ CNXH nào vậy ? Riêng bài của giáo sư Lê Hữu Tầng, phó giám đốc Trung Tảm KHXH và nhân văn quốc gia đăng trên Tạp chí Triết học số *** chúng tôi mạn phép không bàn tới vì đó chẳng qua chỉ là thứ lý luận tư biện, sao đi chép lại, trích dẫn đủ các thứ "kinh điển" không có quan hệ gì đến thực tiễn Việt Nam cả. Và toàn bài, đ/c Tầng cũng không dám đề xuất một vấn đề nào của thực tiễn Việt Nam nóng bỏng hiện nay để giải quyết dứt điểm về mặt lý luận. Dù đ/c Tầng có không hài lòng, chúng tôi cũng xin nói thẳng nghiên cứu triết học theo lề lối như thế là vô bổ, thậmchí còn hết sức có hại.
Lâu nay, lối nghiên cứu triết học và lý luận như thế này đã đưa đến một sự ngộ nhận nguy hiểm. Hiện nay rất nhiều người cứ tưởng nhầm rằng ai thạo sao chép, thạo trích dẫn là đang làm công tác nghiên cứu lý luận, nghiên cứu triết học. Trân trọng kiến nghị các bậc đàn anh đã từng nổi tiếng và có uy tín về kiểu nghiên cứu này hãy can đảm tự phê bình, và cao hơn là biết sám hối để cho các lớp nghiên cứu đàn em tránh được những vết xe này.
Như chúng tôi đã từ trình bày trong hai tác phẩm trước ("Chỉnh đốn để tồnbtại và phát triển", "Đối thoại năm 2000") rằng CNXH mà Mác quan niệm rất khác với CNXH mà Lênin quan niệm sua này. CNXH lý thuyết của Mác chỉ có thể thành công ở thời kỳ hậu tư bản, nghĩa là cách mạng XHCN chỉ có thể thành công ở những nước tư bản phát triển nhất, thậm chí chỉ thành công ở thời kỳ toàn bộ hành tinh đã làm xong CNTB. Còn CNXH thực tiễn của Lê nin là CNXH có thể thành công ở một nước phát triển TBCN trung bình như nước Nga. Lênin chủ trương đánh vào mắt xích yếu nhất trong dây xích TBCN. Như thế là Lênin nhận định hoàn toàn khác với Mác và ông đã hành động sai với chủ trương của Mác. Ông sai với lý luận Mác nhưng lại đúng với thực tiễn Nga nên mới tạo ra một cách mạng tháng Mười vĩ đại đến như thế. Như sau khi chiến thắng liên quân 14 nước và thắng bọn Bạch vệ trong cuộc nội chiến, ông cũng lúng túng không biết đưa nước Nga tiến lên như thế nào. Chính sách cộng sản thời chiến thì lỗi thời không dùng được nữa. Do đó, ông rất mừng khi tiếp nhận chính sách kinh tế mới của Trotsky, một ủy viên trung ương thân cận với Lênin - và ông yêu cầu Trotsky hãy dũng cảm bảo vệ thắng lợi "chính sách kinh tế mới" trước Ban chấp hành Đảng cộng sản Nga. Điều không may mắn cho cách mạng XNCH Nga là Lênin mất và "chính sách kinh tế mới" bị Stalin xổ toẹt.
Vì vậy, chúng tôi vẫn tiếp tục khẳng định rằng mọi chuyện tan rã sụp đổ của hệ thống XHCN là bắt nguồn từ Stalin, từ những lý luận sai lầm của Stalin (xem cuốn những vấn đề kinh tế xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô).
Lý luận về CNXH của Stalin thực thi ở Liên Xô còn hỏng thì toàn bộ hệ thống XHCN làm theo lý luận đó mà đều hỏng thì có gì là lạ. Nhưng vì xuất phát từ lòng kính trọng Stalin về những công lao của ông nên giới lý luận ở ta cũng như ở nhiều nước chỉ dám nói : đây là mô hình CNXH Xô Viết có những khuyết tật chứ không dám nói rằng mô hình này sai vì do lý luận của Stalin sai. Một điều hết sức khó khăn là : Stalin sai là sai với Lênin nhưng lại hoàn toàn đúng với Mác. Do đó, chúng tôi mới nói là ông đã sai một cách rất đúng. Nhưng một nghịch lý không thể giải quyết được và cũng khó nhận thức ra là Stalin càng làm đúng thì lại càng sai. Nghĩa là ông càng đúng với lý luận Mác bao nhiêu thì ông càng sai với thực tiễn Nga và thực tiễn thế giới. Chắc chắn nhiều người sẽ phản đối khi chúng tôi kết luận rằng : khi Stalin không đếm xỉa đến thực tiễn Nga, phủ nhận những chính sách đúng đắn của Lênin thì Stalin không phải chỉ chống Lênin mà đồng thời chống Mác. Vì linh hồn của CN Mác chính là phép biện chứng mácxít.
Do đó, chúng tôi hoàn toàn có cơ sở để khẳng định rằng Hồ Chí Minh nắm vững phép biện chứng mácxít và đưa sự nghiệp giải phóng dân tộc đến thắng lợi. Chính thành công vĩ đại này đã đưa Cụ gia nhập hàng ngũ những vị thánh cứu nước của Việt Nam. Cũng có những người đầy thiện ý khi khuyên chúng tôi : các vị cũng nên ca tụng cụ Hồ vừa phải thôi.
Không ! Chúng tôi không hề làm chuyện ca tụng. Chúng tôi chỉ trình bày một thực tiễn Việt Nam, một thực tiễn của đời sống tâm linh Việt Nam. Dân tộc Việt Nam thờ Cụ với tư cách là một bậc thánh cứu nước. Thế giới tôn vinh Cụ với tư cách một anh hùng giải phóng dân tộc và một danh nhân văn hóa kiệt xuất.
Chúng tôi không dám khuyên bảo ai cả, chỉ chân thành lưu ý những ai muốn nói đến Hồ Chí Minh thì cần nhớ rằng : động đến Hồ Chí Minh tức là động đến Nhân Dân, động đến cả một dân tộc có truyền thống thờ cùng tổ tiên và sùng bái thần thánh.
Tranh luận cứ việc tranh luận nhưng đừng quên rằng phải tôn trọng đời sống tâm linh của Dân Tộc.
Nhân đây chúng tôi cũng cảm ơn đ/c thiếu tướng Trần Nhật Độ đã gửi cho chúng tôi một bức thư với lời lẽ ưu ái và nhiều ý kiến tranh luận thẳng thắn. Riêng với ý kiến nói rằng : "các bạn "ra đòn" với Stalin nặng quá", chúng tôi xin thưa rằng chúng tôi không dám phê phán gì Stalin cả. Với tư cách người nghiên cứu, chúng tôi chỉ trình bày vấn đề đúng sai phải trái và mời mọi người tham gia tranh luận để cùng nhau tìm ra một lối thoát cho Việt Nam, giúp cho Việt Nam chúng ta mau chóng phát triển kịp tiến bước mà sánh vai với các nước tiên tiến trên thế giới.
Có thể chúng tôi bị chê là ảo tưởng và lãng mạn thái quá. Không, chúng tôi tin vào trí tuệ Việt Nam, tin vào tiềm lực văn hóa của Việt Nam mà đặt vấn đề hy vọng như thế.
Chúng tôi rất lấy làm lạ, chẳng lẽ các đ/c ở Hội đồng lý luận Trung ương, ở Viện Triết học, ở Học viện chính trị quốc gia, ... lại không thấy được cái sai của Stalin trong việc đặt dấu nối giữa cụm từ Mác-Lênin hay sao ? Nếu chúng tôi không nhớ nhầm thì vào thập kỷ 20, Nguyễn Ái Quốc và nhiều người khác vẫn nói chủ nghĩa Mác riêng, chủ nghĩa Lênin riêng, chứ không hề ói gộp chủ nghĩa Mác-Lênin như sau này mọi người thường nói và viết.
Xin hỏi Ban soạn thảo văn kiện của Đại hội IX, các đ/c có hiểu chủ nghĩa Mác-Lênin này là thế nào không ?
Mong các đ/c vui lòng giải thích tóm tắt cho mọi người nghe.
Việt Nam ta phải theo CN Mác-Lênin. Vậy là theo Mác hay theo Lênin ?
Riêng trong lĩnh vực kinh tế hiện nay thì luận điểm nào của Mác thích hợp, luận điểm nào của Lênin thích hợp ?
Chúng tôi ngờ rằng hiện nay rất nhiều việc chúng ta lúng túng không biết xử lý ra sao vì phân biệt đúng sai rất khó. Vừa rồi, trên đài truyền hình, các đ/c Hà Đăng, Lê Hữu Tầng, Lưu Minh Hồ ... dõng dạc giải thích rằng chúng ta phải xây dựng nền kinh tế trên cơ sở công hữu. Thế thì đúng với Tuyên ngôn Đảng Cộng sản của Mác quá rồi còn gì. Sau đó các đ/c lại bảo phải làm kinh tế nhiều thành phần. Thế là đúng với Lênin quá rồi còn gì. Nhưng rõ ràng cũng chống lại Mác. Các đ/c không biết rằng nông dân và các tầng lớp nhân dân khác ở 61 tỉnh đều kêu ầm phản đối việc chiếm đất là do cái luận điểm công hữu này. Xin thưa với các đ/c, muốn xóa quyền tư hữu về ruộng đất cũng như về các tư liệu sản xuất khác ở đất nước này tối thiểu cũng phải 100 năm nữa. Rõ ràng, đó không phải là công việc của thế hệ chúng ta. Đâu có phải chúng ta cứ ghét hoặc sợ "quyền tư hữu" rồi tùy tiện xóa bỏ, tùy tiện công hữu hóa những gì không thể công hữu hóa trong tình hình hiện nay được.
Các đ/c dự định chúng ta sẽ bù lỗ cho các xí nghiệp quốc doanh đếnnăm nào của thập niên này ? Và lấy tiền thuế của nhân dân đóng góp để bù lỗ hay lấy tiền vay nợ ODA để bù lỗ ?
Chẳng lẽ chúng ta vui lòng để cho giai cấp nông dân sau 30 năm kháng chiến và 25 năm hòa bình đã ra sức kéo cày trả nợ, miễn là giữ vững CNXH, giữ vững định hướng XHCN. Chúng ta không có quyền vô trách nhiệm như thế. Và chắc chắn mọi tầng lớp nhân dân cũng không chấp nhận những thứ lý luận vớ vẩn và một thực tiễn tệ hại như thế.
Chủ nghĩa Mác vẫn là một học thuyết lớn của nhân loại, một học thuyết có giá trị lớn ở thế kỷ XX. Chúng ta không có quyền vận dụng sai để góp phần bôi nhọ và phủ nhận CN Mác. Hình như giai cấp tư sản và những nhà lý luận tử tế hơn các đ/c nhiều. Người ta ghét chủ nghĩa Mác, thậm chí thù địch với nó thế mà người ta đọc nó, nghiền ngẫm nó một cách nghiêm túc, khoa học. Còn các đ/c của ta thì đọc lớt phớt, nghiền ngẫm thì hiếm rồi, còn sao chép trích dẫn thì rất nhanh, rất thành thạo.
Khoan, xin đừng vội thanh minh hoặc phản đối chúng tôi. Vì điểm lại tất cả những gì gọi là sai lầm của Đảng ta trong quá khứ đều hoặc do nhân dân phát hiện hoặc các đ/c lãnh đạo Đảng thấy tình hình gay quá không sửa nhanh thì nguy chứ tuyệt nhiên không thấy một người làm lý luận chuyên nghiệp nào hoặc một cơ quan nghiên cứu lý luận nào công bố những công trình phát hiện của mình về những sai lầm đó. Chắc sẽ có đ/c cãi rằng chúng tôi cũng biết cả nhưng nói sao được.
Thế là hèn nhát hoặc vô trách nhiệm, không đáng mặt làm lý luận, nên tìm công việc khác thích hợp với bản chất của mình nếu còn lòng tự trọng. Đ/c Hữu Thọ còn bảo rằng chúng tôi "phê phán nhiều người quá, họ không nói lại được, không cẩn thận họ kiện cho".
Thử hỏi ý thức dân chủ của họ, ý thức về quyền tự do ngôn luận của họ, họ cất giấu đi đâu ? Còn nếu những điều mà chúng tôi nói không phải là sự thật, chỉ là những điều vu cáo xúc phạm đến danh dự của họ, họ vẫn cứ việc sử dụng quyền công dân của mình. Hay ý thức công dân lại cũng thiếu nốt ?
Hiện nay, sau gần một năm nghiên cứu, bàn bạc, chúng tôi được tin các ông Trần Bạch Đằng, Nguyễn Thế nghĩa và nhiều vị liên đới hội thảo Gia Long, hội thảo Việt Nhật, ... lại liên minh với ông Nguyễn Duy Quý ở Hà Nội tìm cách "phản kích" chúng tôi. Nghe đâu họ cũng không đủ gan chơi "bài lật ngửa" mà lại dùng một "sách" quá cũ : kích động quần chúng viết thư nặc danh phản đối lên tận trung ương.
Nói như thế để thấy rằng đ/c Hữu Thọ đừng lo rằng họ thiếu mưu chước, chỉ có điều họ vẫn còn đang lúng túng về vấn đề 17.300 USD (mười bảy ngàn ba trăm đô la Mỹ) mà Bộ ngoại giao Nhật đòi hoàn lại về vụ Hội thảo Việt Nhật lần thứ hai không thành. Thu lại cho đủ tiền chia chác ấy là khó mà ông Viện trưởng Nguyễn Thế Nghĩa trích giữ của Viện để trả nợ đây cũng dứt khoát là không ổn. Chúng tôi kiến nghị với Trung ương : Nếu vì lẽ nào đó, ông giám đốc Trung tâm KHXH và NVQG Nguyễn Duy Quý không có khả năng tổ chức việc thanh tra để làm sáng tỏ chuyện này thì Ban thanh tra chính phủ tổ chức thanh tra để có những kết luận về vụ Việt Nhật và tất cả những vụ khuất tất của Viện KHXH tại TP Hồ Chí Minh trong 25 năm vừa qua.
Nói cho họ biết, cái luận điệu "họ lại dám chống cả viện, bôi nhọ viện" là một thứ luận điệu vu cáo mang tính "kích động" lỗi thời cũ rích rồi.
Với tư cách những người chủ đất nước, thì Viện này, Trung tâm này hay nói rộng ra cả Nhân dân này và Đất nước này là của chúng tôi. Họ đừng bao giờ quên điều đó. Chúng tôi chỉ làm trách nhiệm vạch mặt những kẻ nào vì đặc quyền đặc lợi của bản thân hay phe nhóm mà nhẫn tâm làm hại Nhân dân, làm hại Đất nước. Vu cáo cho chủ bây giờ cũng khó đấy ! Nhân đây chúng tôi hỏi anh chị em trong Viện và ngay các đ/c trong Đảng bộ Viện do hiểu rõ những thiếu sót, sai lầm của anh Nguyễn Thế Nghĩa nên Đại hội vừa qua không bầu anh vào Đảng ủy, vậy vì sao ông Nguyễn Duy Quý lại bổ sung anh ta vào Đảng ủy Viện ?
Thực tình chúng tôi không chúng ta đặt ra những "lệ" như thế từ bao giờ. Chúng tôi gọi là "lệ" vì không coi đây là những nguyên tắc đúng đắn của một đảng cách mạng. Đã tổ chức bầu cử dân chủ ở trong Đảng thì phải tin vào trí tuệ của từng đảng viên. Ai thấy mình có đủ năng lực ra gánh vác công việc của tổ chức thì tự nguyện ứng củ. Thấy đ/c nào đủ năng lực và tinh thần trách nhiệm xứng đáng là người lãnh đạo cấp ủy thì mình bỏ phiếu cho người ta. Đã bỏ phiếu tín nhiệm người ta rồi thì phải hết lòng ủng hộ giúp đỡ người ta hoàn thành trách nhiệm. Ngay cả với người mà mình không tín nhiệm nhưng đa số đã tín nhiệm bầu, mình cũng phải phục tùng đa số mà ủng hộ người đã trúng cử. Nếu quả tập thể có bầu nhầm thì nhầm một khóa, chẳng lẽ nhầm mãi mãi. Nguyên tắc đơn giản là thế mà không hiểu vì sao chúng ta không chịu theo. Chẳng lẽ cứ dự kiến rồi bầu không trúng dự kiến lại gò Đại hội bầu hết vòng này đến vòng khác mới đúng nguyên tắc Lêninít chăng ? Có nơi phải bầu đên ba vòng đến nỗi các đại biểu cũng mệt và đói bảo nhau bỏ cho xong đi. Giờ lại thêm cái lệ mới không trúng cũng cứ bổ sung nghĩa là dù không được Đại hội tín nhiệm nhưng vẫn nghiễm nhiên vào cấp ủy. Thật là một sự khinh thị và trà đạp quyền dân chủ của người đảng viên một cách trắng trợn. Chính bầu cử kiểu này nên mới dẫn đến tình trạng phe cánh trong đảng. Người thấy kẻ không được mình tín nhiệm mà vẫn trúng thì ấm ức. Kẻ thấy mình được cấp trên tín nhiệm, yên chí có ô dù che chở rất dễ sinh thói chuyên quyền làm bậy, chưa kể còn có những kẻ vô lương tâm tìm cách trù diệt những người đồng chí không ăn cánh với mình. Lục đục với nhau cả một khóa 4,5 năm liền thử hỏi làm thế nào mà tạo ra sức mạnh cho Đảng. Quần chúng nhiều khi ngơ ngác chẳng còn biết theo phe nào hay phái nào. Còn cách nhà nghiên cứu lý luận thì lo kêu gọi họ "tu thân" và chống chủ nghĩa cá nhân. Trung ương thì kêu gọi họ phải đoàn kết và nâng cao đạo đức cách mạng.
Theo chúng tôi hiểu, không thể để tình trạng như thế này tái diễn ở thế kỷ XXI vì đơn giản là làm cho Đảng yếu đi chính là mang lại tai họa cho Nhân dân và Đất nước.
Ở Đại hội IX sắp tới, chúng tôi thấy cũng cần cải cách ngay. Không biết từ hồi nào mà ngay bầu ở Trung ương lại để một vài đ/c đứng ra dự kiến hết người nọ đến người kia. Chúng ta đã đề ra khẩu hiệu "đoàn kết, trí tuệ, dân chủ, ..." thì chúng ta cứ thử tin vào trí tuệ của các đại biểu xem sao. Toàn các đại biểu ưu tú do cơ sở cử lên lại không tin thì tin ai bây giờ. Chúng ta cũng nên bỏ cái lối họp đại hội thử đi. Vừa tốn kém lại vừa tỏ ra là không tin nhau. Mình còn không tin mình thì kêu gọi nhân dân tin mình thế nào được. Chúng tôi thấy nhiều đ/c lão thành cách mạng đang sinh hoạt ở CLB Thăng Long - Ba Đình cũng nghĩ như chúng tôi. Có cụ còn nói thời Bác Hồ không thấy phải họp thử như thế bao giờ.
Lại nhớ đến có một đại hội đã bầu thử không may chưa kịp đến Đại hội chính thức thì một một đ/c được bầu vào Bộ Chính trị đã đột tử. Thế mà khi đại hội chính thức họp cũng cứ phải bỏ phiếu cho người đã chết theo đúng quyết định của đại hội họp thử. Cứng nhắc đến thế là cùng !
Tất nhiên, bầu người sống hay người chết cũng tùy quyền mình mà thôi. Nhưng cái nguy nhất của vấn đề là ở chỗ việc bầu một người đã chết vào Bộ Chính trị là một việc không bình thường, một việc bất đắc dĩ, một sự cứng nhắc theo cơ chế bầu cử của ta. Thế mà mọi người lại coi là bình thường, là hợp lý. Cứ cái nếp nghĩ này thì hình thành dần dần coi mọi cái phi lý trở thành hợp lý và những cái hợp lý lại trở thành phi lý. Và chính điểm này mới là điểm cơ bản làm tar1i với chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa Lênin và chủ nghĩa Hồ Chí Minh. Chúng tôi sẽ có bài riêng trình bày với công luận rằng dựa trên cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn nào mà chúng tôi gọi là chủ nghĩa Hồ Chí Minh.
Chúng tôi thấy cái nhầm cơ bản của phe XNCH chúng ta là : hầu hết các nước trong phe đều ở trình độ kinh tế phát triển trung bình và dưới trung bình nhưng đều bảo nhau vận dụng những lý thuyết cao xạ của Mác, một lý thuyết chỉ có khả năng vận dụng vào những nước phát triển nhất của thế giới TBCN. Hình như mọi nước trong phe đều hiểu điều đó nên vẫn dè dặt gọi nước mình là Cộng hòa dân chủ hoặc Cộng hòa nhân dân. Chỉ có nước anh cả dám nhận mình là Liên bang các nước Cộng hòa XNCH Xô Viết, gọi tắt là Liên XÔ. Và rất tiếc Liên Xô chỉ tồn tại được có 72 năm. Ngoài Liên Xô chỉ còn riêng có Việt Nam ta từ sau Đại hội IV cũng tự phong mình là nước cộng hòa XNCH Việt Nam. Thế là độc đáo nhưng không tránh khỏi có phần tùy tiện. Chúng tôi đã từng nói việc đổi lại tên nước hay không, không quan trọng bằngviệc nhận diện cho chính xác và phân tích cho thật thấu đáo tình hình thực tiễn của Việt Nam ta để định hướng và quyết định đường đi nước bước cho chính xác đối với từng giai đoạn.
CNXH trên lý thuyết với những viễn cảnh mà chúng ta từng hình dung, tưởng tượng, mơ ước thì rõ ràng là tươi đẹp, đáng bỏ công sức ra để xây dựng, mà chúng ta cũng đã từng bỏ công xây dựng 20 năm trên miền Bắc và 10 năm trên cả nước. Chúng ta làm theo đúng như lời chỉ dạy của Stalin nghĩa là rất đúng với lý thuyết của Mác. Nhưng càng làm chúng ta càng thấy không thích hợp, chỉ thấy trì trệ và khủng hoảng. Nhìn ra toàn phe ta cũng đều thấy như thế cả. Đáng lẽ khi thấy Đông Âu và Liên Xô tan rã, sụp đổ, chúng ta đau xót thật nhưng cũng phải mở mắt ra chứ. Tại sao có một số đ/c cứ cố tình nhắm mắt lại rồi còn ngụy biện, bào chữa cho sự sụp đổ đó. Không phải chúng tôi không thông cảm với tâm trạng các đ/c nhưng lòng mong muốn, lòng thương xót cho dù sâu sắc đến mấy cũng không thể làm cho người chết sống lại được. Tất nhiên, hoàn toàn không thể thông cảm mà còn căm ghét những kẻ nào miệng nói, tay viết : "Phải bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin", "bảo vệ CNXH". Thậm chí, họ còn dám nói rằng "phải bảo vệ tư tưởng Hồ Chí Minh", nhưng nhân dân bị ức hiếp, đói khổ thì họ lờ đi. Họ vô liêm sỉ đến mức mang tiền "xóa đói giảm nghèo" hàng trăm tỷ để đi đánh chén và chia chác với nhau. Nếu dăm ba nơi xảy ra chuyện như thế thì còn có thể gọi là cá biệt hoặc một bộ phận. Nhưng trên toàn quốc, hầu như 61 tỉnh đều xảy ra tham nhũng mà tại sao Ban soạn thảo văn kiện lại dám viết rằng "một bộ phận cán bộ đảng viên" ? Một bộ phận là bao nhiêu ? CHúng ta phải thoát nhanh khỏi cái lối nói, lối nghĩ chung chung mơ hồ như thế này. Đưa cả một cuộc cách mạng phát triển, đưa cả một dân tộc tiến lên trong thế kỷ XXI, đâu phải chuyện đùa mà chúng ta có thể cứ giữ nguyên não trạng như vậy. Góo ý mãi thì mới sửa được thành "một bộ phận không nhỏ". Một bộ phận không nhỏ cụ thể là bao nhiêu ? Miệng thì nói theo CN Mác nhưng đầu lại không nghĩ nổi "chân lý là cụ thể". CHính bè lũ tham nhũng và bọn bao che cho bè lũ tham nhũng núp dưới sự mơ hồ cụ thể này mà tiếp tục hoành hành, tác oai tác quái, phá hoại tất cả những gì tốt đẹp phải tốn bao xương máu mới tạo ra được trong hơn nửa thế kỷ vừa qua.
Tất nhiên, chúng tôi chẳng sợ và coi khing mọi sự vu cáo rằng hai tác giả này đang chống lại Đảng. Không ! cái Đảng này là do Nhân Dân này đẻ ra. Thương yêu hay ghét bỏ là quyền của người ta. Người ta có ghét con cái của mình thì cũng ghét từng lúc thôi chứ. Đã hơn một lần chúng tôi khẳng định : cái Đảng này là máu thịt của Nhân Dân, máu thịt của Dân Tộc, không kẻ nào có thể tách nó ra khỏi Dân Tộc. Nó đau ốm thì phải thuốc thang chạy chữa cho nó. Còn để cho nó suy sụp và tiêu vong thì không được phép.
Chúng tôi, và chắc chắn tất cả Nhân Dân lương thiện, phải lên án những kẻ mồm nói yêu Đảng nhưng thực ra đang chống Đảng, chúng đang đục ruỗng mọi kho tàng của Nhà nước và uy tín của Đảng và danh dự của tất cả những người đã hy sinh trong 117 năm đấu tranh vừa qua.
Tạis ao đã trông rõ mặt những đứa ăn cắp mà lại không đuổi đi được ? Lại để chúng tiếp tục trộm cắp ? Đã đành tội lỗi là do chúng nó gây ra nhưng theo chúng tôi cái nguyên nhân gốc không phải là vấn đề đạo đức mà chính là do các cơ chế, cái cơ chế mang tính phổ biến của mọi đảng cộng sản trên thế giới. Chẳng thế mà chúng ta đều thấy tham nhũng ở Liên Xô, ở Trung Quốc sao cũng giống Việt Nam đến thế ! Nên nói rằng chúng ta giống họ thì đúng hơn vì chúng ta là bản sao của họ. CHo nên để tránh vết xe đổ không thể không nghiêm khắc xem xét lại cơ chế, thể chế chính trị của chúng ta, mà trước hết là các thể chế của Đảng. Chúng ta xây dựng thiết chế như thế nào mà để cho chỉ một vài cá nhân cũng có thể lũng đoạn toàn thể bộ máy Đảng. Mệnh lệnh của một Stalin, một Mao Trạch Đông, một Đặng Tiểu Bình. Ở ta thì một Lê Đức Thọ cũng làm điên đảo cả đất nước, chà đạp lên những nguyên tắc nhân đạo vốn là bản chất của cách mạng, bản chất của cộng sản. Một Goócbachốp ký lệnh giải tán đảng cộng sản Liên Xô mà hơn 20 triệu đảng viên và mấy chục triệu đoàn viên thanh niên cộng sả cúi đầu tuân lệnh. Giáo sư Trần Văn Giàu từng chất vấn các viện sĩ của Viện hàn lâm khoa học liên bang Nga : vì sao mà Đảng cộng sản và Nhà nước Liên Xô lại sụp đổ một cách êm ru như thế ? Một dịp khác - góp ý kiến với Văn kiện Đại hội IX - giáo sư lại thắc mắc và than phiền : Không thấy một cuộc biểu tình nào ?
Xin thưa với gs. Giàu : Xin giáo sư vui lòng xem lại thiết chế chính trị của các đảng cộng sản mà điển hình là của Liên Xô. Giáo sư cũng quên mất rằng đã 70 năm liền đảng cộngs ản cấm nhân dân biểu tình. Cấm lâu quá đến mức nhân dân quên lãng và mất hẳn ý thức, mất hẳn thói quen biểu tình. Nói ngay như ta bây giờ, nếu Đảng không có các nào trị bọn tham nhũng mà Nhân dân xuống đường biểu tình chống bọn tham nhũng thì hẳn mọi người lại hoảng lên : thế này thì loạn mất à ?
Theo một bài báo gần đây của ông Trần Bạch Đằng ( ***) thì phải bằng mọi cách giữ cho tình hình ổn định. Thế thì tham nhũng có chức có quyền thích quá rồi còn gì. Chúng sẵn sàng giơ cả bốn tay hoan hô ông Trần Bạch Đằng. Chúng tôi cũng chẳng lạ gì cái lối ăn theo nói theo naỳ.
Chúng tôi cho rằng Nhân Dân ta sau bao năm đau khổ vì chiến tranh và quan liệu tham nhũng mong được sống ổn định để an cư lạc nghiệp lắm chứ. Hỏi có ai mong được sống ổn định bằng Nhân Dân này ?
Khi chúng tôi chống lại những kẻ ngu xuẩn, tham lam đứng ra tổ chức hội thảo Gia Long, hội thảo Việt Nhật nhằm xuyên tạc lịch sử, ông Trần Bạch Đằng không hưởng ứng.
Nhân dân Thái Bình nổi dậy chống bọn cường hào tham nhũng, ông không dám hé răng ủng hộ.
Ngay giữa hội thảo kỷ niệm 300 năm Sài Gòn TP Hồ Chí Minh, ông là một thành viên trong Ban tổ chức lại cả gan giới thiệu ông Nguyễn Đình Đầu lên đọc bài tham luận trước hội trường để chứng minh rằng Bác Hồ không phải ra đi cứu nước từ Bến Nhà Rồng mà đi cách đó chừng 500-600m. Thế hóa ra phải chứng minh một cách khoa học rằng Cụ Hồ phải ra đi đúng ở cột cờ Thủ Ngữ mới cứu được nước. Còn nếu ra đi từ Bến Nhà Rồng thì sự nghiệp cứu nước bất thành chăng ? Axít Nêxin đã từng cười vào mũi những nhà khoa học nghiên cứu kiểu đó. Ông Nguyễn Đình Đầu có thể không biết sự chế nhạo đó, nhưng chẳng lẽ ông Trần Bạch Đằng lại không biết ?
Chúng tôi thực tình sốt ruột khi thấy kẻ này kẻ khác đua nhau bới móc những chuyện quanh tiểu sử Cụ Hồ nhằm bôi nhọ một thần tượng của Dân tộc, một danh nhân văn hóa kiệt xuất của nhân loại. Nhân dân ta thường nói "Thánh cũng có lúc nhầm". Nhưng chẳng phải vì nhầm lẫn một vài chuyện nào đó mà không còn là Thánh. Vấn đề là phải học tập và làm theo những cái mà Thánh không nhầm chứ đừng làm theo những cái mà Thánh đã nhầm khiến cho Thánh mất thiêng.
Chớ quên rằng trước khi hóa thần hóa thánh thì các vị cũng là người trần mắt thịt như chúng ta mà thôi.
Mọi người phải hiểu điều đó. Những người nghiên cứu hoa học càng phải hiểu điều đó để đừng nhầm lẫn trong việc tham mưu và hiến kế.
Nhà nghiên cứu Trần Bạch Đằng chẳng lẽ lại không hiểu rằng những nguyên tăc sơ đẳng đó. Ngay sau khi ông Nguyễn Đình Đầu đọc tham luận theo kiểu đó, chúng tôi đã gặp ngay đ/c Hồ Hữu Nhật - thành viên trong Ban tổ chức để chất vấn. Đ/c Nhật cho biết rằng :
- Ban tổ chức đã thống nhất không để ông Nguyễn Đình Đầu đọc báo cáo đó ở hội trường, và chính Ban tổ chức cũng ngạc nhiên khi thấy ông Trần Bạch Đằng giới thiệu ông Đầu lên diễn đàn. Rõ ràng ông Trần Bạch Đằng đã làm một việc vô nguyên tắc.
Nghiên cứu khoa học và tổ chức thảo luận khoa học theo kiểu Gia Long, Việt Nhật, Bên Nhà Rồng, ... theo chúng tôi, chẳng qua là những trò gây nhiễu tư tưởng. Vậy ông Trần Bạch Đằng muốn ổn định xã hội thật lòng hay vờ vịt ?
Trong tác phẩm "Đối thoại 2000", chúng tôi cũng đã nhẹ nhàng phê phán những trò gây nhiễu tư tưởng trong đó có phần đóng góp khá quan trọng của ông Trần Bạch Đằng.
Tất cả những ai, kể cả ông Trần Bạch Đằng, thấy chúng tôi phê phán không đúng, xin mời công khai tranh luận bằng văn bản. Còn vừa rồi có những nguồn tin cho chúng tôi biết ông lại tập họp những người bị chúng tôi phê phán để chơi trò "thư nặc danh". Chúng tôi thẳng thắn tuyên bố : bất chấp những trò thiếu quân tử đó !
Ở nước Nam ta cũng có nhiều cái lạ. May mắn được tham gia một tổ chức nào đó thì liền coi tổ chức đó là của riêng nhà mình. Một mặt thì cố ngoi lên để giữ một ghế gia trưởng, một mặt thì đóng sầm cửa lại, nội bất xuất ngoại bất nhập. Kẻ nào muốn ngoại nhập thì phải biết khúm núm gọi dạ bảo vâng. Đứng ngoài thì còn tỏ ra biết điều, khiêm tốn, có "quan điểm quần chúng". Vào rồi là y như vênh vênh váo váo như gáo múc dầu, chẳng coi ai vào đâu, miệng toàn thở ra một giọng xa lạ, cửa quyền, hách dở, quan trọng hóa cả những thứ chẳng có gì đáng gọi là quan trọng. Đúng như bà con ta thường nói : "mới nhìn mặt đã thấy ghét". Chẳng lẽ đây lại là một nét truyền thống cần bảo nhau gìn giữ và phát huy. Chúng tôi thấy đ/c Thủ tướng cần phải chú ý đến đặc điểm tâm lý này. Muốn cải cách hành chính thành công, theo chúng tôi, trước hết phải cải cách cái tâm lý khốn khổ này. Mà người Việt ta muốn mở mặt mở mày với thiên hạ cũng phải sớm bỏ đi cái tâm lý này.
Chúng tôi vừa được nghe thuật lại, trong buổi họp kín với lũ đàn em, ông Trần Bạch Đằng lại hoan hỉ nhận định :
- Vừa rồi, Nghĩa không cho chúng nó lên đọc tham luận ở Hội thảo "30 năm Di chúc" là đúng. Nguyễn Duy Quý và Lê Hữu Tầng không cho chúng nó vào họp Hội nghị quốc tế Việt Nam học là một thắng lợi lớn.
Cũng chẳng có gì bảo đảm lời thuật lại đã đúng 100%, nhưng cái tâm lý này của ông Trần Bạch Đằng thì chúng tôi và không ít người đã thấy từ lâu. Thế mới biết đuổi giặc khó mà hóa dễ, đuổi được tư tưởng cục bộ, tư tưởng Nam kỳ quốc và đủ các thứ tư tưởng dớ dẩn khác, tưởng là dễ mà cực kỳ khó.
Về chuyện mời với không mời, quả thật ông không thấu hiểu tai họa và nỗi khổ tâm của ông Quý và ông Tầng.
Khi nhận được tham luận, bản dịch tham luận và cả đĩa mềm , các ông Quý, ông Tầng lúng túng lắm. Mời hay không mời đều thấy khó ngang nhau. Nhưng cuối cùng chỉ vì cái ghế của mình chứ chẳng vì khoa học hay Việt Nam học gì hết, các ông đành muối mặt không mời.
Ngay giữa Thủ Đô, chúng tôi điện đàm với ông Trưởng ban tổ chức hội thảo quốc tế Việt Nam học Lê Hữu Tầng và chất vấn về việc ông Tầng không mời. Ông Tầng ôn tồn thanh minh và xin lỗi, lại yêu cầu hết sức thông cảm về mặt tổ chức. Chúng tôi biết rõ lời thanh minh của ông ta chỉ là một sự dối trá, xin lỗi là vờ vịt và về sự thông cảm thì chúng tôi đã nói thẳng vơi ông ta rằng :
- Chúng tôi biết các anh đã mời cả những người không hề nghiên cứu Việt Nam, thậm chí đã mời cả những người không hề có tham luận hoặc báo cáo khoa học. Anh yêu cầu thông cảm, chúng tôi thông cảm, nhưng sau này mong anh cũng thông cảm với chúng tôi.
Chúng tôi cũng điện cho anh Quý. Trong cuộc điện đàm, cũng như anh Tầng, anh Quý cũng yêu cầu chúng tôi thông cảm. Chúng tôi thẳng thắn chỉ ra cho anh Quý thấy rằng : việc anh Tầng không mời chúng tôi dự Hội thảo khoa học là sai. Việc anh Trần Trọng Đăng Đàn không chấp hành lệnh đăng bài phê bình hội thảo Việt Nhật đã làm liên lụy đến anh. Bây giờ anh Tầng không mời chúng tôi họp lại làm liên lụy đến anh đấy. Đáng lẽ với tư cách ủy viên Trung ương và giám đốc Trung tâm quốc gia, anh phải chỉ thị cho anh Tầng mời chúng tôi và những nhà khoa học nào thực sự nghiên cứu về Việt Nam đến họp cuộc hội thảo này. Anh không làm được và yêu cầu thông cảm. Chúng tôi sẵn ssàng thông cảm nhưng khi chúng tôi phê phán các anh trước công luận, mong các anh cũng vui lòng thông cảm.
Được giao tổ chức hội nghị khoa học mà lại không biết mời những người làm khoa học thực sự đến họp, mời các nhà khoa học đến họp rồi lại bảo nhau đừng mời họ phát biểu; sai như thế mà còn lấy làm đắc chí, thật là kỳ quái ! Cái hội thảo bàn về văn hóa dân tộc do Trung tâm quốc gia nghĩa là do tiến sĩ Mai Quốc Liên chủ trì tổ chức trong tháng cuối thế kỷ vừa qua thật là đạt đến đỉnh của sự kỳ quái.
Ông Mai Quốc Liên mời tới hơn 100 đại biểu gồm cả Bắc Trung Nam, lại có cả đại biểu Việt kiều ở Nhật, ở Pháp về, đại diện đủ các ngành nghề : thơ, ca, họa, nhạc rồi lại đủ cả sử học, văn học, dân tộc học, lý luận, biểu diễn, báo chí, xuất bản, văn hóa quần chúng, ... nghĩa là có đủ hết mọi loại tham luận. Đại biểu nào cũng đi sâu vào ngành nghề của đại biểu ấy. Trên diễn đàn cứ đọc, dưới các hàng ghế đại biểu cứ chuyện trò hàn huyên thoải mái. Cũng không thể trách các đại biểu không chú ý lắng nghe những vấn đề không thuộc đặc thù của ngành mình. Thế mà sau hội thảo, báo Tuổi trẻ vá báo Công an có đăng bài phê bình thì ông Mai Quốc Liên đã không tiếp thu để rút kinh nghiệm lại còn tự ái viết bài thanh minh. Báo Tuổi trẻ thì đưa dẫn chứng lời nói của gs. Nguyễn Văn Thọ - Việt kiều ở Nhật về họp :"Suốt hai ngày chỉ có hội chứ không có thảo". Còn ông Mai Quốc Liên thì lại dẫn lời nhận xét của nhà văn Nguyễn Đình Thi : "Hội thảo đã thành công tốt đẹp".
Thì ở ta có hội nghị nào mà lại không thành công tốt đẹp hoặc thành công rực rỡ. Nhưng ông Mai Quốc Liên và những người tổ chức hội thảo "bản sắc văn hóa dân tộc trong văn hóa nghệ thuật" không biết rằng riêng cái tên gọi đó đã là phi hội thảo rồi.
Giả thiết nếu cần tổ chức một hội thảo loại này thì chỉ có Ban Tư tưởng - Văn hóa trung ương hoặc Hội đồng lý luận trung ương mới tạm gọi là có đủ khả năng đứng ra tổ chức. Mà có muốn tổ chức cũng phải gửi đề cương trước hàng năm cho vài chục nhà lý luận đầu ngành nghiên cứu thật kỹ mới đến thảo luận với nhau được. Mà người đứng chủ trì hội nghị phải thuộc loại uyên bác và thật cứng về lý luận mời đảm đương nổi. Cho đến nay, sau nghị quyết V (khóa VIII) vẫn chưa có một cá nhân hoặc cơ quan ở cấp trung ương dám có ý định tổ chức một hội thảo kiểu này. Còn Trung tâm quốc học và ngay bản thân ông Mai Quốc Liên cũng chưa xác định được bản sắc văn hóa của ngành mình là như thế nào mà dám tổ chức một hội thảo sô bồ kiểu đó thì thật là to gan lớn mật. Cũng như nhiều người trong giới nghiên cứu, chúng tôi chờ đợi kỷ yếu của cuộc hội thảo này và bài tổng kết của ông Mai Quốc Liên.
Nội dung và kết quả hội thảo thì chắc chắn ít bổ ích rồi. Nhưng điều mà mọi người quan tâm là sự tốn kém không có của nó. Nghe nói ông Mai Quốc Liên đã khéo léo đi xin được tới hàng trăm triệu mà riêng công việc tổ chức hội thảo đã mất tới 80 triệu. Lời Bác Hồ dạy đến nay quả vẫn còn đúng : Lãng phí là một hiện tượng nguy hiểm chẳng kém gì tham ô. Thiết tưởng nhà nghiên cứu nào có luận điểm nào mới về vấn đề bản sắc dân tộc cứ việc viết bài, gửi đăng báo hoặc tạp chí rồi thảo luận và tranh luận với nhau, cần chi tụ tập hàng trăm người để phát sinh tốn kém, lãng phí. Mỗi đại biểu từ Hà Nội vào cả tiền vé bay đi bay về lẫn tiền ăn ở khách sạn, bỏ rẻ cũng hết ba triệu đồng. Ba triệu so với hàng trăm, hàng ngàn tỷ bị mất cắp quả thật không đáng gì. Nhưng chỉ cần ba triệu đó thôi là một gia đình nông dân có thể xóa đói, thận chí có thể thoát được cả cảnh nghèo đấy, ông Mai Quốc Liên ạ ! Cần phải hình dung ra cái cảnh nông dân phải đề nghị sướt trán mới vay được 300.000đ hoặc 500.000đ mới thấy cảnh nhiều gia đình nông dân ở nhiều vùng còn thê thảm biết chừng nào. Chẳng lẽ các vị cứ vung tay quá trán hằng trăm triệu, hàng ngàn triệu lại không hề có chút động lòng xót xa nào chăng ?
Lại nhớ đến "Hội thảo quốc tế Việt Nam học lần thứ nhất" năm 1998, hãng Ford Foundation tài trợ cho 200.000 đô la (khoảng hơn 2.000 triệu đồng VN), nhà nước lại cho thêm khoảng ngót 1.000 triệu nữa. Tiêu hẳn ba tỷ bạc mà mấy tập kỷ yếu cũng không in nổi. Ngoài 270 đại biểu trong nước, nhân dân chẳng biết hội thảo bàn bạc những vấn đề gì, các thế hệ con cháu đến sau lại càng mù tịt. Chẳng lẽ những người tổ chức hội thảo vào loại có tầm cỡ như các ông Lê Hữu Tầng (TTKHXH và NVQG) và Phan Huy Lê (Trường Đại học quốc gia VN) lại không hiểu tầm quan trọng của những tập kỷ yếu đối với công tác nghiên cứu khoa học ?
Chúng tôi đã từng nói : tổ chức hội thảo khoa học mà không biết hoặc không chịu in kỷ yếu thì coi như chưa tổ chức hội thảo. Có lẽ đã đến lúc cần tổ chức một hội thải bàn về chủ đề : "nên tổ chức hội thảo khoa học như thế nào để có hiệu quả thiết thực cho một Việt Nam nghèo nàn và lạc hậu ?".
Trong phạm vi khoa học xã hội, có lẻ ta cũng nên tổ chức thống kê xem trong khoảng 25 năm qua chúng ta đã tổ chức tất cả bao nhiêu hội thảo ở Trung ương cũng như ở các địa phương, tiêu tốn hết bao nhiêu ngàn tỷ đồng và hiệu quả thực tế ra sao ? (cũng nên thống kê cả các hội nghị và đại hội của Đảng, chính quyền, đoàn thể của tất cả các ngành các cấp theo hướng đó. Con số chắc không nhỏ đâu.).
Có thể những con số cụ thể thì ta chưa biết nhưng điều biết chắc chắn mà ai cũng có thể hình dung ra được : cho đến năm 2000 mà đất nước vẫn ở trong tình trạng trì trệ, tụt hậu và thua kém thiên hạ một cách đang hổ thẹn như thế này thì hẳn tác dụng thúc đẩy của các hội thảo khoa học cũng chẳng đáng là bao. Giới quản lý khoa học không thể trốn tránh trách nhiệm và giới lãnh đạo quản lý nói chung cũng không thể nói rằng không chịu trách nhiệm gì.
Có lẽ nếu không có một hội thảo khoa học xã hội nào thì tình hình xã hội cũng chẳng vì thế mà kém hơn hoặc xấu hơn.
Công bằng mà nói, không phải không có một số rất ít hội thảo có ý nghĩa khoa học và tích cực thực sự, nhưng nó lại không được giới quản lý chính quyền vận dụng vào thực tiễn. (Điển hình là ba hội thảo của Trung tâm nghiên cứu Hán Nôm TPHCM : Hội thảo 1 - Nguyễn Bỉnh Khiêm với lịch sử văn hóa dân tộc, hội thảo 2 - Nguyễn Trường Tộ với vấn đề canh tân đất nước, hội thảo 3 - "Tuệ Trung thượng sỹ với Thiền tông Việt Nam năm 1991-1992. Cả ba hội thảo này tuy bàn về các danh nhân văn hóa khác nhau nhưng đều có chung một chủ đề là phục vụ cho sự nghiệp đổi mới đất nước và bảo vệ, phát huy tinh hoa của truyền thống dân tộc. Đây không phải là chuyện "gà đẻ gà cục tác" hoặc "mèo khen mèo dài đuôi" mà thực sự ba hội thảo này kèm theo ba kỷ yếu đã được đa số học giả trong nước cũng như nhiều học giả ở nước ngoài đánh giá cao. Để cđáp ứng nhu cầu nghiên cứu, ba tập kỷ yếu đều đã phải in lại lần thứ hai. Riêng kỷ yếu TuệTrung thượng sĩ phải in lần thứ ba. Và chắc chắn ba tập kỷ yếu này cùng với tập kỷ yếu 5 năm Hán Nôm (500 trang in năm 1995) sẽ còn tiếp tục phải in lại vì các bài tham luận của các tác giả trong nước và nước ngoài thực sự là những tác phẩm có giá trị. Nhân đây chúng tôi cũng nhắc lại một vài chi tiết đáng ghi nhớ : Hồi ông gs Mạc Đường còn làm Viện trưởng Viện KHXH tại TP Hồ Chí Minh đã tìm nhiều cách để ngăn cản việc tổ chức các hội thảo này nhưng không nổi. Có lúc ông đã phải kêu lên : "Hội thảo gì mà lắm thế !" và ông trích quỹ cấp kinh phí một cách rất keo kiệt. Chúng tôi đành phải đi quyên góp các nhà hảo tâm để có đủ tiền tổ chức hội thảo và in kỷ yếu. Riêng các loại hội thảo Gia Long và Việt Nhật thì ông ủng hộ hết mình. Ông Viện trưởng kế tiếp là Nguyễn Thế Nghĩa, trong cả hai dịp kỷ niệm : đón nhận huân chương hạng ba (1999) và tổng kết 25 năm thành lập Viện (2000) cũng không một lời nhắc đến, không coi những việc làm có ý nghĩa này của Trung tâm nghiên cứu Hán Nôm là thành tích của Viện. Đáng phàn nàn hơn cả là cả hai tạp chí chuyên ngành "Tạp chí nghiên cứu Hán Nôm do ông Trần Nghĩa làm tổng biên tập và Tạp chí KHXH của Viện do ông Trần Trọng Đăng Đàn làm tổng biên tập suốt 5 năm liền (1991-1995) không có dòng nào giới thiệu Hội thảo cũng như kỷ yếu. Hai ông này đều nhận được sách biếu và riêng ông Đàn thì lần nào cũng được mời họp hội thảo nhưng cả hai ông đều coi như trên đời không có những hội thảo và kỷ yếu này. Nhưng đáng trách nhất là ông Nguyễn Duy Quý, tất cả những việc làm sai trái của những người dưới quyền ông, ông đều biết cả nhưng ông cứ làm lơ coi như mình không có trách nhiệm gì.
Ngược lại do mạng nặng tinh thần thực dụng, họ vận dụng rất nhanh những kết luận tiêu cực phi khoa học khiến cho tình hình xã hội thêm ngưng trệ và thoái hóa. Cũng mong giới nghiên cứu khoa học xã hội của ta đứng trước mọi tệ nạn xã hội đang phát triển hiện nay, với lòng tự trọng, chớ nói rằng mình không có trách nhiệm gì.
B** Trong tạp chí Triết học số 1 năm 2001 vừa qua, giáo sư Vũ Khiêu có viết một bài bàn thêm về Nguyễn Bỉnh Khiêm, giáo sư đã dùng những luận điểm chủ yếu của hội thảo này trong bài viết
của mình nhưng đáng tiếc ông đã không ghi rõ xuất xứ. Đây là một việc làm không minh bạch trong khoa học mà gs Vũ Khiêu không phải là người duy nhất. Chúng tôi sẽ trở lại vấn đề này trong một chuyên đề riêng.
Trước khi sang vấn đề khác, chúng tôi cũng lưu ý bạn đọc nhớ đến một câu nói rất đúng và rất hay của một nhân vật trong phim Chiến quốc của Trung Quốc : "ở đời, có những con người không chịu đựng nổi cái đẹp !". Vận vào những ông giáo sư, tiến sĩ này mới thấy đúng làm sao. Chỉ cần nhắc đến cái tốt, cái đẹp, đối với các ông cũng đã là knhững khó khăn không thể khắc phục nổi. Như Nguyễn Du nói : "Ghen tuông thì cũng người ta thường tình", nhưng ghen đến mức muốn hủy diệt CÁI ĐẸP thì thật nguy hiểm. Vì "Cái đẹp sẽ cứu nhân loại" (Đotoepski), do đó hủy diệt cái đẹp cũng là một cách tự hủy diệt.
3. CHỦ NGHĨA XÃ HỘI NÀO ?
ĐÃ qua một thời CNXH được coi là một vẻ đẹp mới của nhân loại và đã thành hiện thực ở cả một phe 13 nước, đứng đầu là Liên Xô vĩ đại. Hai hội nghị 81 đảng và 12 đảng họp ở Matxcơva đã khẳng định toàn thế giới đang sống trong thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH và phe XHCN trở thành nhân tố chính, động lực chủ yếu quyết định sự phát triển của nhân loại.
Nghe rất đúng và trông thì thấy mê. Vì cái phần nhân loại bị áp bức đau khổ nghe thấy chuyện giải phóng, công bằng, xóa mọi áp bức bất công, có ai lại không mê :
Nước Nga có chuyện lạ đời
Đem người nô lệ thành người tự do
(Nguyễn Ái Quốc)
Mà hiện thực của nước Nga Xô Viết và sau này là siêu cường liên bang Xô Viết thì đáng mê thật. Chiến công thắng phát xít, kỳ công bay vào vũ trụ (đưa vệ tinh và con người đầu tiên vào vũ trụ) rồi bom nguyên tử, bom khinh khí, tên lửa vượt đại châu, tàu ngầm nguyên tử phá băng, nhà máy điện nguyên tử, công trình thủy điện Volga, ... đều đứng vào hàng đầu thế giới. Tất cả những thành tích đó đều được qui công cho CNXH.
Bên cạnh những thành tích có thật của Liên Xô và các nước trong phe còn là những điều tô vẽ thêm của bộ máy truyền thông của ta về những điều bóp méo xuyên tạc của đối phương nhưng dù tô hồng hay bôi đen thì những điều tốt đẹp của CNXH vẫn là có thật và đủ làm say mê những nước thuộc thế giới thứ ba (Angola, Etiopie, Mianma, ...) đều tuyên bố đi theo CNXH). Cả những nước tư bản phát triển như Thụy Điển, Phần Lan, ... cũng đi tìm một mô hình CNXH thích hợp để xây dựng. Có lẽ do những thành công vang dội và nhìn trào lưu XHCN đang hấp dẫn và lôi cuốn nhân loại nên những người lãnh đạo của phe ta có lúc bị ngây ngất choáng váng không còn đủ bình tĩnh và tinh tường để nhận biết những khuyết tật của CNXH Xô Viết. Chỉ đến khi Liên Xô vĩ đại đột nhiên sụp đổ và tan rã người ta mới kinh hoàng và thấy cần duyệt lại mọi nhận thức về CNXH. Phía thiếu thiện ý thì muốn xổ toẹt tất cả. Phía thiện ý nhưng mang di căn giáo điều quá nặng thì ra sức lý giải, biện bạch, cắt nghĩa bằng những lý lẽ vu vơ, không dám nhìn vào thực chất của vấn đề. Chỉ ở những ai trung thực với chân lý, với cuộc sống mới có thể nhìn nhận và đánh giá mọi sự vật, mọi hiện tượng một cách khách quan, khoa học.
Việt Nam ta đã từng là thành viên của phe XHCN, từng vui buồn sướng khổ có nhau. Sự sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu là một tai họa chung. Vấn đề riêng của chúng ta là từ đó cần phải rút ra những bài học kinh nghiệm gì. Không thể khơi khơi nói rằng Liên Xô tan rã nhưng CNXH vẫn còn nguyên giá trị hoặc chủ nghĩa Mác-Lênin vẫn là vô địch, v.v. CNXH còn nguyên giá trị là CNXH nào ?
Chủ nghĩa Mác-Lênin vô địch ở chỗ nào và vô địch với ai ? Những sáo ngữ này chứng tỏ người nói chẳng hiểu biết gì cả, nói lấy được, chẳng giúp ích gì cho việc rút kinh nghiệm của chúng ta. Một trong những người ca ngợi CNXH rất mực sách vở là giáo sư viện sĩ Nguyễn Duy Quý. Đọc kỹ bài của ông (Tạp chí Triết học số ...) mới thấy ông hết lòng và thật lòng ca ngợi CNXH của Mác. Nghĩa là một CNXH còn nằm trên lý thuyết, chưa thực thiện thành công ở đâu cả. Xin thưa với ông Nguyễn Duy Quý : giỏi giang về lý thuyết và thực hành hơn ta nhiều, thế mà Trung Quốc, theo ông Đặng Tiểu Bình cũng phải 100 năm nữa đấy ạ ! Còn lý luận và thực hành theo kiểu của ta thì chắc chắn không thể ngắn hơn. Hay là ông Quý có phép màu "đốt cháy giai đoạn" nào chăng ???
Vừa qua, theo dõi hai hội thảo quốc tế Việt Trung bàn về vấn đề xây dựng CNXH ở thế kỷ XXI, chúng tôi rất đỗi ngạc nhiên khi thấy cả hai đ/c Trưởng đoàn (Nguyễn Đức Bình - Việt Nam, Lý Thiết Ánh - Trung Quốc) và các thành viên của hai đoàn chẳng giúp cho chúng tôi hiểu cụ thể CNXH là thế nào và sẽ xây dựng trong thế kỷ XXI ra sao. Chúng tôi chỉ thấy các đ/c cộng sản Trung Quốc "khôn ngoan" hơn các đ/c cộng sản Việt Nam ta.
Cùng một điều kiên quyết xây dựng thắng lợi CNXH, cùng là ủy viên Bộ Chính trị, phụ trách lý luận của Đảng nhưng đ/c Lý Thiết Ánh chỉ dựa trên cơ sở chủ nghĩa Mác, lờ tịt chủ nghĩa Lênin, còn đ/c Nguyễn Đức Bình của ta thì vẫn nguyên vẹn dựa trên cơ sở chủ nghĩa Mác-Lênin, nghĩa là đ/c Nguyễn Đức Bình chẳng quan tâm đến sự nhầm lẫn của đ/c Stalin trong việc đánh dấu nối vào giữa CN Mác và CN Lênin vào đầu thập niên 30. Trong tác phẩm "Đối thoại năm 2000", chúng tôi đã phân tích về sự nhầm lẫn này : ai thực hiện đúng Mác thì chống lại Lênin; còn ai thực hiện đúng Lênin thì thực chất là chống lại Mác. Cho nên chuyện trung thành với CN Mác-Lênin chẳng khác gì chuyện bán dáo và bán mộc của người nước Tề thời Chiến Quốc.
Đ/c Stalin đáng lẽ phải xuất phát từ thực tiễn Nga mà thực hành chính sách kinh tế mới (NEP) do Lênin chủ trương trong khoảng dăm bảy chục năm gì đó, nhưng đ/c đã thẳng tay xóa bỏ NEP, một mực trung thành với Mác, theo đúng câu chữ của "Tuyên ngôn của đảng cộng sản" mà tức khắc "xóa bỏ quyền tư hữu" và một hậu quả tất yếu là đ/c Stalin và những người tiếp đ/c đã xóa bỏ luôn Liên bang Xô Viết, nghĩa là xóa bỏ CNXH thực tiễn Nga của Lênin. Cho nên các đ/c cộng sản Trung Quốc không theo chủ nghĩa Lênin nữa không phải là không có lý. Vì đó chẳng qua là sản phẩm của thực tiễn xã hội Nga chứ không phải thực tiễn xã hội Trung Quốc, càng không phải là thực tiễn xã hội Việt Nam ta. Mà đất nước Nga chính là nơi đã đẻ ra CN Lênin mà người ta còn không theo thì Trung Quốc với Việt Nam theo sao được. Chúng tôi ngờ rằng những ai đang hò hét là phải trung thành với CN Lênin thì tâm địa cũng chẳng khác những ai hò hét phải phục hồi Khổng giáo.
Thôi thì Mác hay Lênin, cũng như Khổng, Phật, Lão, Giêsu, ... ,ai có cái gì hay thì mình nên khiêm tốn học hỏi, thu nhận. Dung nạp mọi chủ nghĩa, mọi học thuyết, mọi tư tưởng rồi lựa chọn, đồng hóa mọi tinh hoa của nhân loại để bồi dưỡng cho cơ thể tư duy Việt Nam lớn mạnh : đó là cái phương sách không ngoan của tổ tiên ông bà mình mà vừa qua Cụ Hồ cũng đã thực hiện thành công một phần quan trọng. Bài học thời Lê, nhất là thời Nguyễn đưa Nho giáo lên địa vị độc tôn đã để lại những di họa thế nào mọi người đều thấy cả. Bài học "Tam giáo đồng nguyên" của thời Lý Trần với những thành quả rực rỡ đã được lịch sử xác nhận đáng cho ta "học lại", đáng cho giới nghiên cứu lý luận và giới nghiên cứu văn hóa lục ra mà thảo luận một cách nghiêm chỉnh chọn lực cái gì ? Điều chỉnh ra sao ? Bỏ hay dùng ? Đó là quyền của ta, xuất phảt từ lợi ích của ta. Có gì có những nhà lý luận cứ gào lên : cái này Bác Hồ đã chọn, Đảng ta đã chọn, Nhân Dân ta đã chọn thì nhất thiết không được thay đổi.
Xin mạn phép hỏi : Viện Triết học, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh và tất cả quý vị giáo sư, tiến sĩ, viện sĩ, ... đang nghiên cứu lý luận và triết học, và hỏi luôn Ban soạn thảo Văn kiện Đại hội IX :
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI mà Bác Hồ, Đảng ta, Nhân dân ta đã lựa chọn là CHỦ NGHĨA XÃ HỘI nào ? CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Stalin mà chúng ta đã thực hiện trên miền Bắc 20 năm liền (1956-1975) và thực hiện tiếp trong cả nước 10 năm (1976-1986) đã đưa đất nước ta vào tình trạng trì trệ khủng hoảng, rồi nhờ có Đại hội VI sửa sai thực hiện đường lối đổi mới mà thoát khỏi sụp đổ. Vậy, chúng ta xây tiếp CHỦ NGHĨA XÃ HỘI này chăng ? Hay chúng ta định xây dựng CNXH lý thuyết của Các Mác ? Theo dõi buổi truyền hình vừa qua (ngày ... giờ ) chúng tôi thấy các đ/c Hà Đăng, Lê Hữu Tầng, Lưu Minh Hồ giải thích rất lúng túng. Đ/c Lê Hữu Tầng và Hà Đăng nói rằng : nhận thức về CNXH của chúng ta hiện nay đã đổi mới về chất. Vậy đó là cái chất mới nào ? Đ/c Lưu Minh Hồ lại nhấn mạnh phải công hữu hóa. Nghĩa là dù có mới đến đâu thì cũng không vượt qua được "Tuyên ngôn của đảng cộng sản".
Hơn một lần, chúng tôi đã giải thích rằng một trong những luận điểm cốt lõi trong "Tuyên ngôn của đảng cộng sản" là : xóa bỏ quyền tư hữu. Chúng ta đã từng thực thi luận điểm này rồi và đã thất bại một cách đau khổ. Đại hội VI đã sửa cái sai lầm này, đưa ra đường lối đổi mới và cứu được một bàn thua trông thấy. Chúng ta phải trả ngay lại quyền tư hữu ruộng đất cho nông dân. Thế là đang đói vàng mắt ra lập tức lại thừa gạo để xuất khẩu. Vậy, đổi mới thực chất là trở về với CÁI CŨ quá đúng mà đã mấy chục năm rồi chúng ta không chịu theo. Chúng ta lại đi theo một cái mới không thích hợp với chúng ta. Chúng ta vội quên mất rằng chính do khẩu hiệu "người cày có ruộng" mà mấy chục triệu nông dân đi theo Cụ Hồ để làm cuộc cách mạng này. Chính hai ông Qua Ninh và Vân Đình đã viết hẳn một cuốn sách bàn về vấn đề này từ thời tiền khởi nghĩa (cuốn "Vấn đề ruộng đất của dân cày"), rồi chính hai ông này sau có chân trong Bộ Chính trị mà cũng không bàn ra lẽ cái luận điểm nổi tiếng của Mác. Tại sao vừa mới chia cho người ta được 3 sào ruộng lại đã vội vã thu lại, rồi lại giao cho ba ông quản trị hợp tác xã toàn là đảng viên tin cậy chơi trò phương án nổi, phương án chìm, đua nhau xây nhà, xây sân, cưỡi xe đạp trên lưng nông dân. Làm gì sức sản xuất của nông dân không bị triệt tiêu, làm gì hợp tác xã không vỡ. Hợp tác xã có còn cũng chỉ là còn cái vỏ. Thế là tư hữu ruộng đất của nông dân biến thành công hữu của tập thể mà thực chất là tư hữu của ban quản trị. Tình hình công hữu ở lĩnh vực công nghiệp và thương mại cũng tương tự. Các ban giám đốc xí nghiệp, các công ty, tổng công ty bách hóa tổng hợp, thương mại quốc doanh, ... cũng nghiễm nhiên trở thành một thứ "tư hữu" không thể kiểm soát được. Chúng ta chấp nhận tình hình tham nhũng, tình hình sản xuất, buôn bán thua lỗ mấy chục năm liền. Chúng ta bù lỗ thoải mái bằng tiền thuế và tiền viện trợ, và biết bao nhiêu khoản đóng góp của dân tùy theo quyền hành của từng địa phương.
Một thời gian dài trước Đại hội VI, chúng ta không dám động đến những cái gọi là "sở hữu nhà nước" và "sở hữu tập thể" vì động đến nó tức là động đến CNXH. Chúng ta cắn rằng chịu đựng đói rách, trì trệ, khủng hoảng, tụt hậu chứ dứt khoát không thể để mất CNXH. Mà phân tích cho kỹ thì những thứ đó sao lại có thể gọi đượclà CNXH. Nếu CNXH chỉ là như thế thì lựa chọn nó làm gì, xây dựng nó để nhằm mục đích gì.
Trước đại hội VI nhầm đã đành. Sau Đại hội VI, thậm chí đến giáp Đại hội IX mà còn định tiếp tục nhầm, thế là nghĩa lý gì. Chúng tôi thực sự kinh ngạc khi nghe ba đồng chí Hà Đăng, Lê Hữu Tầng, Lưu Minh Hồ lên giải thích trên Đài truyền hình bằng những lập luận, lý lẽ của thời kỳ tiền Đại hội VI. Không một đ/c nào dám liên hệ tình hình thực tế hiện nay. Chúng tôi thân ái và thẳng thắn hỏi các đ/c :
- Các đ/c định cho các doanh nghiệp nhà nước tiếp tục bù lỗ đến thập niên nào của thế kỷ này ?
- Các hợp tác xã sẽ được tái lập với bộ máy nhân sự và cung cách quản lý như thế nào ?
- Bằng cách nào kiềm chế được Ban Kinh tế của các cấp ủy Đảng, quân đội, công an không tìm cách vượt qua pháp luật, móc ngoặc hoặc đánh lừa Hải quan, Ngân hàng và các cấp Thanh tra, Kiểm tra ?
- Bằng cách nào phát hiện và đấu tranh với các đồng chí đảng viên có chức có quyền đang tích cực quan liêu và tham nhũng mà khỏi bị quy tội là làm mất đoàn kết, gây rối loạn nội bộ, làm mất ổn định chính trị và tư tưởng ?
- Bằng cách nào thực hiện được việc kiểm kê tài sản của các đảng viên có chức có quyền và giáo dục được các đồng chí đang gửi tiền ở các nhà băng nước ngoài tự giác rút tiền về để đầu tư xây dựng kinh tế đất nước hoặc trích ra một phần để ủng hộ quỹ Đảng hoặc quỹ Nhà nước ?
- Bằng cách nào để giáo dục tư tưởng cho các đ/c đảng viên giàu có đang cho các con, các cháu mình du học tại các Đại học Cambridge, Haward, ... có biện pháp răn bảo các cháu sau khi tốt nghiệp về nước thì tiếp tục xây dựng chế độ XHCN, chớ lái đất nước đi theo chế độ mới TBCN ?
- Bằng cách nào có thể giúp đỡ các đ/c nghiên cứu lý luận ở các viện, học viện, nhất là các giáo sư, viện sĩ, tiến sĩ, đã hăng hái kiên trì chủ nghĩa Mác - Lênin dám can đảm nhìn thẳng vào thực tế, đề xuất, thảo luận, giải quyết những vấn đề gai góc của thực tế đất nước hiện nay ?
- Bằng cách nào để có thể tổ chức lại bộ máy Đảng ta, bộ máy Nhà nước ta phù hợp với tình hình phát triển của đất nước, nhất là thích hợp với tình hình toàn cầu hóa ?
- Bằng cách nào để giúp đỡ các đ/c lãnh đạo Đảng và Nhà nước quán triệt được tinh thần vừa "làm bạn với tất cả các nước" lại vừa làm bạn được với đồng bào đồng chí của mình và bà con Việt kiều hải ngoại ?
Thôi, hãy xin tạm hỏi các đ/c mấy câu như thế chứ vấn đề thực tế thì còn đa đoan lắm, không thể hỏi hết trong một lúc kẻo lại mang tiếng là làm khó dễ cho các đồng chí. Tất nhiên cũng có nhiều vấn đề cần phải giải quyết kịp thời như : tích cực vận động Ban thi đua Trung ương "khen thưởng" thích đáng các đ/c Bộ trưởng Đầu tư và kế hoạch, Thương mại, Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Công nghiệp, Văn hóa thông tin, v.v. về thành tích xuất sắc cho nhập khẩu các dây chuyền công nghệ lỗi thời, xe gắn máy phế thải của Nhật và mới tinh của Trung Quốc; giúp bà con nông dân tự phát dùng thoải mái các giống cây giả, thuốc trừ sâu giả, tăm Thái Lan, nước mía Mã Lai và muối của nhiều nước bè bạn có bờ biển ít hơn nước ta. Phải "biểu dương" kịp thời Bộ Công nghiệp đã có tinh thần quốc tế cao cả, nhiệt tình giúp các nhà thầu ngoại quốc thắng các nhà thầu bản xứ (điển hình là vụ làm hộp công-tơ điện bằng nhựa compôzit) giúp các nước công nghiệp phát triển tiêu thụ rác phế thải công nghiệp. Riêng thành tích này có thể sánh ngang với Bộ Văn hóa thông tin cho nhập rác văn hóa nhằm nâng cao trình độ của các cháu thiếu niên nhi đồng về mặt bạo lực và tình dục.
Đặc biệt Bộ Giáo dục và đào tạo có thành tích vượt trội về "chiến lược con người" : cải cách giáo dục thực hiện hơn ba chục năm, nay tích cực làm lại từ đầu và làm vô thời hạn; giải thể các trường công nhân kỹ thuật và trung cấp kỹ thuật kịp thời ngay sau ngày toàn thắng; quản lý bằng cấp đạt hiệu quả cao (đôn hàng chục ngàn phó tiến sĩ lên tiến sĩ, còn bằng cấp giả mạo thì đếm không xuể, chỉ những kẻ không may gặp vận xúi mới bị phát hiện, còn số đông cứ yên tâm nhất là các đ/c có chức có quyền đã học giả nhưng lại có bằng thật, không nên vì thế mà sợ hãi hoặc xấu hổ. Tất nhiên không nên chỉ biểu dương đ/c đương kim bộ trưởng Phạm Minh Hiển mà phải khen thưởng thích đáng các đ/c cựu bộ trưởng Phạm Minh Hạc, Trần Hồng Quân, v.v. để khỏi phạm sai lầm "phủ nhận sạch trơn quá khứ". Có lẽ xuất sắc nhất là Ủy ban vật giá, Tổng cục thuế, Tổng cục bưu điện. Việc đặt giá gas và nhiều thứ giá khác ngang với giá khu vực, giá điện thoại, fax, giá truy cập internet thì vào loại cao nhất thế giới. Nhân dân các nước gặp tình huống này hẳn đã rủ nhau xuống đường biểu tình phản đối. Ta thì không, luôn luôn giữ vững truyền thống thông cảm với người nhà nước, đời sống tuy có khó khăn thêm chút đỉnh vẫn vui lòng thắt lưng buộc bụng. Lại tự an ủi rằng dù sao mình vẫn giữ vững được tình hình chính trị và xã hội ổn định. Mấy nước láng giềng và các nước trong khu vực tuy thu nhập có cao hơn, mức sống có khá hơn nhưng cứ nay xuống đường mai xuống đường đâu có phù hợp với đạo lý phương Đông. Vả lại các ông ấy đặt giá các mặt hàng ngang bằng hoặc vượt thế giới chẳng phải cũng là một cách tích cực góp phần nâng cao địa vị quốc tế của Việt Nam ta. Biết đâu các ông này, nhất là ông tiến sĩ tổng cục trưởng Mai Liêm Trực lại còn được ghi vào sách kỷ lục Guiness. Thế có phải vinh dự không ? Tụt hậu về mặt nào thì tụt chứ về mặt giá cả cũng như nhập rác công nghiệp, rác văn hóa, bằng cấp giả mạo, trình độ sao chép lý luận và sách vở ngoại bang, v.v. mình đâu có chịu đi sau thiên hạ, có khi còn tiến lên hàng đầu. Trông lên thì chẳng bằng ai, nhưng trông xuống thì mấy bộ lạc chậm tiến ở châu Phi có đuổi kịp mình cũng còn xa. Vì thế Việt Nam ta cái gì cũng cứ phải từ từ. Các cụ xưa đã chẳng dạy : "Dục tốc bất đạt" đấy sao ? Tốc độ internet dứt khoát là không phù hợp với tình hình hiện đại hóa của ta rồi. Vào mạng nhiều là dễ hỏng đạo đức truyền thống như chơi. Bộ Khoa học công nghệ - môi trường, các viện nghiên cứu, các trường đại học, ... không lên tiếng phản đối cũng là có lý. Ban Tư tưởng - văn hóa Trung ương và Bộ Văn hóa - thông tin thấy thế lại càng mừng. Thông tin vào nhiều chỉ càng thêm rối loạn, cứ triệt hẳn việc vào internet là đắc sách hơn cả.
Lại xin thưa tiếp với ba đồng chí Hà Đăng, Lê Hữu Tầng và Lưu Minh Hồ rằng ta không thể bàn chuyện trăm năm sau mà quên đi những chuyện trước mắt. Trước mắt có chuyện ta đang bảo nhau phải ra sức bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN, đồng thời ta lại nói rằng ta không được đi chệch định hướng XHCN, nghĩa là chúng ta cứ nhằm mục tiêu XHCN mà tiến tới dù phải mất 50 năm, 100 năm hay lâu hơn nữa. Nghĩ như thế, nói như thế và viết như thế liệu có ổn không, có tự mâu thuẫn không, mong các đ/c cho ý kiến. Đây không phải chỉ là vấn đề ngôn từ hay vấn đề lý luận nằm trên sách báo hoặc nghị quyết. Nếu giải quyết không đúng, trước hết về mặt lý luận, nó sẽ tác hại kinh khủng đối với đời sống kinh tế xã hội vì hiện nay có tình hình bất cứ lĩnh vực nào cứ làm đúng thì phát triển nhanh, nhưng người ta lại sợ hãi vì thấy nó giống tư bản quá. Còn làm đúng lý thuyết XHCN như thời kỳ hơn ba chục năm về trước (1960-1986) là y như trì trệ khủng hoảng. Vì đơn giản là lý thuyết XHCN của Mác không thể áp dụng vào thực tế của ta từ trước đến nay và cả dăm thập kỷ tới. Vậy thì ta phải làm kinh tế XHCN hay kinh tế TBCN ?
Trong bài tham luận của đ/c Nguyễn Đức Bình đọc ở Trung Quốc có đặt vấn đề : Phải chăng Việt Nam và Trung Quốc đang làm kinh tế TBCN ? Theo chúng tôi hiểu không còn là chuyện "phải chăng" mà thực tế ta cũng như Trung Quốc đang làm kinh tế TBCN. Trong tác phẳm "D(ối thoại năm 2000", chúng tôi đã khẳng định :
CNXH Hồ Chí Minh = Kinh tế TBCN ++ sự lãnh đạo của Đảng + sự quản lý và điều tiết của Nhà nước DÂN CHỦ NHÂN DÂN.
Mấy đ/c ở Hội đồng lý luận Trung ương khi tọa đàm với chúng tôi đã lờ đi không thảo luận về CNXH Hồ Chí Minh. Đây không phải chỉ là một thuật ngữ mới do chúng tôi tùy tiện đặt ra mà thực chất đó là nội dung của cả một cuộc cách mạng mà chúng ta đã làm và đang phải tiếp tục làm. Vì Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói rành rành trong Di chúc của Người : toàn Đảng, toàn Dân ta phải phấn đấu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh.
Chúng tôi đã nhắc giới nghiên cứu lý luận khá nhiều lần về định hướng chiến lược này của Cụ Hồ. Họ im lặng không tỏ ý tán thành hoặc khẳng định chúng tôi là đúng. Tất nhiên họ cũng không bao giờ dám chứng minh rằng lời di chúc quan trọng ấy đã trở thành lỗi thời. Hình như một số quí vị thầm mong ước rằng giá Cụ Hồ viết : sau khi hoàn thành độc lập, thống nhất thì phải xây dựng một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa có phải thuận tiện cho họ biết bao nhiêu không. Cái sự khó khăn ghê gớm hầu như không thể khắc phục được đối với họ là : một mặt họ phải ra sức bảo vệ Di chúc của Cụ Hồ nói riêng và bảo vệ tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung; một mặt họ lại không dám nói khác ý của các đ/c Ba Duẩn và Sáu Thọ và đường lối của Đại hội IV. Mà đường lối cách mạng XHCN của Đại hội IV đã bị thực tiễn chứng minh là sai và Đại hội VI đã có công sửa lại, cứu nguy cho chế độ (chế độ Dân chủ cộng hòa chứ không phải chế độ XHCN vì thực tế chúng ta chưa bao giờ có chế độ XHCN và với trình độ kinh tế, xã hội chúng ta hôm qua và hôm nay không có khả năng xây dựng cái gọi là chế độ XHCN).
Nhân dân ta có thích chế độ XHCN hay không ? Không phải chỉ riêng nước ta thích mà nhân dân các nước thế giới thứ ba và cả các nước tư bản cũng thích. Nhưng đối với các nước có trình độ tiền công nghiệp như Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên, Cộng hòa Cu Ba và Việt Nam dân chủ cộng hòa thì chuyện xây dựng CNXH là chuyện của trăm năm sau. Nhanh nhất cũng phải là nửa thế kỷ sau.
Tuy nhiên, không xây dựng được chế độ XHCN trong hiện tại hoặc một vài thập kỷ nữa, không có nghĩa rằng Việt Nam ta nhất thiết phải xây dựng chế độ TBCN. Chúng tôi cũng đã từng nói rằng chế độ TBCN với những khuyết tật nằm trong bản chất của nó, không phải là chế độ mà chúng ta mơ ước và nó cũng không phải là nấc thang tiến hóa cuối cùng của nhân loại. Chúng ta không muốn xây dựng chế độ TBCN, chúng ta cũng không thể xây dựng chế độ XHCN như lý thuyết của Mác mà ông Đặng Tiểu Bình đã phải dự báo là 100 năm nữa Trung Quốc mới đạt tới. Vậy, chúng ta phải xây dựng chế độ nào để vừa phù hợp với nguyên vọng của đại đa số nhân dân, vừa thích nghi với đà tiến hóa của nhân loại ? Đó chính là vấn đề cần phải thảo luận cho ra nhẽ.
Xin nhắc lại một ý kiến đề xuất hạn hẹp của chúng tôi : nếu quả thật chúng ta mê say CNXH, chúng ta chỉ có thể xây dựng CHỦ NGHĨA XÃ HỘI HỒ CHÍ MINH mà thôi ? Đây là CNXH mang đặc điểm Việt Nam. Nội dung của nó là : "Xây dựng thành công một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, dân chủ và giàu mạnh".
Trong 25 năm sau giải phóng vừa qua, nếu chúng ta không thực hiện dân chủ một cách hình thức mà làm một nền dân chủ thực sự từ trên xuống dưới, từ dưới lên trên thì hẳn đất nước ta đã phát triển không bị bất cứ một nguy cơ tụt hậu nào đe dọa. Phải thẳng thắn nói với nhau rằng để đến khi vụ Thái Bình nổ ra, chúng ta mới đi lo thực hiện qui chế dân chủ hóa cơ sở là quá muộn và vẫn còn nửa vời. Cấp trung ương còn chưa dân chủ hóa được thì làm sao mà dân chủ hóa được cấp phường xã. Một cán bộ đảng viên ở cấp phường xã hoặc cấp quận huyện làm sai lại được một cán bộ đảng viên ở cấp tỉnh hoặc cấp trung ương bao che, bênh vực, thử hỏi dân còn biết kêu ai và kiện ai ? Hàng triệu vụ khiếu kiện tồn đọng hầu như không thể giải quyềt được chính là do tình trạng mất dân chủ từ cấp vi mô cho đến cấp vĩ mô này đây. Địa phương không chịu giải quyết mà dồn hết về trung ương, thử hỏi các đ/c Tổng bí thư, Chủ tịch quốc hội, Chủ tịch nước, Thủ tướng chính phủ biết giở tay ra sao ? Oan khuất của nhân dân không giải quyết thì vẫn còn nguyên vẹn đó chứ mất đi đâu được. Oán hờn cứ chồng chất tháng này qua năm khác, thử hỏi chế độ sẽ ra sao, đất nước sẽ ra sao ? Nhiều đảng viên, nhất là những đảng viên có chức có quyền cứ bình chân như vại, thản nhiên nhắm mắt, bưng tai, bịt mũi coi như không có gì quan trọng xảy ra trên đời này Thật đáng buồn và cũng thật đáng ghê tởm ! Giáo sư viện sĩ Nguyễn Duy Quý lại còn tỏ ra rất "quan điểm", rất "lập trường", cao giọng : Chúng ta không thể tán thành luận điểm "CNXH dân tộc".
Này, xin phép hỏi ông : ông theo CNXH quốc tế nào đấy ? Ông thử chỉ cho chúng tôi xem mặt mũi hình dạng nó như thế nào ?
Thiên hạ người ta chủ trương xây dựng "CNXH mang đặc điểm Trung Quốc" là người ta khôn lọt vành ra. Mình kém cạnh gì mà lại không biết bảo nhau xây dựng CNXH mang đặc điểm Việt Nam. Chắc ta lại định chơi trò "lội nước đi sau", chờ khoảng dăm chục năm nữa, khi người ta xây dựng CNXH mang đặc điểm Trung Quốc thành công rồi, bấy giờ các nhà lý luận và các phương tiện truyền thông của ta mới đua nhau gào lên "phải ra sức xây dựng CNXH mang đặc điểm Việt Nam !". Rất tiếc, lúc bấy giờ dẫu có gào to hơn hiện nay thì thế giới người ta cũng chẳng nghe thấy gì vì với khoảng cách giữa nước phát triển kém nhất với vị thế tụt hậu vô địch của ta thì thiên hạ nhìn ta qua kính viễn vọng, chỉ còn thấy hình ảnh một lũ "lừ đừ như ông từ vào đền". Chúng tôi thật mắc lỗi khiếm nhã khi phải bộc lộ cảm giác xấu hổ khi thấy những người ít hiểu biết về CNXH lại được cử đi tham dự những hội thảo quốc tế bàn về CNXH. Đúng là Dân ta tốt thật. Nhưng cứ tốt như thế này cho đến tận bao giờ thì quả thật chúng tôi cũng không đủ khả năng dự báo. Xin nhường phần cho các nhà TƯƠNG LAI HỌC. Chỉ có điều chắc chắn là bước sang thế kỷ mới, Dân ta cũng sẽ đổi mới tư duy dữ dội hơn, không chờ đến lúc "nước đến trôn" mới quáng quàng giải quyết vấn đề.
4. ĐỒNG CHÍ TRẦN BẠCH ĐẰNG LẠI HĂNG HÁI BÀN VỀ NHÂN SỰ ĐẠI HỘI !?
Thú thật, đọc bài của đ/c Trần Bạch Đằng bàn về nhân sự Đại hội đăng trên báo Sài Gòn Giải Phóng (ngày ...), chúng tôi thấy rầu lòng tự hỏi : tầm cỡ nghiên cứu như Trần Bạch Đằng mà chỉ bàn luận có thế thôi hay sao ? Hãy khoan bàn về những luận điểm thiếu minh bạch và lối lập luận vòng vo tránh né của tác giả xung quanh một vấn đề chưa phải là quan trọng hàng đầu của đời sống hiện nay. Có người nghiên cứu nào lại không hiểu rằng vấn đề quan trọng hàng đầu của mỗi đại hội Đảng là mục tiêu chiến lược. Nói nôm na là ta định dẫn dắt nhau đi đâu trong 5 năm tới ? Và đến năm thứ 5 thì ta chạm đến cái tiêu nào ?
Nhìn lại lịch sử, ta thấy :
- Đại hội I (1930) - Giải quyết được mục tiêu giành chính quyền thành lập được nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
- Đại hội II (1951) - Đánh thắng thực dân xâm lược Pháp, giải phóng được một nửa đất nước.
- Đại hội III (1960) - Định hai mục tiêu thì đạt được một là giải phóng miền Nam thống nhất Tổ quốc, còn mục tiêu xây dựng CNXH ở miền Bắc coi như không đạt - không đạt vì mục tiêu đó không thích hợp với trình độ kinh tế xã hội của miền Bắc lúc bấy giờ.
- Đại hội IV (1968) - Mục tiêu xây dựng CNXH trong cả nước hoàn toàn duy ý chí, không tưởng nên đã đưa đất nước vào con đường trì trệ khủng hoảng.
- Đại hội V (1978) - Tiếp tục đường lối của Đại hội IV, nghĩa là tiếp tục thực hiện đường lối cách mạng CNXH trong cả nước và cũng có nghĩa là tiếp tục trì trệ và khủng hoảng, và còn có nguy cơ sụp đổ.
- Đại hội VI (1986) - Có thể gọi là Đại hội của sự bừng tỉnh, nghĩa là Bộ Chính trị Trường Chinh thức nhận được rằng muốn tránh sụp đổ thì phải thay đổi đường lối, "ĐỔI MỚI HAY LÀ CHẾT !". Sự khôn ngoan của Bộ Chính trị Trường Chinh là đề ra được nguyên tắc : đổi mới toàn diện nhưng trước hết là đổi mới về tư duy kinh tế. Tất nhiên nếu trước hết lại đổi mới tư duy chính trị thì không tránh khỏi mất ổn định và sinh ra rối loạn xã hội. Đ/c Nguyễn Văn Linh và tập thể Bộ Chính trị đã thực hiện tương đối tốt đường lối đổi mới này, nhưng rất tiếc chỉ tốt được nửa nhiệm kỳ. Trước sự biến Liên Xô và Đông Âu cũng như sức ép của lực lượng bảo thủ trong Đảng, Bộ Chính trị Nguyễn Văn Linh co lại. Tất cả "những việc cần làm ngay" không làm nữa và được xếp lại. Xã hội đang phát triển mạnh mẽ bỗng nhiên khựng lại, nhiều lĩnh vực vừa mới được "cởi trói" bị trói lại. Giới trí thức văn nghệ sĩ lại bị trấn áp, đe nẹt. Việc bắt bớ người này, khai trừ kẻ khác chẳng qua là chơi cái trò "giết gà dọa khỉ" (tất nhiên, khi nào mới bị dọa mà đã vội sợ thì cực kỳ "khỉ" rồi). Nhưng tất cả những ai thật lòng yêu Nước, thương Dân có bao giờ thèm đánh vần chữ "sợ". Xin nhắc lại thêm một lần nữa ở đây lời Cụ Hồ trả lời cuộc phỏng vấn của phóng viên báo "Frères d'Armes" hồi năm 1948 ở Việt Bắc :
- Thưa chủ tịch, chủ tịch sợ điều gì nhất ?
- Không sợ gì cả ! Một người yêu nước không sợ gì hết, và nhất thiết không được sợ gì !
(Hồ Chí Minh toàn tập - tập 4)
Đáng lẽ sự đổi mới tư duy chính trị phải tiếp theo ngay sự đổi mới về tư duy kinh tế và cứ song song đổi mới dần dần cho đến mức hoàn hảo. Sự chậm chạp đổi mới tư duy chính trị đến một lúc nào đó đã cản trở kinh tế, văn hóa xã hội phát triển. Đ/c Nguyễn Văn Linh vĩ đại vì đã dám thực hiện đường lối đổi mới, nhưng cũng kém phần vĩ đại vì đã không đủ can đảm đổi mới một cách toàn diện và triệt để. Đ/c Trần Bạch Đằng hồi đó là một trong những tham mưu đắc lực của đ/c Nguyễn Văn Linh cũng không thể chối bỏ phần trách nhiệm của mình trong chuyện đi từ "tân cổ giao duyên" trở về "cải lương" này.
Nhiều người thấy Đại hội VI không đi được hết con đường đổi mới của mình thì qui lỗi cho đ/c Sáu Thọ về vấn đề nhân sự, nhưng theo chúng tôi chủ yếu vẫn là vấn đề bế tắc và khủng hoảng về lý luận. Làm CNXH như cũ thì không thể được vì làm giỏi như Liên Xô còn hỏng, chứ ta đã vào thứ bậc nào. Làm CNTB thì chúng ta không muốn. Thảo luận để tìm ra một đường riêng cho Việt Nam thì chúng ta không cho phép tự do thảo luận. Còn mấy đ/c nghiên cứu giáo điều hội thảo với nhau thì làm sao tìm ra được vấn đề. Vấn đề quá lớn này đáng lẽ phải được thảo luận rộng rãi và quan trọng nhất là tập hợp được những trí tuệ sắc sảo nhất - không kể trong Đảng hay ngoài Đảng, trong nước hay ngoài nước - thảo luận một cách có thực chất chứ không phải hội thảo hình thức như bấy lâu nay thường làm. Còn vài ba hội thảo do Hội đồng lý luận trung ương tổ chức thảo luận về cái gọi là "kinh tế thị trường XHCN" thì chẳng qua cũng là dập theo lý luận của Trung Quốc và bản thân những nhà lý luận Trung Quốc cũng rất lúng túng trong chuyện này, lúng túng cho đến nay vẫn chưa gỡ ra được.
Gần đây nhất, ông Chu Dung Cơ và toàn thể Ban chấp hành TW của Đảng Cộng sản Trung Quốc nhận thấy không thể tiếp tục bù lỗ cho các doanh nghiệp nhà nước nhưng tư nhân hóa cách nào để khỏi chệch hướng thì thấy khó quá. Về vấn đề tham nhũng thì tuy có xử bắn hết bí thư tỉnh này đến chủ tịch tỉnh nọ, thậm chí bắn cả thứ trưởng Bộ Công an và phó chủ tịch Quốc hội vẫn không chặn đứng được tình hình nguy hiểm này. Xét cho cùng cũng là do tình trạng "nửa vời" về mặt lý luận, các nhà lý luận của ta nhận thấy "kinh tế thị trường XHCN" chẳng qua cũng là một thuật ngữ "dở dơi dở chuột" nên vận dụng sáng tạo thành "kinh tế thị trường định hướng XHCN". Thế là có khác chữ định hướng chứ vẫn là chung về định tính, nghĩa là cũng nửa vời, dở dơi dở chuột như nhau. Có lẽ còn thiếu ông thợ giày thứ ba chăng ? Nhưng xem ra có tập trung thêm hai ông thợ giày nữa để hội thảo thì cũng chẳng thể biến hóa thành Gia Cát Lượng được.
Rút cục, có vấn đề cốt tử là vấn đề DÂN CHỦ thì vị nào cũng tránh. Tránh cũng có mặt đúng của nó, vì bà con phương Tây vẫn cứ nhằm vấn đề này để khoét sâu, kích động. Nhưng khốn nỗi càng tránh lại càng bế tắc, càng tụt hậu. Vì đơn giản là những nước vốn thoát thai từ phong kiến, từ thuộc địa mà không dân chủ hóa thì không phát triển được. Dân chủ theo kiểu Mỹ, kiểu Pháp, kiểu Anh, kiểu Nhật, kiểu Asean thì ta không ham, vậy chỉ còn có cách là ta theo kiểu của ta. Mà của ta như hiện nay là không ổn. Vậy, đề tài bàn luận hiện nay là :
THẾ NÀO LÀ DÂN CHỦ THEO KIỂU VIỆT NAM ?
Đại hội VII và Đại hội VIII đã nhận ra các nguy cơ và các quốc nạn nhưng chưa tìm được phương sách tối ưu. Quốc nạn tham nhũng càng chống càng phát triển. Nạn quan liêu, cường hào mới không giảm, lại có chiều hướng "tăng cường". Chỉnh đốn Đảng thì toàn 98%, 99% đảng viên loại 1. Đến nỗi đ/c Tổng bí thư phải hốt hoảng kêu lên : không chống được tham nhũng thì sẽ mất vai trò lãnh đạo của Đảng. Các tầng lớp nhân dân - nhất là nông dân mất đất, cộng với nhiều sự ức hiếp khác, bất bình thực sự. Lòng Dân không yên : đó là nguy cơ lớn nhất của mọi nguy cơ.
Khẩu hiệu "Dân giàu, nước mạnh, xã hội hội công bằng văn minh" mới nghe thì hay, ngẫm nghĩ kỹ mới thấy chệch hướng chiến lược của Cụ Hồ. Điều đáng lo ngại là sự chệch hướng từ lâu này lại muốn nâng lên thành lý luận chỉ đạo.
Chúng tôi đã thẳng thắn phê phán sự chệch hướng này (xem "Chỉnh đốn để tồn tại và phát triển") : Thực tế Thái Bình và nhiều vụ việc khiếu kiện tập thể (chúng tôi phản đối đ/c Hữu Thọ và các phương tiện truyền thông dùng cụm từ "khiếu kiện đông người" bên cạnh cụm từ "tham ô tập thể". Hóa ra các vị lại khinh bỉ nhân dân và kính trọng bọn tham nhũng qua cách tráo đổi từ ngữ này chăng ?) ở tất cả các địa phương là những dấu hiệu cảnh báo sự lâm nguy của chế độ, tuy có làm cho nhiếu đ/c lãnh đạo sáng mắt ra nhưng Ban soạn thảo Văn kiện Đại hội IX thấy buộc lòng phải đưa vấn đề Dân chủ ra. Nhưng chẳng lẽ đ/c Hà Đăng và toàn Ban soạn thảo lại không thấy rằng khi đưa vấn đề trọng đại này vào văn kiện theo kiểu "xây dựng một xã hội công bằng dân chủ văn minh" là đưa một cách đối phó và hình thức ư ?
Chẳng lẽ nhà nghiên cứu Trần Bạch Đằng lại không cảm nhận và thức nhận được rằng đây là chuyện đối phó và hình thức ? không Dân chủ thì làm thế nào để có thể công bằng và văn minh? Đáng lẽ nhưng người nghiên cứu tầm cỡ như Trần Bạch Đằng phải tập trung thảo luận vấn đề cốt tử mang tầm vóc chiến lược. Những người làm công tác nghiên cứu lý luận mà né tránh vấn đề Dân chủ hóa đất nước thử hỏi Nhân Dân còn biết trông cậy vào đâu ?
Chúng tôi cũng thân ái và thẳng thắn phê bình Báo Nhân Dân, Báo Sài Gòn Giải Phóng và một số tờ báo khác vừa rồi đăng một loạt bài tham gia ý kiến với Văn kiện Đại hội Đảng, phần đông chỉ chọn những bài phát biểu những vấn đề thứ yếu hoặc những vấn đề "râu ria". Có một số ít bài đề xuất những vấn đề lớn mang tầm vóc chiến lược thì không đăng hoặc đăng nhưng không tập trung ý kiến để thảo luận. Do đó ưu điểm là đăng được nhiều ý kiến nhưng khuyết điểm lại là tản mạn, vô thưởng vô phạt. Thành ra một cuộc phát động thảo luận rộng rãi mang ý nghĩa trọng đại như thế mà kết quả rất hạn chế. Theo thông báo của đ/c Hữu Thọ thì cả nước đã gửi đến Trung ương hơn một triệu ý kiến. Điều đó chứng tỏ mọi tầng lớp nhân dân tha thiết và nhiệt tình bàn việc Đảng, việc Nước như thế nào. Chúng tôi xin mạn phép hỏi Ban soạn thảo : các đ/c làm thế nào mà trong một thời gian ngắn như thế đọc được hàng triệu ý kiến ? Và đối với những ý kiến đúng đắn, khoa học, mang tầm cỡ chiến lược nhưng lại khác biệt, thậm chí trái ngược với thứ lý luận giáo điều mà các đ/c đã quen thuộc, liệu các đ/c có đủ cái tâm rộng rãi và chính đính để thâu nhận nó rồi can đảm đề xuất việc sửa chữa Dự thảo văn kiện hay không ?
Hiện nay, chúng ta đang đứng trước một nghịch lý : rất phổ biến một tâm lý sợ hãi vô lý nhưng có thật, tức là cần đề xuất một vấn đề mà mình cho là đúng thậm chí hiển nhiên là đúng nhưng cứ dụt dè e ngại, chỉ lo bị chụp mũ "sai quan điểm", "chống quan điểm". ít khi người ta tự hỏi : quan điểm ấy là quan điểm nào ? Của ai ? Vì lợi ích nào ? Có phù hợp với lợi ích của nhân dân và thực tiễn phát triển của đất nước hay không ? Việc tiến sĩ Nguyễn Kế Hào từ chức vụ trưởng Vụ Tiểu học là một sự kiện rất đáng ghi nhận. Nó biểu hiện một tinh thần tự trọng và ý thức trách nhiệm đối với dân tộc và đất nước của người trí thức chân chính.
Đứng trước một quyết định mà mình thấy là sai trái có hại cho lợi ích chung thì dù quyết định đó là của cấp trên hay tập thể, mỗi người cần có tiếng nói rõ ràng và hành động cụ thể. Không thể vin cớ "tôn trọng nguyên tắc dân chủ tập trung" hoặc "ý thức phục tùng tổ chức" rồi ngậm miệng và hành động hùa theo cái sai. Đến khi thực tiễn chứng minh được sự sai lầm thì thường mất hàng chục năm và tổn thất hàng trăm, hàng ngàn tỷ đồng, rồi khi phải làm lại từ đầu thì khoảng cách với bạn bè trong khu vực cũng như trên thế giới thật đáng sợ. Không ai chịu trách nhiệm cả. Những người chỉ đạo việc làm hoặc đã chết hoặc đã hưu trí hoặc đã chuyển sang công việc khác. Người ta đổ lỗi cho hoàn cảnh lịch sử, còn sự thiệt hại, sự nghèo nàn, sự lạc hậu người ta trút lên đầu nhân dân và khuyến cáo NHÂN DÂN và ĐẤT NƯỚC hãy cam bề chịu đựng.
Thử hỏi công cuộc cải cách giáo dục khởi đầu từ năm 1981 đến nay thất bại thảm hại như thế, các đ/c cựu bộ trưởng Phạm Minh Hạc, Trần Hồng Quan và tất cả những vụ, viện dưới quyền các đ/c có cần chịu trách nhiệm gì không ? Bao nhiêu ý kiến đúng đóng góp, các đ/c bỏ ngoài tai. Giá thời kỳ bấy giờ, các đ/c hoặc chỉ cần một vài người dưới quyền các đ/c có tinh thần tự trọng và ý thức trách nhiệm như Nguyễn Kế Hào thì phúc đức cho Dân Tộc và Chế Độ biết bao ! Bây giờ chúng ta đi vay hàng triệu đô la để đổ vào chương trình cải cách giáo dục tiểu học, nếu thành công thì đ/c Bộ trưởng Phạm Minh Hiển nhận huân chương, nhưng nếu thất bại thì đ/c Hiển có chịu trách nhiệm gì không ? Tại sao không mang những ý kiến của Nguyễn Kế Hào ra thảo luận rộng rãi. Chỉ xem những thông số và một vài luận chứng mà Nguyễn Kế Hào đưa ra trên báo Tuổi Trẻ TPHCM ngày 2-4-2001, nếu sự thật đúng là như thế, thì kế hoạch cải cách giáo dục tiểu học thất bại là điều chắc chắn.
Theo ý chúng tôi, chẳng lẽ một người như đ/c Phạm Minh Hạc từng chủ nhiệm đề tài "chiến lược con người" ở cấp quốc gia từng tiêu tốn hơn một tỷ đồng, được nghiệm thu loại xuất sắc lại không đủ can đảm đề xuất với Ban thi đua trung ương phát động một phong trào thi đua học tập những điển hình mới như Nguyễn Tăng Thắng, Nguyễn Kế Hào hay sao ? Nếu những người này nghĩ sai, hành động sai, thiết tưởng với cương vị phó chủ tịch thường trực Hội đồng lý luận TW kiêm phó Ban khoa giáo TW, đ/c cũng nên viết bài phân tích phê phán cho rõ ràng.
Chúng ta đang hô hào phải hiện đại hóa đất nước, lại động viên nhau ngậm miệng lại thì hiện đại hóa cái gì ? Quốc hội ta vừa rồi thông qua một số đạo luật bất cập, thậm chí vi phạm hiến pháp (điển hình là luật báo chí và xuất bản); chính phủ cũng ra những nghị định vi phạm hiến pháp (điển hình là nghị định 31CP) thế mà các đại biểu quốc hội, đặc biệt những đại biểu là luật sư, luật gia, ... lại ngậm miệng, thế là nghĩa lý gì ?
Đấy là nhân dân chưa hỏi đến trách nhiệm của các Hội luật gia, các đoàn luật sư ở Trung ương cũng như ở các địa phương không hiểu các quí vị muốn để cho Nhân Dân đau khổ và Đất Nước chìm đắm đến thế kỷ nào nữa ?
Ôi ! Một dân tộc anh hùng như Dân Tộc ta, một đất nước văn hiến như Đất Nước ta lại cam chịu lẽo đẽo theo sau thiên hạ mãi sao ? Chẳng lẽ tất cả những con người Hiểu Biết hoặc tự nhận mình là hiểu biết hiện nay đều đứt mất dây thần kinh xấu hổ rồi
chăng ? Chưa bao giờ chúng tôi lại cảm nhận được nỗi đau của các cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh và tất cả những nho sĩ yêu nước, trí thức yêu nước của đầu thế kỷ XX. Nhìn một lũ mũ cao áo dài khom lưng uốn gối, một lũ sỹ phu hũ nho giả câm giả mù giả điếc trước tình hình nhân dân bị đày đọa, đất nước bị nô lệ, cụ Phan Bội Châu đã phải gầm lên ở phương Đông : "Con bò con lợn bị chọc tiết, trước khi chết còn rống lên được một tiếng, một dân tộc bị đày đọa, bị giết dần giết mòn lại không dám kêu lên một tiếng. Hóa ra con người lại không bằng con bò con lợn hay sao ?".
Còn ở phía trời Tây thì ông Nguyễn Ái Quốc cũng đã phải thay mặt nhóm Ngũ Long mà gầm lên trước Hội nghị liệt cường đang chia phần sau Thế chiến để đòi độc lập và tự do cho Dân Tộc.
Xin phép hỏi mai ngày hiệp định thương mại Việt Mỹ được thực thi, tình hình AFTA hóa thành hiện thực mà ta lại không bàn nhau chuẩn bị cho đủ sức cạnh tranh thì rồi Nhân Dân và Đất Nước sẽ ra sao ?
Chúng tôi thật kinh ngạc khi thấy trong tình hình nước sôi lửa bỏng như thế này mà đ/c Trần Bạch Đằng lại đi bàn về nhân sự. Một cái cơ chế, một cái lề lối suy nghĩ và làm việc kể cả cái lề lối đề cử, dự kiến và bầu cử như hiện nay thì "nhân sự" nào cho lại ? Nói riêng một cái cải cách hành chính, ai cũng đều thấy hết cái chướng, thấy đủ thứ cản trở trong bộ máy mà cải cách liền trong hàng chục năm vẫn chưa đâu vào đâu. Chẳng lẽ đ/c Trần Bạch Đằng lại không thấy và không hiểu rằng cứ cái cơ chế và lề lối làm việc này thì con người nào dù tài năng đến mấy cũng phải bó tay ? Hoặc là anh sẽ nhập "băng" để cùng ăn chia hoặc là anh sẽ bị hất đi không thương tiếc. Vậy thì "nhân sự" nào đây để xoay chuyển tình hình ? Một triều đình Huế đâu có thiếu người giỏi nhưng kiểm đâu ra một cái đầu Minh Trị thiên hoàng. Ông Đặng Tiểu Bình và ông Enxin đều có những điểm đáng chê trách. Nhưng khi ông Đặng Tiểu Bình biết sử dụng loại mèo biết bắt chuột, ông Enxin trong 6 tháng dám cách chức 4 thủ tướng rồi lại biết chọn cho nước Nga một ông Putin trước khi tự nguyện lui về làm dân thường (ông ta cũng chẳng thiết làm cố vấn) : thế là đáng ghi nhận và đáng học tập lắm chứ !
Đ/c Trần Bạch Đằng, với tư cách là nhà nghiên cứu, chẳng lẽ lại không thừa hiểu rằng " nhân sự" của 8 Đại hội Đảng đã qua tốt xấu ra sao, Nhân Dân lại không biết chăng ? Đại hội IX của ta kỳ này, nếu không sửa lại cái thể thức bầu cử ứng cử - nhất là cái tiền lệ "dự kiến", "bầu thử", liệu rồi "hậu lệ sẽ ra sao ? Việc đáng bàn đ/c lại không bàn. Ta cứ bảo nhau vòng vo Tam quốc, né tránh những vấn đề gai góc rồi nơm nớp lo "đầu chẳng phải lại phải tai" thì rồi đây ta sẽ dẫn nhau đến những hầm hố nào đây ?
Quả thật, chúng tôi không tránh được lỗi khiếm nhã khi bật phì cười trước những lời lẽ bàn nối theo về vấn đề DÂN VẬN của đ/c Trần Bạch Đằng
TỔ QUỐC HAY ĐẢNG CỘNG SẢN ?
Đọc báo Nhân Dân, chúng tôi giật mình khi thấy đồng chí Lê Văn Dũng - Tổng tham mưu trưởng QĐNDVN - trong bài “ ...” viết rằng : “Quân đội ta phải trung với Đảng, trung với Nước, hiếu với Dân”.
Viết như thế này hóa ra đ/c Lê Văn Dũng đặt Đảng ở vị thế trên cả ĐẤT NƯỚC, trên cả TỔ QUỐC. Vậy, đúng hay sai ?
Chúng tôi không rõ đ/c Dũng viết theo ai hay tự nghĩ ra ?
Theo sự hiểu biết hạn hẹp của chúng tôi thì chưa có một văn bản, nghị quyết nào của Đảng viết như thế. Cũng chưa có sách vở lý luận nào dạy như thế. Mà có viết và dạy như thế cũng là sai, sai cả về lý luận và thực tiễn, đặc biệt là sai với tư tưởng Hồ Chí Minh.
Chuyện “trung hiếu” xưa vốn là chuyện của Khổng Mạnh.
Chuyện “trung hiếu” nay - trung hiếu kiểu mới - mang nội dung dân tộc hiện đại, đó là chuyện của Hồ Chí Minh. Ai cũng thấy Cụ Hồ rất giỏi trong việc đưa nội hàm mới vào trong các khái niệm cũ để cho mọi người dù ít học hay nhiều chữ nghĩa cũng đều hiểu rất nhanh đặng thực hành thắng lợi công cuộc kháng chiến và kiến quốc. Từ khái niệm hạn hẹp của ngàn xưa : “trung quân” tức là trung với vua, Cụ Hồ mở rộng thành trung với Nước ; từ “hiếu ư phụ mẫu” tức là hiếu với cha mẹ, Cụ mở rộng thành hiếu với Nhân Dân. Nếu chúng tôi không nhầm thì văn bản đầu tiên nói đến vấn đề này lá cờ thêu sáu chữ TRUNG VỚI NƯỚC, HIẾU VỚI DÂN mà chính Cụ Hồ đã tận tay trao tặng cho các học viên trường Lục quân Trần Quốc Tuấn khóa II ngày ... tại Việt Bắc.
Chữ nghĩa như thế và chính chữ nghĩa đúng đắn như thế khi đã thấm vào lòng người, nó đã trở thành những lực lượng tinh thần và vật chất bất khả chiến thắng.
Bất kỳ một kẻ thù nào đối đầu với một quân đội như thế đều phải hoặc là giơ tay đầu hàng (chủ nghĩa thực dân cũ) hoặc là cuốn cờ rút trong danh dự (chủ nghĩa thực dân mới).
Đánh nhau với bộ đội Việt Nam, mọi kẻ thù dứt khoát phải thất bại vì đó là QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM. Mọi kẻ thù không hiểu hoặc cố tình không chịu hiểu rằng đây là một thứ quân đội do Nhân Dân đẻ ra, Nhân Dân nuôi dưỡng, Nhân Dân che chở bảo vệ. Hãy tiêu diệt Nhân Dân này rồi mới tính được chuyện tiêu diệt Quân Đội này. Mà Nhân Dân này đã 4000 năm sừng sững trụ vững trên đất này, tìm đâu ra lực lượng nào tiêu diệt nổi ? Lịch sử chỉ thấy mọi lực lượng ngu xuẩn đụng đầu với Nhân Dân này đều chuốc lấy thất bại thảm hại. Thù Việt Nam thì cứ việc thù, còn những ai muốn tính đến chuyện phục thù Việt Nam, hãy coi chừng ! Xin vui vẻ thân ái nói rõ với nhau như thế !
Vởy, tại sao lại có chuyện đang “trung với Nước, hiếu với Dân” lại trở thành “trung với Đảng, hiếu với Dân”.
Ai đã từng nghiên cứu lịch sử Nước ta và lịch sử Đảng ta hẳn thấy rõ, đó là chuyện xảy ra vào thời kỳ sau khi Cụ Hồ qua đời. Việc Bộ Chính trị Lê Duẩn duyệt sự thay đổi này đã gây ra một phản ứng không nhỏ. Nó cũng tương tự như chuyện sau ngày toàn thắng 30-4-75, người ta cứ nhấn mạnh công ơn của Đảng đối với Dân. Mãi gần đây, Bộ Chính trị Lê Khả Phiêu mới điều chỉnh được rằng phải nhấn mạnh công ơn của Nhân Dân đối với Đảng. Như thế là trở lại với Hồ Chí Minh, vì đánh giá đúng vị thế của Nhân Dân là một bộ phận quan trọng về lý luận cũng như thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh.
Hình như đ/c Lê Văn Dũng cũng nhận thấy cần phải chấp hành chỉ thị của Bộ Chính trị và trở lại với Hồ Chí Minh. Nhưng sao đ/c lại trở về nửa vời như thế ? “Trung với Đảng, trung với Nước, hiếu với Dân”, viết như thế hóa ra được đặt trên cả Tổ Quốc và Nhân Dân.
Thú thật, chúng tôi cũng không rõ, trước khi được bổ nhiệm làm Tổng tham mưu trưởng QĐNDVN, đồng chí đã được học qua những học viện chính trị, học viện quân sự nào ? Chẳng lẽ ở những học viện đó người ta lại không giảng hoặc giảng sai một luận điểm hết sức quan trọng của Lê-nin : Theo sự phát triển tất yếu của xã hội thì đến một thời điểm nào đó nhà nước sẽ tiêu vong, giai cấp cũng tiêu vong và đảng cũng không tồn tại nữa, nhưng Tổ Quốc, Dân Tộc vẫn sẽ còn lại, còn lại cho đến khi không còn hành tinh và nhân loại. Cho nên, Cụ Hồ nói : “Tổ Quốc trên hết” là đúng, đúng với truyền thống, đúng với hiện tại và mãi mãi.
Vởy thì không được phép quên rằng nhiệm vụ của Quân Đội Nhân Dân là bảo vệ TỔ QUỐC và bảo vệ NHÂN DÂN, nghĩa là phải đặt tổ quốc trên hết, phải “trung với Nước, hiếu với Dân“.
Từng có nơi, có những người lãnh đạo ra lệnh cho quân đội bắn vào nhân dân, do đó họ phải ra hầu tòa. Hai cựu tổng thống Hàn Quốc Chung Đô Hoan và Rô-tê là những tấm gương tầy liếp. ậ phe ta thì có đ/c Đặng Tiểu Bình tuy thoát được tòa án pháp lý như vẫn phải ra hầu tòa án lịch sử.
Nhân Dân tha thứ hay không là quyền của Nhân Dân.
Mặc dù chưa bao giờ nguôi lòng căm ghét cái ông công sản lão thành Đặng Tiểu Bình từng mở miệng nói một câu đáng tởm : “Phải dạy cho Việt Nam một bài học” rồi dám lùa hàng chục vạn quân tràn qua biên giới cướp bóc, đánh phá nhân dân của một dân tộc anh em cùng phe XHCN với mình, xóa bỏ tình nghĩa “môi răng”, “vừa là đồng chí vừa là anh em”, chúng tôi vẫn khâm phục lòng tự trọng của ông và kêu gọi mọi người lãnh đạo nên học tập tinh thần tự trọng đó.
Mọi sự ân hận, sám hối đều đáng được hưởng lượng khoan hồng của Nhân Dân và hậu thế. Nói cho mọi người nào đã từng lầm lỗi hoặc đã trót nhúng tay vào tội ác hãy mau tỉnh ngộ.
Lưới trời lồng lộng, không một Chung Đô Hoan, một Đặng Tiểu Bình, môt Pinochê nào có thể trốn thoát. Tất cả những kẻ nào chủ trương dùng vũ lực để tàn sát nhân dân đều sẽ bị Nhân Dân và Lịch Sử tiêu diệt !
2 - SỬA ĐẢNG CHÍNH LÀ SỬA TẬN GỐC
Nhiều vị cứ thắc mắc với chúng tôi : thế ông giáo sư Phạm Minh Hạc xúc phạm đến anh và chị như thế nào ?
Chúng tôi xin trình bày vắn tắt như sau :
Giáo sư Phạm Minh Hạc, với thái độ niềm nở, lịch sự đã phát biểu ý kiến khá đúng và cũng khá là xúc phạm :
- Chúng tôi đã đọc kỹ tác phẩm “Đối thoại năm 2000” của hai đồng chí. Tôi thấy đây là một tác phẩm lý luận quan trọng, đề xuất được nhiều luận điểm lớn có tính cách xây dựng. Nhưng theo tôi có những dòng không nên đưa vào. Ví ndụ như mấy dòng ở trang : ... Đưa những dòng như thế này vào, nó làm nham nhở tác phẩm. Căn cứ vào những dòng như thế này làm người ta hiểu hình như ở ta luôn tiềm tàng một sự phản đối và Đảng ta vốn mang bản chất nhân đạo, đâu có thể để xảy những sự tàn sát như thế.
Chúng tôi cảm ơn lời khen của gs. Hạc va thanh minh rằng chúng tôi không chủ trương viết một tác phẩm lý luận, đồng thời cũng thẳng thắn phản bác lối dùng từ xúc phạm :
- Trong tác phẩm của chúng tôi, chúng tôi có đưa ra nhiều dự báo. Còn những chuyện như Quang Du, Thiên An Môn mà không xảy ra ở nước ta là điều đáng mừng, có gì cần phải nói. Còn bản chất nhân đạo của Đảng ta, chúng tôi đâu có lạ nhưng chúng tôi phản đối đ/c Phạm Minh Hạc đã dùng từ “nham nhở”. Thế nào là nham nhở ? Chúng ta không được dùng những từ như thế trong một cuộc thảo luận nghiêm túc ?
Đ/c Hạc vội vàng ngắt lời chúng tôi :
- Các đ/c đừng hiểu lầm, tôi dùng từ nham nhở này là trong ngoặc kép.
- Không ! Dù ngoặc kép hay không ngoặc kép thì vẫn là nham nhở. Chúng tôi coi đó là một sự xúc phạm. Chúng tôi sẽ phản bác bằng văn bản và chúng tôi cũng yêu cầu đ/c trả lời bằng văn bản. Chúng tôi không có quyền xúc phạm đ/c và đ/c cũng không được quyền xúc phạm chúng tôi. Mọi sự xúc phạm đều phải đưa ra tòa án dư luận, nếu cần đưa ra tòa án pháp lý.
Cho đến hôm nay, chúng tôi vẫn không hiểu đ/c Phạm Minh Hạc dùng từ “nham nhở” như thế là vô tình hay cố ý. Vô tình tức là không hiểu văn học dân gian. Còn cố ý là thiếu văn hóa trong tranh luận học thuật. Một chuyên gia nghiên cứu tâm lý học vào loại kỳ cựu như đ/c Hạc không thể không biết chuyện này.
Về bản chất nhân đạo cũa Đảng Cộng sản, chúng tôi chẳng có lý do gì để không nhất trí với đ/c Phạm Minh Hạc. Không nhân đạo thì việc gì mà phải đi tiên phong sẵn sàng vào nhà tù, lên máy chém chỉ để cho tất cả những nô lệ trên thế gian này đứng thẳng dậy làm người tự do. Cũng nên lấy làm buồn khi hàng vài chục năm nay, khi họp đảng, người ta quên cả việc hát “Quốc tế ca”.
“Vùng lên hỡi các nô lệ ở thế gian,
Vùng lên hỡi ai cực khổ bần hàn”.
Đáng buồn hơn nữa là “một bộ phận không nhỏ” đảng viên không thuộc Quốc tế ca, thậm chí không biết mặt mũi, không hiểu giai điệu hào hùng của Quốc tế ca ra làm sao. Tình hình này chắc chẳng phải chỉ riêng ở Ta mà ở Tàu, ở Tây cũng rứa !
Gần đây, ta đã phải có chỉ thị chấn chỉnh tình hình hát Quốc ca và Quốc tế ca nhưng xem ra việc chấp hành vẫn còn lác đác nhu nhơ lắm. Đây là trách nhiệm của các tổ chức nhà trường, tổ chức đảng, tổ chức đoàn thể hoặc tất cả các ban tổ chức hội nghị nói chung. Chúng tôi thích nói cụ thể như thế, không tán thành lối nói “”cơ quan chức năng” chung chung mà báo chí ta hiện nay hay dùng. Nhân đây chúng tôi đề nghị báo chí của ta phản ánh tình hình nên qui rõ trách nhiệm cho từng cơ quan cụ thể như Giao thông, Xây dựng, Ủy ban nhân dân, Công an, Tòa án, ... chứ không nên nói chung chung nữa.
Bản chất cộng sản là nhân đạo nhưng tại sao lại có nghịch lý này : có những đảng viên cao cấp lại hành động một cách vô nhân đạo không chỉ đối với nhân dân mà ngay đối với các đ/c trong Đảng của mình. Hiện tượng Stalin, Mao Trạch Đông, Đặng Tiểu Bình, Pôn-Pốt, ... được lặp đi lặp lại ở hầu hết các đảng cộng sản ở nhiều cấp độ khác nhau; ở ta, hiện tượng Lê Đức Thọ có nhẹ hơn nhưng những việc làm thất nhân tâm trái với bản chất cộng sản, bản chất dân tộc cũng không thể chấp nhận được.
Tất nhiên, việc luận công định tội đối với từng nhân vật lịch sử đều phải hết sức thận trọng, khách quan và công bằng. Đó là việc của đương thời nhưng chủ yếu là của hậu thế. Nên luôn luôn nghĩ đến sự đánh giá của hậu thế mà biết tiến, biết dừng, biết sống cho đúng và sống cho tốt.
Theo chúng tôi, sở dĩ các đảng cộng sản mắc sai lầm trầm trọng trong việc đối nhân xử thế là do mới sáng suốt trong việc tổ chức đấu tranh giành chính quyền và tổ chức các cuộc chiến tranh vệ quốc, nhưng lại chưa đủ sáng suốt trong việc tổ chức xây dựng một xã hội mới. Chỉ riêng Lê-nin biết mình cần phải làm gì để lãnh đạo nhân dân xây dựng một xã hội mới. Ông mới thật là người mácxít chân chính. Ông biết xuất phát từ thực tiễn Nga và thực tiễn của thời đại để định ra chủ trương đúng và hành động đúng. Tiếc rằng ông mất quá sớm và những người kế tục ông đã làm sai nên hỏng việc. Một thực thể cách mạng vĩ đại như thế mà chỉ tồn tại có 72 năm, thật là đau đớn cho tất cả những người nô lệ trên hành tinh.
Chúng tôi không tán thành với những ai nói và viết rằng sự sụp đổ và tan rã của Liên Xô và các nước Đông Âu vừa qua chỉ là bước thoái trào tạm thời của chủ nghĩa xã hội. Thực ra do lý luận sai lầm của Stalin và những người đi theo ông đã xây dựng một thứ CNXH không đúng qui luật và cũng không hợp với nguyên vọng của nhân dân. Cần nhắc lại rằng sự sụp đổ này không thể chỉ cắt nghĩa bằng nguyên nhân phản bội của một vài cá nhân hoặc sự “diễn biến hòa bình” của những lực lượng thù địch. Chúng tôi đã nêu trong văn bản “Chỉnh đốn để tồn tại và phát triển“, một lần nữa lại khẳng định rằng : quá trình chống lại qui luật, quá trình chống lại trí tuệ và bệnh “kiêu ngạo cộng sản” là ba nguyên nhân chủ yếu tạo ra sự sụp đổ chế độ XHCN. Đây là một sự mai táng vĩnh viễn đối với chế độ XHCN Stalin, một thực thể chính trị - kinh tế - xã hội phi qui luật và phi nhân đạo. Cũng nên tỉnh táo và phân biệt cho rõ chế độ XHCN đã thành hiện thực của Stalin và chế độ XHCN mới ở trên bình diện lý thuyết của Mác. Một lần nữa lại xin được phép thẳng thắn chất vấn Ban soạn thảo văn kiện Đại hội IX :
- Các đ/c vạch mục tiêu chiến lược cho toàn Dân, toàn Đảng ta đi lên CNXH thì đó là CNXH nào ? CNXH lý thuyết của Mác ư ? Còn lâu mới đến lượt Việt Nam chúng ta. Ngay Trung Quốc làm ăn khá như thế mà đ/c Đặng Tiểu Bình còn phải phán rằng phải cần 100 năm nữa. Vậy, Việt Nam ta định “đốt cháy giai đoạn” cho nó ngót 100 năm chăng ?
- CNXH Stalin ư ? Chúng ta đã làm thử rồi. Đại hội VI (1986) đã khẳng định đường lối XHCN Stalin do Đại hội IV đề ra và Đại hội V nói tiếp là sai lầm. Và nhờ đường lối đổi mới kịp thời của Đại hội VI nên ta đã tránh được sụp đổ để có thể tồn tại và phát triển.
Chúng tôi vẫn khẳng định rằng Việt Nam ta chỉ có thể tiến hành xây dựng CNXH Hồ Chí Minh mới thích hợp với trình độ phát triển của ta hiện nay.
Rất tiếc, không có ai trong giới lý luận mặn mà thảo luận. Chỉ riêng có đ/c giáo sư - viện sĩ Nguyễn Duy Quý - một thành viên của đoàn đại biểu lý luận khoa học xã hội Việt Nam đã qua hai lần thảo luận với đoàn đại biểu lý luận Trung Quốc về CNXH ở thế kỷ XXI - phản đối bâng quơ :
...
Tạp chí Triết học số ... trang ...
Xin hỏi đ/c Nguyễn Duy Quý :
- Cái mà Trung Quốc gọi là “CNXH mang đặc sắc Trung Quốc”, nếu không phải là CNXH dân tộc thì nó thuộc loại CNXH nào ? Nếu đ/c không đồng ý xây dựng CNXH dân tộc ở những nước chậm phát triển như Trung Quốc và ta, nhất là với Bắc Triều Tiên và Cu-ba thì đ/c định xây dựng CNXH nào ?
Vấn đề có vẻ đơn giản nhưng lại cực kỳ nghiêm trọng vì chính ở đây mới đúng là "sai một ly đi một dặm". Chẳng phải vì xác định đường lối XHCN một cách sai lầm mà từ sau Đại hội III (1960) đến nay, nền kinh tế của chúng ta cứ lao đao, chệnh choạng, trì trệ đó sao ?
Chúng tôi xin nhắc lại : nếu nói chúng ta phải theo CN Mác-Lênin thì cũng nên hiểu theo tinh thần Hồ Chí Minh là chúng ta tiếp nhận phép biện chứng mácxít chứ không phải theo từng câu từng chữ trong các văn bản của Mác và Lênin. Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản hay thật đấy nhưng chúng tôi đã chứng minh rằng có nhiều dòng, nhiều ý, nhiều câu chữ hoàn toàn không thích hợp với Việt Nam, không thể vận dụng được, dù là "vận dụng sáng tạo". Thí dụ như các vấn đề thực hiện "chuyên chính vô sản", "xóa bỏ quyền tư hữu", v.v.
Những đồng chí chủ trương đưa Điều 6 của Hiến pháp Liên Xô thành Điều 4 của Hiến pháp Việt Nam, những đồng chí kiên trì giữ lại Điều 4 hiện nay và kiên trì giữ lại các xí nghiệp quốc doanh để bù lỗ, kiên trì cho báo chí quốc doanh giữ độc quyền ngôn luận, kiên trì tiêu diệt những ai có ý kiến "đa nguyên", "đa đảng", ... chính là do ngấm quá sâu các luận điểm trên của Tuyên ngôn.
Nếu chịu bỏ công khảo sát thực tiễn Việt Nam một cách thực sự khoa học thì ta sẽ dễ nhận thấy việc vận dụng cứng nhắc những "giáo điều" của Mác và Enghen cũng như việc quay lưng lại với những "điều dạy" của Lênin đã đưa đến những hệ quả hết sức tai hại. Ví như mới nhìn tình hình các cấp ủy Đảng và các cấp chính quyền tùy tiện chiếm đất, tùy tiện cấp đất, tùy tiện giải tỏa, tùy tiện định giá đền bù ... (cũng như trước đây tùy tiện tịch thu nhà cửa đất đai và cho đến nay đã thấy sai vẫn không trả lại), người ta lại tưởng đó chỉ là vấn đề thoái hóa đạo đức của cán bộ và đảng viên. Do đó mới có những người kê đơn "tu thân", "chống chủ nghĩa cá nhân", ...
Không phải ! Ta kết nạp toàn những người ưu tú vào Đảng, sao lại có thể có tình hình đảng viên thoái hóa biến chất nhanh đến như thế, phổ biến đến như thế ? Nói "một bộ phận" là không đúng. Sửa lại thành "một bộ phận không nhỏ" thì chẳng qua cũng chỉ là cách nói để biểu hiện số cán bộ thoái hóa là đông là nhiều.
Kỷ luật hay xét xử tất cả cũng không được, vì hàng triệu đảng viên này đang làm sai một cách rất đúng, đúng với luật đất đai mà Quốc hội đã thông qua. Do đó, phải sửa cái gốc là luật. Mà luật sai lại bắt nguồn từ luận điểm "xóa quyền tư hữu" nằm ngay trong Tuyên ngôn. Cho nên cái gốc của cái gốc là cái phần nhận thức lý luận của chúng ta. Nhận thức sai, lý luận sai làm sao lại có thể hành động đúng được. Chúng tôi phản đối các đ/c giáo điều lúc nào cũng bênh chầm chập Mác, vin vào Mác mà làm sai. Và chúng tôi cũng phản đối cả những người, những lực lượng nào cứ căn cứ vào cái thực tiễn làm sai để chê bai Mác, phủ định Mác.
Những dự báo của Mác, công bằng mà nói là rất đẹp. Còn đúng hay không, đợi các cuộc cách mạng ở các nước G7 trả lời. Quyền trả lời này cũng chưa đến phần chúng ta.
Trong ba buổi tọa đàm với tiến sĩ Hà Sĩ Phu và một số nhân sĩ ở Đà Lạt, chúng tôi cũng đã tranh luận khá thẳng thắn và gay gắt về những điểm này.
Thực tình, chúng tôi không dám khuyên bảo ai, mà có khuyên bảo cũng chẳng được. Chúng tôi chỉ xin lưu ý cnhắc nhở : những đ/c "giáo điều" thì nên vui lòng khảo sát kỹ hơn nữa thực tiễn của Việt Nam ta mà soạn thảo luật lệ, nghị quyết, văn kiện, v.v. ; còn những đ/c "xét lại" thì nên vui lòng bỏ thì giờ vàng ngọc đọc lại một quyển thôi "Marx, nhà tư tưởng của cái có thể", nếu rỗi rãi có thể đọc thêm "Marx, người vượt thời đại". Cả hai ông Michel Vadet và Belside đều là là các học giả tư sản cả đấy ạ.
Và trân trọng kiến nghị Đảng và Nhà Nước ta giữ vai trò chủ đạo và điều tiết xã hội, hãy tổ chức các diễn đàn để cho cả hai bên "giáo điều" và "xét lại" tự do tranh luận, miễn mọi sự theo dõi, trù dập, cách ly, bỏ tù nhau một cách vô lối và vô pháp luật.
Xét cho cùng, việc CNXH thất bại trong keo vật vừa qua không phải do CNTB thắng mà do CNXH tự thua. Phải phân tích cho kỹ vì sao lại có chuyện tự thua ấy để không tiếp tục thua nữa. Thực tế lịch sử đã xác nhận CNXH đã từng có thời kỳ tỏ ra có sức sống, khỏe khoắn hào hùng, nhưng thời kỳ đó đã qua rồi. Không nên ngoái cổ luyến tiếc và sống bằng hoài niệm. Người cách mạng phải có gan nhìn thẳng vào thực tại và gq có hiệu quả những vấn đề của hiện tại. Cộng hòa Cuba một thời gian dài không chịu chấp nhận kinh tế thị trường nên hết sức lúng túng. Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên, cho đến năm 2000 vẫn chưa biết cách thoát ra bằng lối nào. Cộng hòa nhân dân Trung Hoa tỏ ra khôn ngoan hơn : tuyên bố xây dựng CNXH mang đặc sắc Trung Quốc, làm kinh tế thị trường XHCN. Thực chất họ đang làm kinh tế TBCN. Làm kinh tế TBCN mà không thi hành luật pháp cho nghiêm, không có dân chủ lại sợ tự do ngôn luận, sợ đa nguyên, đa đảng ... thì tham nhũng nảy nở sinh sôi là điều hiển nhiên và tất yếu. Dù có bắn bỏ phó chủ tịch, cách bỏ hàng loạt bí thư tỉnh ủy hoặc ủy viên trung ương cũng chẳng thể ngăn chặn được. Thay thủ tướng Lý Bằng bằng thủ tướng Chu Dung Cơ đầy mưu lược cũng chẳng giải quyết được tình hình thua lỗ của các xí nghiệp quốc doanh, không cách nào tiết nọc được nòi tham nhũng. Có nhiều người cứ kêu tại sao ta lại giống Tàu thế ?
- Thì cũng cùng một CNXH, cùng một cơ chế như nhau. Chẳng qua họ tiến nhanh hơn là do họ khôn hơn. Họ lẳng lặng từ bỏ CNXH Stalin. Họ bỏ từ từ, ta cũng bỏ tư từ. Nhưng caí tốc độ từ từ của họ nhanh hơn ta nhiều. Riêng cái chuyện họ không nhắc đến chủ nghĩa Lênin, tuyên bố một nước Trung Hoa hai chế độ, lại bàn nhau giúp các lãnh đạo bô lão về tuyến 2 ... Thế là khôn quá đi chứ ! Thế là "đặc sắc" Trung Quốc. Thế là "CNXH mang đặc sắc Trung Quốc".
CHúng tôi cũng chẳng hiểu đ/c giáo sư viện sĩ Nguyễn Duy Quý dựa trên cơ sở nào để phản đối "chủ nghĩa xã hội dân tộc". Chúng tôi đưa ra chủ nghĩa xã hội dân tộc Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội Việt Nam, đ/c Quý lại khủng khỉnh, vờ vịt coi như không trông thấy, không nghe thấy. Cả Ban soạn thảo văn kiện Đại hội IX cũng đánh bài phớt lờ.
Xin phép hỏi thêm một lần nữa : cái CNXH mà các đ/c kiên quyết khẳng định, kiên trì dẫn dắt chúng tôi đi theo, nó là thứ CNXH nào vậy ? Riêng bài của giáo sư Lê Hữu Tầng, phó giám đốc Trung Tảm KHXH và nhân văn quốc gia đăng trên Tạp chí Triết học số *** chúng tôi mạn phép không bàn tới vì đó chẳng qua chỉ là thứ lý luận tư biện, sao đi chép lại, trích dẫn đủ các thứ "kinh điển" không có quan hệ gì đến thực tiễn Việt Nam cả. Và toàn bài, đ/c Tầng cũng không dám đề xuất một vấn đề nào của thực tiễn Việt Nam nóng bỏng hiện nay để giải quyết dứt điểm về mặt lý luận. Dù đ/c Tầng có không hài lòng, chúng tôi cũng xin nói thẳng nghiên cứu triết học theo lề lối như thế là vô bổ, thậmchí còn hết sức có hại.
Lâu nay, lối nghiên cứu triết học và lý luận như thế này đã đưa đến một sự ngộ nhận nguy hiểm. Hiện nay rất nhiều người cứ tưởng nhầm rằng ai thạo sao chép, thạo trích dẫn là đang làm công tác nghiên cứu lý luận, nghiên cứu triết học. Trân trọng kiến nghị các bậc đàn anh đã từng nổi tiếng và có uy tín về kiểu nghiên cứu này hãy can đảm tự phê bình, và cao hơn là biết sám hối để cho các lớp nghiên cứu đàn em tránh được những vết xe này.
Như chúng tôi đã từ trình bày trong hai tác phẩm trước ("Chỉnh đốn để tồnbtại và phát triển", "Đối thoại năm 2000") rằng CNXH mà Mác quan niệm rất khác với CNXH mà Lênin quan niệm sua này. CNXH lý thuyết của Mác chỉ có thể thành công ở thời kỳ hậu tư bản, nghĩa là cách mạng XHCN chỉ có thể thành công ở những nước tư bản phát triển nhất, thậm chí chỉ thành công ở thời kỳ toàn bộ hành tinh đã làm xong CNTB. Còn CNXH thực tiễn của Lê nin là CNXH có thể thành công ở một nước phát triển TBCN trung bình như nước Nga. Lênin chủ trương đánh vào mắt xích yếu nhất trong dây xích TBCN. Như thế là Lênin nhận định hoàn toàn khác với Mác và ông đã hành động sai với chủ trương của Mác. Ông sai với lý luận Mác nhưng lại đúng với thực tiễn Nga nên mới tạo ra một cách mạng tháng Mười vĩ đại đến như thế. Như sau khi chiến thắng liên quân 14 nước và thắng bọn Bạch vệ trong cuộc nội chiến, ông cũng lúng túng không biết đưa nước Nga tiến lên như thế nào. Chính sách cộng sản thời chiến thì lỗi thời không dùng được nữa. Do đó, ông rất mừng khi tiếp nhận chính sách kinh tế mới của Trotsky, một ủy viên trung ương thân cận với Lênin - và ông yêu cầu Trotsky hãy dũng cảm bảo vệ thắng lợi "chính sách kinh tế mới" trước Ban chấp hành Đảng cộng sản Nga. Điều không may mắn cho cách mạng XNCH Nga là Lênin mất và "chính sách kinh tế mới" bị Stalin xổ toẹt.
Vì vậy, chúng tôi vẫn tiếp tục khẳng định rằng mọi chuyện tan rã sụp đổ của hệ thống XHCN là bắt nguồn từ Stalin, từ những lý luận sai lầm của Stalin (xem cuốn những vấn đề kinh tế xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô).
Lý luận về CNXH của Stalin thực thi ở Liên Xô còn hỏng thì toàn bộ hệ thống XHCN làm theo lý luận đó mà đều hỏng thì có gì là lạ. Nhưng vì xuất phát từ lòng kính trọng Stalin về những công lao của ông nên giới lý luận ở ta cũng như ở nhiều nước chỉ dám nói : đây là mô hình CNXH Xô Viết có những khuyết tật chứ không dám nói rằng mô hình này sai vì do lý luận của Stalin sai. Một điều hết sức khó khăn là : Stalin sai là sai với Lênin nhưng lại hoàn toàn đúng với Mác. Do đó, chúng tôi mới nói là ông đã sai một cách rất đúng. Nhưng một nghịch lý không thể giải quyết được và cũng khó nhận thức ra là Stalin càng làm đúng thì lại càng sai. Nghĩa là ông càng đúng với lý luận Mác bao nhiêu thì ông càng sai với thực tiễn Nga và thực tiễn thế giới. Chắc chắn nhiều người sẽ phản đối khi chúng tôi kết luận rằng : khi Stalin không đếm xỉa đến thực tiễn Nga, phủ nhận những chính sách đúng đắn của Lênin thì Stalin không phải chỉ chống Lênin mà đồng thời chống Mác. Vì linh hồn của CN Mác chính là phép biện chứng mácxít.
Do đó, chúng tôi hoàn toàn có cơ sở để khẳng định rằng Hồ Chí Minh nắm vững phép biện chứng mácxít và đưa sự nghiệp giải phóng dân tộc đến thắng lợi. Chính thành công vĩ đại này đã đưa Cụ gia nhập hàng ngũ những vị thánh cứu nước của Việt Nam. Cũng có những người đầy thiện ý khi khuyên chúng tôi : các vị cũng nên ca tụng cụ Hồ vừa phải thôi.
Không ! Chúng tôi không hề làm chuyện ca tụng. Chúng tôi chỉ trình bày một thực tiễn Việt Nam, một thực tiễn của đời sống tâm linh Việt Nam. Dân tộc Việt Nam thờ Cụ với tư cách là một bậc thánh cứu nước. Thế giới tôn vinh Cụ với tư cách một anh hùng giải phóng dân tộc và một danh nhân văn hóa kiệt xuất.
Chúng tôi không dám khuyên bảo ai cả, chỉ chân thành lưu ý những ai muốn nói đến Hồ Chí Minh thì cần nhớ rằng : động đến Hồ Chí Minh tức là động đến Nhân Dân, động đến cả một dân tộc có truyền thống thờ cùng tổ tiên và sùng bái thần thánh.
Tranh luận cứ việc tranh luận nhưng đừng quên rằng phải tôn trọng đời sống tâm linh của Dân Tộc.
Nhân đây chúng tôi cũng cảm ơn đ/c thiếu tướng Trần Nhật Độ đã gửi cho chúng tôi một bức thư với lời lẽ ưu ái và nhiều ý kiến tranh luận thẳng thắn. Riêng với ý kiến nói rằng : "các bạn "ra đòn" với Stalin nặng quá", chúng tôi xin thưa rằng chúng tôi không dám phê phán gì Stalin cả. Với tư cách người nghiên cứu, chúng tôi chỉ trình bày vấn đề đúng sai phải trái và mời mọi người tham gia tranh luận để cùng nhau tìm ra một lối thoát cho Việt Nam, giúp cho Việt Nam chúng ta mau chóng phát triển kịp tiến bước mà sánh vai với các nước tiên tiến trên thế giới.
Có thể chúng tôi bị chê là ảo tưởng và lãng mạn thái quá. Không, chúng tôi tin vào trí tuệ Việt Nam, tin vào tiềm lực văn hóa của Việt Nam mà đặt vấn đề hy vọng như thế.
Chúng tôi rất lấy làm lạ, chẳng lẽ các đ/c ở Hội đồng lý luận Trung ương, ở Viện Triết học, ở Học viện chính trị quốc gia, ... lại không thấy được cái sai của Stalin trong việc đặt dấu nối giữa cụm từ Mác-Lênin hay sao ? Nếu chúng tôi không nhớ nhầm thì vào thập kỷ 20, Nguyễn Ái Quốc và nhiều người khác vẫn nói chủ nghĩa Mác riêng, chủ nghĩa Lênin riêng, chứ không hề ói gộp chủ nghĩa Mác-Lênin như sau này mọi người thường nói và viết.
Xin hỏi Ban soạn thảo văn kiện của Đại hội IX, các đ/c có hiểu chủ nghĩa Mác-Lênin này là thế nào không ?
Mong các đ/c vui lòng giải thích tóm tắt cho mọi người nghe.
Việt Nam ta phải theo CN Mác-Lênin. Vậy là theo Mác hay theo Lênin ?
Riêng trong lĩnh vực kinh tế hiện nay thì luận điểm nào của Mác thích hợp, luận điểm nào của Lênin thích hợp ?
Chúng tôi ngờ rằng hiện nay rất nhiều việc chúng ta lúng túng không biết xử lý ra sao vì phân biệt đúng sai rất khó. Vừa rồi, trên đài truyền hình, các đ/c Hà Đăng, Lê Hữu Tầng, Lưu Minh Hồ ... dõng dạc giải thích rằng chúng ta phải xây dựng nền kinh tế trên cơ sở công hữu. Thế thì đúng với Tuyên ngôn Đảng Cộng sản của Mác quá rồi còn gì. Sau đó các đ/c lại bảo phải làm kinh tế nhiều thành phần. Thế là đúng với Lênin quá rồi còn gì. Nhưng rõ ràng cũng chống lại Mác. Các đ/c không biết rằng nông dân và các tầng lớp nhân dân khác ở 61 tỉnh đều kêu ầm phản đối việc chiếm đất là do cái luận điểm công hữu này. Xin thưa với các đ/c, muốn xóa quyền tư hữu về ruộng đất cũng như về các tư liệu sản xuất khác ở đất nước này tối thiểu cũng phải 100 năm nữa. Rõ ràng, đó không phải là công việc của thế hệ chúng ta. Đâu có phải chúng ta cứ ghét hoặc sợ "quyền tư hữu" rồi tùy tiện xóa bỏ, tùy tiện công hữu hóa những gì không thể công hữu hóa trong tình hình hiện nay được.
Các đ/c dự định chúng ta sẽ bù lỗ cho các xí nghiệp quốc doanh đếnnăm nào của thập niên này ? Và lấy tiền thuế của nhân dân đóng góp để bù lỗ hay lấy tiền vay nợ ODA để bù lỗ ?
Chẳng lẽ chúng ta vui lòng để cho giai cấp nông dân sau 30 năm kháng chiến và 25 năm hòa bình đã ra sức kéo cày trả nợ, miễn là giữ vững CNXH, giữ vững định hướng XHCN. Chúng ta không có quyền vô trách nhiệm như thế. Và chắc chắn mọi tầng lớp nhân dân cũng không chấp nhận những thứ lý luận vớ vẩn và một thực tiễn tệ hại như thế.
Chủ nghĩa Mác vẫn là một học thuyết lớn của nhân loại, một học thuyết có giá trị lớn ở thế kỷ XX. Chúng ta không có quyền vận dụng sai để góp phần bôi nhọ và phủ nhận CN Mác. Hình như giai cấp tư sản và những nhà lý luận tử tế hơn các đ/c nhiều. Người ta ghét chủ nghĩa Mác, thậm chí thù địch với nó thế mà người ta đọc nó, nghiền ngẫm nó một cách nghiêm túc, khoa học. Còn các đ/c của ta thì đọc lớt phớt, nghiền ngẫm thì hiếm rồi, còn sao chép trích dẫn thì rất nhanh, rất thành thạo.
Khoan, xin đừng vội thanh minh hoặc phản đối chúng tôi. Vì điểm lại tất cả những gì gọi là sai lầm của Đảng ta trong quá khứ đều hoặc do nhân dân phát hiện hoặc các đ/c lãnh đạo Đảng thấy tình hình gay quá không sửa nhanh thì nguy chứ tuyệt nhiên không thấy một người làm lý luận chuyên nghiệp nào hoặc một cơ quan nghiên cứu lý luận nào công bố những công trình phát hiện của mình về những sai lầm đó. Chắc sẽ có đ/c cãi rằng chúng tôi cũng biết cả nhưng nói sao được.
Thế là hèn nhát hoặc vô trách nhiệm, không đáng mặt làm lý luận, nên tìm công việc khác thích hợp với bản chất của mình nếu còn lòng tự trọng. Đ/c Hữu Thọ còn bảo rằng chúng tôi "phê phán nhiều người quá, họ không nói lại được, không cẩn thận họ kiện cho".
Thử hỏi ý thức dân chủ của họ, ý thức về quyền tự do ngôn luận của họ, họ cất giấu đi đâu ? Còn nếu những điều mà chúng tôi nói không phải là sự thật, chỉ là những điều vu cáo xúc phạm đến danh dự của họ, họ vẫn cứ việc sử dụng quyền công dân của mình. Hay ý thức công dân lại cũng thiếu nốt ?
Hiện nay, sau gần một năm nghiên cứu, bàn bạc, chúng tôi được tin các ông Trần Bạch Đằng, Nguyễn Thế nghĩa và nhiều vị liên đới hội thảo Gia Long, hội thảo Việt Nhật, ... lại liên minh với ông Nguyễn Duy Quý ở Hà Nội tìm cách "phản kích" chúng tôi. Nghe đâu họ cũng không đủ gan chơi "bài lật ngửa" mà lại dùng một "sách" quá cũ : kích động quần chúng viết thư nặc danh phản đối lên tận trung ương.
Nói như thế để thấy rằng đ/c Hữu Thọ đừng lo rằng họ thiếu mưu chước, chỉ có điều họ vẫn còn đang lúng túng về vấn đề 17.300 USD (mười bảy ngàn ba trăm đô la Mỹ) mà Bộ ngoại giao Nhật đòi hoàn lại về vụ Hội thảo Việt Nhật lần thứ hai không thành. Thu lại cho đủ tiền chia chác ấy là khó mà ông Viện trưởng Nguyễn Thế Nghĩa trích giữ của Viện để trả nợ đây cũng dứt khoát là không ổn. Chúng tôi kiến nghị với Trung ương : Nếu vì lẽ nào đó, ông giám đốc Trung tâm KHXH và NVQG Nguyễn Duy Quý không có khả năng tổ chức việc thanh tra để làm sáng tỏ chuyện này thì Ban thanh tra chính phủ tổ chức thanh tra để có những kết luận về vụ Việt Nhật và tất cả những vụ khuất tất của Viện KHXH tại TP Hồ Chí Minh trong 25 năm vừa qua.
Nói cho họ biết, cái luận điệu "họ lại dám chống cả viện, bôi nhọ viện" là một thứ luận điệu vu cáo mang tính "kích động" lỗi thời cũ rích rồi.
Với tư cách những người chủ đất nước, thì Viện này, Trung tâm này hay nói rộng ra cả Nhân dân này và Đất nước này là của chúng tôi. Họ đừng bao giờ quên điều đó. Chúng tôi chỉ làm trách nhiệm vạch mặt những kẻ nào vì đặc quyền đặc lợi của bản thân hay phe nhóm mà nhẫn tâm làm hại Nhân dân, làm hại Đất nước. Vu cáo cho chủ bây giờ cũng khó đấy ! Nhân đây chúng tôi hỏi anh chị em trong Viện và ngay các đ/c trong Đảng bộ Viện do hiểu rõ những thiếu sót, sai lầm của anh Nguyễn Thế Nghĩa nên Đại hội vừa qua không bầu anh vào Đảng ủy, vậy vì sao ông Nguyễn Duy Quý lại bổ sung anh ta vào Đảng ủy Viện ?
Thực tình chúng tôi không chúng ta đặt ra những "lệ" như thế từ bao giờ. Chúng tôi gọi là "lệ" vì không coi đây là những nguyên tắc đúng đắn của một đảng cách mạng. Đã tổ chức bầu cử dân chủ ở trong Đảng thì phải tin vào trí tuệ của từng đảng viên. Ai thấy mình có đủ năng lực ra gánh vác công việc của tổ chức thì tự nguyện ứng củ. Thấy đ/c nào đủ năng lực và tinh thần trách nhiệm xứng đáng là người lãnh đạo cấp ủy thì mình bỏ phiếu cho người ta. Đã bỏ phiếu tín nhiệm người ta rồi thì phải hết lòng ủng hộ giúp đỡ người ta hoàn thành trách nhiệm. Ngay cả với người mà mình không tín nhiệm nhưng đa số đã tín nhiệm bầu, mình cũng phải phục tùng đa số mà ủng hộ người đã trúng cử. Nếu quả tập thể có bầu nhầm thì nhầm một khóa, chẳng lẽ nhầm mãi mãi. Nguyên tắc đơn giản là thế mà không hiểu vì sao chúng ta không chịu theo. Chẳng lẽ cứ dự kiến rồi bầu không trúng dự kiến lại gò Đại hội bầu hết vòng này đến vòng khác mới đúng nguyên tắc Lêninít chăng ? Có nơi phải bầu đên ba vòng đến nỗi các đại biểu cũng mệt và đói bảo nhau bỏ cho xong đi. Giờ lại thêm cái lệ mới không trúng cũng cứ bổ sung nghĩa là dù không được Đại hội tín nhiệm nhưng vẫn nghiễm nhiên vào cấp ủy. Thật là một sự khinh thị và trà đạp quyền dân chủ của người đảng viên một cách trắng trợn. Chính bầu cử kiểu này nên mới dẫn đến tình trạng phe cánh trong đảng. Người thấy kẻ không được mình tín nhiệm mà vẫn trúng thì ấm ức. Kẻ thấy mình được cấp trên tín nhiệm, yên chí có ô dù che chở rất dễ sinh thói chuyên quyền làm bậy, chưa kể còn có những kẻ vô lương tâm tìm cách trù diệt những người đồng chí không ăn cánh với mình. Lục đục với nhau cả một khóa 4,5 năm liền thử hỏi làm thế nào mà tạo ra sức mạnh cho Đảng. Quần chúng nhiều khi ngơ ngác chẳng còn biết theo phe nào hay phái nào. Còn cách nhà nghiên cứu lý luận thì lo kêu gọi họ "tu thân" và chống chủ nghĩa cá nhân. Trung ương thì kêu gọi họ phải đoàn kết và nâng cao đạo đức cách mạng.
Theo chúng tôi hiểu, không thể để tình trạng như thế này tái diễn ở thế kỷ XXI vì đơn giản là làm cho Đảng yếu đi chính là mang lại tai họa cho Nhân dân và Đất nước.
Ở Đại hội IX sắp tới, chúng tôi thấy cũng cần cải cách ngay. Không biết từ hồi nào mà ngay bầu ở Trung ương lại để một vài đ/c đứng ra dự kiến hết người nọ đến người kia. Chúng ta đã đề ra khẩu hiệu "đoàn kết, trí tuệ, dân chủ, ..." thì chúng ta cứ thử tin vào trí tuệ của các đại biểu xem sao. Toàn các đại biểu ưu tú do cơ sở cử lên lại không tin thì tin ai bây giờ. Chúng ta cũng nên bỏ cái lối họp đại hội thử đi. Vừa tốn kém lại vừa tỏ ra là không tin nhau. Mình còn không tin mình thì kêu gọi nhân dân tin mình thế nào được. Chúng tôi thấy nhiều đ/c lão thành cách mạng đang sinh hoạt ở CLB Thăng Long - Ba Đình cũng nghĩ như chúng tôi. Có cụ còn nói thời Bác Hồ không thấy phải họp thử như thế bao giờ.
Lại nhớ đến có một đại hội đã bầu thử không may chưa kịp đến Đại hội chính thức thì một một đ/c được bầu vào Bộ Chính trị đã đột tử. Thế mà khi đại hội chính thức họp cũng cứ phải bỏ phiếu cho người đã chết theo đúng quyết định của đại hội họp thử. Cứng nhắc đến thế là cùng !
Tất nhiên, bầu người sống hay người chết cũng tùy quyền mình mà thôi. Nhưng cái nguy nhất của vấn đề là ở chỗ việc bầu một người đã chết vào Bộ Chính trị là một việc không bình thường, một việc bất đắc dĩ, một sự cứng nhắc theo cơ chế bầu cử của ta. Thế mà mọi người lại coi là bình thường, là hợp lý. Cứ cái nếp nghĩ này thì hình thành dần dần coi mọi cái phi lý trở thành hợp lý và những cái hợp lý lại trở thành phi lý. Và chính điểm này mới là điểm cơ bản làm tar1i với chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa Lênin và chủ nghĩa Hồ Chí Minh. Chúng tôi sẽ có bài riêng trình bày với công luận rằng dựa trên cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn nào mà chúng tôi gọi là chủ nghĩa Hồ Chí Minh.
Chúng tôi thấy cái nhầm cơ bản của phe XNCH chúng ta là : hầu hết các nước trong phe đều ở trình độ kinh tế phát triển trung bình và dưới trung bình nhưng đều bảo nhau vận dụng những lý thuyết cao xạ của Mác, một lý thuyết chỉ có khả năng vận dụng vào những nước phát triển nhất của thế giới TBCN. Hình như mọi nước trong phe đều hiểu điều đó nên vẫn dè dặt gọi nước mình là Cộng hòa dân chủ hoặc Cộng hòa nhân dân. Chỉ có nước anh cả dám nhận mình là Liên bang các nước Cộng hòa XNCH Xô Viết, gọi tắt là Liên XÔ. Và rất tiếc Liên Xô chỉ tồn tại được có 72 năm. Ngoài Liên Xô chỉ còn riêng có Việt Nam ta từ sau Đại hội IV cũng tự phong mình là nước cộng hòa XNCH Việt Nam. Thế là độc đáo nhưng không tránh khỏi có phần tùy tiện. Chúng tôi đã từng nói việc đổi lại tên nước hay không, không quan trọng bằngviệc nhận diện cho chính xác và phân tích cho thật thấu đáo tình hình thực tiễn của Việt Nam ta để định hướng và quyết định đường đi nước bước cho chính xác đối với từng giai đoạn.
CNXH trên lý thuyết với những viễn cảnh mà chúng ta từng hình dung, tưởng tượng, mơ ước thì rõ ràng là tươi đẹp, đáng bỏ công sức ra để xây dựng, mà chúng ta cũng đã từng bỏ công xây dựng 20 năm trên miền Bắc và 10 năm trên cả nước. Chúng ta làm theo đúng như lời chỉ dạy của Stalin nghĩa là rất đúng với lý thuyết của Mác. Nhưng càng làm chúng ta càng thấy không thích hợp, chỉ thấy trì trệ và khủng hoảng. Nhìn ra toàn phe ta cũng đều thấy như thế cả. Đáng lẽ khi thấy Đông Âu và Liên Xô tan rã, sụp đổ, chúng ta đau xót thật nhưng cũng phải mở mắt ra chứ. Tại sao có một số đ/c cứ cố tình nhắm mắt lại rồi còn ngụy biện, bào chữa cho sự sụp đổ đó. Không phải chúng tôi không thông cảm với tâm trạng các đ/c nhưng lòng mong muốn, lòng thương xót cho dù sâu sắc đến mấy cũng không thể làm cho người chết sống lại được. Tất nhiên, hoàn toàn không thể thông cảm mà còn căm ghét những kẻ nào miệng nói, tay viết : "Phải bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin", "bảo vệ CNXH". Thậm chí, họ còn dám nói rằng "phải bảo vệ tư tưởng Hồ Chí Minh", nhưng nhân dân bị ức hiếp, đói khổ thì họ lờ đi. Họ vô liêm sỉ đến mức mang tiền "xóa đói giảm nghèo" hàng trăm tỷ để đi đánh chén và chia chác với nhau. Nếu dăm ba nơi xảy ra chuyện như thế thì còn có thể gọi là cá biệt hoặc một bộ phận. Nhưng trên toàn quốc, hầu như 61 tỉnh đều xảy ra tham nhũng mà tại sao Ban soạn thảo văn kiện lại dám viết rằng "một bộ phận cán bộ đảng viên" ? Một bộ phận là bao nhiêu ? CHúng ta phải thoát nhanh khỏi cái lối nói, lối nghĩ chung chung mơ hồ như thế này. Đưa cả một cuộc cách mạng phát triển, đưa cả một dân tộc tiến lên trong thế kỷ XXI, đâu phải chuyện đùa mà chúng ta có thể cứ giữ nguyên não trạng như vậy. Góo ý mãi thì mới sửa được thành "một bộ phận không nhỏ". Một bộ phận không nhỏ cụ thể là bao nhiêu ? Miệng thì nói theo CN Mác nhưng đầu lại không nghĩ nổi "chân lý là cụ thể". CHính bè lũ tham nhũng và bọn bao che cho bè lũ tham nhũng núp dưới sự mơ hồ cụ thể này mà tiếp tục hoành hành, tác oai tác quái, phá hoại tất cả những gì tốt đẹp phải tốn bao xương máu mới tạo ra được trong hơn nửa thế kỷ vừa qua.
Tất nhiên, chúng tôi chẳng sợ và coi khing mọi sự vu cáo rằng hai tác giả này đang chống lại Đảng. Không ! cái Đảng này là do Nhân Dân này đẻ ra. Thương yêu hay ghét bỏ là quyền của người ta. Người ta có ghét con cái của mình thì cũng ghét từng lúc thôi chứ. Đã hơn một lần chúng tôi khẳng định : cái Đảng này là máu thịt của Nhân Dân, máu thịt của Dân Tộc, không kẻ nào có thể tách nó ra khỏi Dân Tộc. Nó đau ốm thì phải thuốc thang chạy chữa cho nó. Còn để cho nó suy sụp và tiêu vong thì không được phép.
Chúng tôi, và chắc chắn tất cả Nhân Dân lương thiện, phải lên án những kẻ mồm nói yêu Đảng nhưng thực ra đang chống Đảng, chúng đang đục ruỗng mọi kho tàng của Nhà nước và uy tín của Đảng và danh dự của tất cả những người đã hy sinh trong 117 năm đấu tranh vừa qua.
Tạis ao đã trông rõ mặt những đứa ăn cắp mà lại không đuổi đi được ? Lại để chúng tiếp tục trộm cắp ? Đã đành tội lỗi là do chúng nó gây ra nhưng theo chúng tôi cái nguyên nhân gốc không phải là vấn đề đạo đức mà chính là do các cơ chế, cái cơ chế mang tính phổ biến của mọi đảng cộng sản trên thế giới. Chẳng thế mà chúng ta đều thấy tham nhũng ở Liên Xô, ở Trung Quốc sao cũng giống Việt Nam đến thế ! Nên nói rằng chúng ta giống họ thì đúng hơn vì chúng ta là bản sao của họ. CHo nên để tránh vết xe đổ không thể không nghiêm khắc xem xét lại cơ chế, thể chế chính trị của chúng ta, mà trước hết là các thể chế của Đảng. Chúng ta xây dựng thiết chế như thế nào mà để cho chỉ một vài cá nhân cũng có thể lũng đoạn toàn thể bộ máy Đảng. Mệnh lệnh của một Stalin, một Mao Trạch Đông, một Đặng Tiểu Bình. Ở ta thì một Lê Đức Thọ cũng làm điên đảo cả đất nước, chà đạp lên những nguyên tắc nhân đạo vốn là bản chất của cách mạng, bản chất của cộng sản. Một Goócbachốp ký lệnh giải tán đảng cộng sản Liên Xô mà hơn 20 triệu đảng viên và mấy chục triệu đoàn viên thanh niên cộng sả cúi đầu tuân lệnh. Giáo sư Trần Văn Giàu từng chất vấn các viện sĩ của Viện hàn lâm khoa học liên bang Nga : vì sao mà Đảng cộng sản và Nhà nước Liên Xô lại sụp đổ một cách êm ru như thế ? Một dịp khác - góp ý kiến với Văn kiện Đại hội IX - giáo sư lại thắc mắc và than phiền : Không thấy một cuộc biểu tình nào ?
Xin thưa với gs. Giàu : Xin giáo sư vui lòng xem lại thiết chế chính trị của các đảng cộng sản mà điển hình là của Liên Xô. Giáo sư cũng quên mất rằng đã 70 năm liền đảng cộngs ản cấm nhân dân biểu tình. Cấm lâu quá đến mức nhân dân quên lãng và mất hẳn ý thức, mất hẳn thói quen biểu tình. Nói ngay như ta bây giờ, nếu Đảng không có các nào trị bọn tham nhũng mà Nhân dân xuống đường biểu tình chống bọn tham nhũng thì hẳn mọi người lại hoảng lên : thế này thì loạn mất à ?
Theo một bài báo gần đây của ông Trần Bạch Đằng ( ***) thì phải bằng mọi cách giữ cho tình hình ổn định. Thế thì tham nhũng có chức có quyền thích quá rồi còn gì. Chúng sẵn sàng giơ cả bốn tay hoan hô ông Trần Bạch Đằng. Chúng tôi cũng chẳng lạ gì cái lối ăn theo nói theo naỳ.
Chúng tôi cho rằng Nhân Dân ta sau bao năm đau khổ vì chiến tranh và quan liệu tham nhũng mong được sống ổn định để an cư lạc nghiệp lắm chứ. Hỏi có ai mong được sống ổn định bằng Nhân Dân này ?
Khi chúng tôi chống lại những kẻ ngu xuẩn, tham lam đứng ra tổ chức hội thảo Gia Long, hội thảo Việt Nhật nhằm xuyên tạc lịch sử, ông Trần Bạch Đằng không hưởng ứng.
Nhân dân Thái Bình nổi dậy chống bọn cường hào tham nhũng, ông không dám hé răng ủng hộ.
Ngay giữa hội thảo kỷ niệm 300 năm Sài Gòn TP Hồ Chí Minh, ông là một thành viên trong Ban tổ chức lại cả gan giới thiệu ông Nguyễn Đình Đầu lên đọc bài tham luận trước hội trường để chứng minh rằng Bác Hồ không phải ra đi cứu nước từ Bến Nhà Rồng mà đi cách đó chừng 500-600m. Thế hóa ra phải chứng minh một cách khoa học rằng Cụ Hồ phải ra đi đúng ở cột cờ Thủ Ngữ mới cứu được nước. Còn nếu ra đi từ Bến Nhà Rồng thì sự nghiệp cứu nước bất thành chăng ? Axít Nêxin đã từng cười vào mũi những nhà khoa học nghiên cứu kiểu đó. Ông Nguyễn Đình Đầu có thể không biết sự chế nhạo đó, nhưng chẳng lẽ ông Trần Bạch Đằng lại không biết ?
Chúng tôi thực tình sốt ruột khi thấy kẻ này kẻ khác đua nhau bới móc những chuyện quanh tiểu sử Cụ Hồ nhằm bôi nhọ một thần tượng của Dân tộc, một danh nhân văn hóa kiệt xuất của nhân loại. Nhân dân ta thường nói "Thánh cũng có lúc nhầm". Nhưng chẳng phải vì nhầm lẫn một vài chuyện nào đó mà không còn là Thánh. Vấn đề là phải học tập và làm theo những cái mà Thánh không nhầm chứ đừng làm theo những cái mà Thánh đã nhầm khiến cho Thánh mất thiêng.
Chớ quên rằng trước khi hóa thần hóa thánh thì các vị cũng là người trần mắt thịt như chúng ta mà thôi.
Mọi người phải hiểu điều đó. Những người nghiên cứu hoa học càng phải hiểu điều đó để đừng nhầm lẫn trong việc tham mưu và hiến kế.
Nhà nghiên cứu Trần Bạch Đằng chẳng lẽ lại không hiểu rằng những nguyên tăc sơ đẳng đó. Ngay sau khi ông Nguyễn Đình Đầu đọc tham luận theo kiểu đó, chúng tôi đã gặp ngay đ/c Hồ Hữu Nhật - thành viên trong Ban tổ chức để chất vấn. Đ/c Nhật cho biết rằng :
- Ban tổ chức đã thống nhất không để ông Nguyễn Đình Đầu đọc báo cáo đó ở hội trường, và chính Ban tổ chức cũng ngạc nhiên khi thấy ông Trần Bạch Đằng giới thiệu ông Đầu lên diễn đàn. Rõ ràng ông Trần Bạch Đằng đã làm một việc vô nguyên tắc.
Nghiên cứu khoa học và tổ chức thảo luận khoa học theo kiểu Gia Long, Việt Nhật, Bên Nhà Rồng, ... theo chúng tôi, chẳng qua là những trò gây nhiễu tư tưởng. Vậy ông Trần Bạch Đằng muốn ổn định xã hội thật lòng hay vờ vịt ?
Trong tác phẩm "Đối thoại 2000", chúng tôi cũng đã nhẹ nhàng phê phán những trò gây nhiễu tư tưởng trong đó có phần đóng góp khá quan trọng của ông Trần Bạch Đằng.
Tất cả những ai, kể cả ông Trần Bạch Đằng, thấy chúng tôi phê phán không đúng, xin mời công khai tranh luận bằng văn bản. Còn vừa rồi có những nguồn tin cho chúng tôi biết ông lại tập họp những người bị chúng tôi phê phán để chơi trò "thư nặc danh". Chúng tôi thẳng thắn tuyên bố : bất chấp những trò thiếu quân tử đó !
Ở nước Nam ta cũng có nhiều cái lạ. May mắn được tham gia một tổ chức nào đó thì liền coi tổ chức đó là của riêng nhà mình. Một mặt thì cố ngoi lên để giữ một ghế gia trưởng, một mặt thì đóng sầm cửa lại, nội bất xuất ngoại bất nhập. Kẻ nào muốn ngoại nhập thì phải biết khúm núm gọi dạ bảo vâng. Đứng ngoài thì còn tỏ ra biết điều, khiêm tốn, có "quan điểm quần chúng". Vào rồi là y như vênh vênh váo váo như gáo múc dầu, chẳng coi ai vào đâu, miệng toàn thở ra một giọng xa lạ, cửa quyền, hách dở, quan trọng hóa cả những thứ chẳng có gì đáng gọi là quan trọng. Đúng như bà con ta thường nói : "mới nhìn mặt đã thấy ghét". Chẳng lẽ đây lại là một nét truyền thống cần bảo nhau gìn giữ và phát huy. Chúng tôi thấy đ/c Thủ tướng cần phải chú ý đến đặc điểm tâm lý này. Muốn cải cách hành chính thành công, theo chúng tôi, trước hết phải cải cách cái tâm lý khốn khổ này. Mà người Việt ta muốn mở mặt mở mày với thiên hạ cũng phải sớm bỏ đi cái tâm lý này.
Chúng tôi vừa được nghe thuật lại, trong buổi họp kín với lũ đàn em, ông Trần Bạch Đằng lại hoan hỉ nhận định :
- Vừa rồi, Nghĩa không cho chúng nó lên đọc tham luận ở Hội thảo "30 năm Di chúc" là đúng. Nguyễn Duy Quý và Lê Hữu Tầng không cho chúng nó vào họp Hội nghị quốc tế Việt Nam học là một thắng lợi lớn.
Cũng chẳng có gì bảo đảm lời thuật lại đã đúng 100%, nhưng cái tâm lý này của ông Trần Bạch Đằng thì chúng tôi và không ít người đã thấy từ lâu. Thế mới biết đuổi giặc khó mà hóa dễ, đuổi được tư tưởng cục bộ, tư tưởng Nam kỳ quốc và đủ các thứ tư tưởng dớ dẩn khác, tưởng là dễ mà cực kỳ khó.
Về chuyện mời với không mời, quả thật ông không thấu hiểu tai họa và nỗi khổ tâm của ông Quý và ông Tầng.
Khi nhận được tham luận, bản dịch tham luận và cả đĩa mềm , các ông Quý, ông Tầng lúng túng lắm. Mời hay không mời đều thấy khó ngang nhau. Nhưng cuối cùng chỉ vì cái ghế của mình chứ chẳng vì khoa học hay Việt Nam học gì hết, các ông đành muối mặt không mời.
Ngay giữa Thủ Đô, chúng tôi điện đàm với ông Trưởng ban tổ chức hội thảo quốc tế Việt Nam học Lê Hữu Tầng và chất vấn về việc ông Tầng không mời. Ông Tầng ôn tồn thanh minh và xin lỗi, lại yêu cầu hết sức thông cảm về mặt tổ chức. Chúng tôi biết rõ lời thanh minh của ông ta chỉ là một sự dối trá, xin lỗi là vờ vịt và về sự thông cảm thì chúng tôi đã nói thẳng vơi ông ta rằng :
- Chúng tôi biết các anh đã mời cả những người không hề nghiên cứu Việt Nam, thậm chí đã mời cả những người không hề có tham luận hoặc báo cáo khoa học. Anh yêu cầu thông cảm, chúng tôi thông cảm, nhưng sau này mong anh cũng thông cảm với chúng tôi.
Chúng tôi cũng điện cho anh Quý. Trong cuộc điện đàm, cũng như anh Tầng, anh Quý cũng yêu cầu chúng tôi thông cảm. Chúng tôi thẳng thắn chỉ ra cho anh Quý thấy rằng : việc anh Tầng không mời chúng tôi dự Hội thảo khoa học là sai. Việc anh Trần Trọng Đăng Đàn không chấp hành lệnh đăng bài phê bình hội thảo Việt Nhật đã làm liên lụy đến anh. Bây giờ anh Tầng không mời chúng tôi họp lại làm liên lụy đến anh đấy. Đáng lẽ với tư cách ủy viên Trung ương và giám đốc Trung tâm quốc gia, anh phải chỉ thị cho anh Tầng mời chúng tôi và những nhà khoa học nào thực sự nghiên cứu về Việt Nam đến họp cuộc hội thảo này. Anh không làm được và yêu cầu thông cảm. Chúng tôi sẵn ssàng thông cảm nhưng khi chúng tôi phê phán các anh trước công luận, mong các anh cũng vui lòng thông cảm.
Được giao tổ chức hội nghị khoa học mà lại không biết mời những người làm khoa học thực sự đến họp, mời các nhà khoa học đến họp rồi lại bảo nhau đừng mời họ phát biểu; sai như thế mà còn lấy làm đắc chí, thật là kỳ quái ! Cái hội thảo bàn về văn hóa dân tộc do Trung tâm quốc gia nghĩa là do tiến sĩ Mai Quốc Liên chủ trì tổ chức trong tháng cuối thế kỷ vừa qua thật là đạt đến đỉnh của sự kỳ quái.
Ông Mai Quốc Liên mời tới hơn 100 đại biểu gồm cả Bắc Trung Nam, lại có cả đại biểu Việt kiều ở Nhật, ở Pháp về, đại diện đủ các ngành nghề : thơ, ca, họa, nhạc rồi lại đủ cả sử học, văn học, dân tộc học, lý luận, biểu diễn, báo chí, xuất bản, văn hóa quần chúng, ... nghĩa là có đủ hết mọi loại tham luận. Đại biểu nào cũng đi sâu vào ngành nghề của đại biểu ấy. Trên diễn đàn cứ đọc, dưới các hàng ghế đại biểu cứ chuyện trò hàn huyên thoải mái. Cũng không thể trách các đại biểu không chú ý lắng nghe những vấn đề không thuộc đặc thù của ngành mình. Thế mà sau hội thảo, báo Tuổi trẻ vá báo Công an có đăng bài phê bình thì ông Mai Quốc Liên đã không tiếp thu để rút kinh nghiệm lại còn tự ái viết bài thanh minh. Báo Tuổi trẻ thì đưa dẫn chứng lời nói của gs. Nguyễn Văn Thọ - Việt kiều ở Nhật về họp :"Suốt hai ngày chỉ có hội chứ không có thảo". Còn ông Mai Quốc Liên thì lại dẫn lời nhận xét của nhà văn Nguyễn Đình Thi : "Hội thảo đã thành công tốt đẹp".
Thì ở ta có hội nghị nào mà lại không thành công tốt đẹp hoặc thành công rực rỡ. Nhưng ông Mai Quốc Liên và những người tổ chức hội thảo "bản sắc văn hóa dân tộc trong văn hóa nghệ thuật" không biết rằng riêng cái tên gọi đó đã là phi hội thảo rồi.
Giả thiết nếu cần tổ chức một hội thảo loại này thì chỉ có Ban Tư tưởng - Văn hóa trung ương hoặc Hội đồng lý luận trung ương mới tạm gọi là có đủ khả năng đứng ra tổ chức. Mà có muốn tổ chức cũng phải gửi đề cương trước hàng năm cho vài chục nhà lý luận đầu ngành nghiên cứu thật kỹ mới đến thảo luận với nhau được. Mà người đứng chủ trì hội nghị phải thuộc loại uyên bác và thật cứng về lý luận mời đảm đương nổi. Cho đến nay, sau nghị quyết V (khóa VIII) vẫn chưa có một cá nhân hoặc cơ quan ở cấp trung ương dám có ý định tổ chức một hội thảo kiểu này. Còn Trung tâm quốc học và ngay bản thân ông Mai Quốc Liên cũng chưa xác định được bản sắc văn hóa của ngành mình là như thế nào mà dám tổ chức một hội thảo sô bồ kiểu đó thì thật là to gan lớn mật. Cũng như nhiều người trong giới nghiên cứu, chúng tôi chờ đợi kỷ yếu của cuộc hội thảo này và bài tổng kết của ông Mai Quốc Liên.
Nội dung và kết quả hội thảo thì chắc chắn ít bổ ích rồi. Nhưng điều mà mọi người quan tâm là sự tốn kém không có của nó. Nghe nói ông Mai Quốc Liên đã khéo léo đi xin được tới hàng trăm triệu mà riêng công việc tổ chức hội thảo đã mất tới 80 triệu. Lời Bác Hồ dạy đến nay quả vẫn còn đúng : Lãng phí là một hiện tượng nguy hiểm chẳng kém gì tham ô. Thiết tưởng nhà nghiên cứu nào có luận điểm nào mới về vấn đề bản sắc dân tộc cứ việc viết bài, gửi đăng báo hoặc tạp chí rồi thảo luận và tranh luận với nhau, cần chi tụ tập hàng trăm người để phát sinh tốn kém, lãng phí. Mỗi đại biểu từ Hà Nội vào cả tiền vé bay đi bay về lẫn tiền ăn ở khách sạn, bỏ rẻ cũng hết ba triệu đồng. Ba triệu so với hàng trăm, hàng ngàn tỷ bị mất cắp quả thật không đáng gì. Nhưng chỉ cần ba triệu đó thôi là một gia đình nông dân có thể xóa đói, thận chí có thể thoát được cả cảnh nghèo đấy, ông Mai Quốc Liên ạ ! Cần phải hình dung ra cái cảnh nông dân phải đề nghị sướt trán mới vay được 300.000đ hoặc 500.000đ mới thấy cảnh nhiều gia đình nông dân ở nhiều vùng còn thê thảm biết chừng nào. Chẳng lẽ các vị cứ vung tay quá trán hằng trăm triệu, hàng ngàn triệu lại không hề có chút động lòng xót xa nào chăng ?
Lại nhớ đến "Hội thảo quốc tế Việt Nam học lần thứ nhất" năm 1998, hãng Ford Foundation tài trợ cho 200.000 đô la (khoảng hơn 2.000 triệu đồng VN), nhà nước lại cho thêm khoảng ngót 1.000 triệu nữa. Tiêu hẳn ba tỷ bạc mà mấy tập kỷ yếu cũng không in nổi. Ngoài 270 đại biểu trong nước, nhân dân chẳng biết hội thảo bàn bạc những vấn đề gì, các thế hệ con cháu đến sau lại càng mù tịt. Chẳng lẽ những người tổ chức hội thảo vào loại có tầm cỡ như các ông Lê Hữu Tầng (TTKHXH và NVQG) và Phan Huy Lê (Trường Đại học quốc gia VN) lại không hiểu tầm quan trọng của những tập kỷ yếu đối với công tác nghiên cứu khoa học ?
Chúng tôi đã từng nói : tổ chức hội thảo khoa học mà không biết hoặc không chịu in kỷ yếu thì coi như chưa tổ chức hội thảo. Có lẽ đã đến lúc cần tổ chức một hội thải bàn về chủ đề : "nên tổ chức hội thảo khoa học như thế nào để có hiệu quả thiết thực cho một Việt Nam nghèo nàn và lạc hậu ?".
Trong phạm vi khoa học xã hội, có lẻ ta cũng nên tổ chức thống kê xem trong khoảng 25 năm qua chúng ta đã tổ chức tất cả bao nhiêu hội thảo ở Trung ương cũng như ở các địa phương, tiêu tốn hết bao nhiêu ngàn tỷ đồng và hiệu quả thực tế ra sao ? (cũng nên thống kê cả các hội nghị và đại hội của Đảng, chính quyền, đoàn thể của tất cả các ngành các cấp theo hướng đó. Con số chắc không nhỏ đâu.).
Có thể những con số cụ thể thì ta chưa biết nhưng điều biết chắc chắn mà ai cũng có thể hình dung ra được : cho đến năm 2000 mà đất nước vẫn ở trong tình trạng trì trệ, tụt hậu và thua kém thiên hạ một cách đang hổ thẹn như thế này thì hẳn tác dụng thúc đẩy của các hội thảo khoa học cũng chẳng đáng là bao. Giới quản lý khoa học không thể trốn tránh trách nhiệm và giới lãnh đạo quản lý nói chung cũng không thể nói rằng không chịu trách nhiệm gì.
Có lẽ nếu không có một hội thảo khoa học xã hội nào thì tình hình xã hội cũng chẳng vì thế mà kém hơn hoặc xấu hơn.
Công bằng mà nói, không phải không có một số rất ít hội thảo có ý nghĩa khoa học và tích cực thực sự, nhưng nó lại không được giới quản lý chính quyền vận dụng vào thực tiễn. (Điển hình là ba hội thảo của Trung tâm nghiên cứu Hán Nôm TPHCM : Hội thảo 1 - Nguyễn Bỉnh Khiêm với lịch sử văn hóa dân tộc, hội thảo 2 - Nguyễn Trường Tộ với vấn đề canh tân đất nước, hội thảo 3 - "Tuệ Trung thượng sỹ với Thiền tông Việt Nam năm 1991-1992. Cả ba hội thảo này tuy bàn về các danh nhân văn hóa khác nhau nhưng đều có chung một chủ đề là phục vụ cho sự nghiệp đổi mới đất nước và bảo vệ, phát huy tinh hoa của truyền thống dân tộc. Đây không phải là chuyện "gà đẻ gà cục tác" hoặc "mèo khen mèo dài đuôi" mà thực sự ba hội thảo này kèm theo ba kỷ yếu đã được đa số học giả trong nước cũng như nhiều học giả ở nước ngoài đánh giá cao. Để cđáp ứng nhu cầu nghiên cứu, ba tập kỷ yếu đều đã phải in lại lần thứ hai. Riêng kỷ yếu TuệTrung thượng sĩ phải in lần thứ ba. Và chắc chắn ba tập kỷ yếu này cùng với tập kỷ yếu 5 năm Hán Nôm (500 trang in năm 1995) sẽ còn tiếp tục phải in lại vì các bài tham luận của các tác giả trong nước và nước ngoài thực sự là những tác phẩm có giá trị. Nhân đây chúng tôi cũng nhắc lại một vài chi tiết đáng ghi nhớ : Hồi ông gs Mạc Đường còn làm Viện trưởng Viện KHXH tại TP Hồ Chí Minh đã tìm nhiều cách để ngăn cản việc tổ chức các hội thảo này nhưng không nổi. Có lúc ông đã phải kêu lên : "Hội thảo gì mà lắm thế !" và ông trích quỹ cấp kinh phí một cách rất keo kiệt. Chúng tôi đành phải đi quyên góp các nhà hảo tâm để có đủ tiền tổ chức hội thảo và in kỷ yếu. Riêng các loại hội thảo Gia Long và Việt Nhật thì ông ủng hộ hết mình. Ông Viện trưởng kế tiếp là Nguyễn Thế Nghĩa, trong cả hai dịp kỷ niệm : đón nhận huân chương hạng ba (1999) và tổng kết 25 năm thành lập Viện (2000) cũng không một lời nhắc đến, không coi những việc làm có ý nghĩa này của Trung tâm nghiên cứu Hán Nôm là thành tích của Viện. Đáng phàn nàn hơn cả là cả hai tạp chí chuyên ngành "Tạp chí nghiên cứu Hán Nôm do ông Trần Nghĩa làm tổng biên tập và Tạp chí KHXH của Viện do ông Trần Trọng Đăng Đàn làm tổng biên tập suốt 5 năm liền (1991-1995) không có dòng nào giới thiệu Hội thảo cũng như kỷ yếu. Hai ông này đều nhận được sách biếu và riêng ông Đàn thì lần nào cũng được mời họp hội thảo nhưng cả hai ông đều coi như trên đời không có những hội thảo và kỷ yếu này. Nhưng đáng trách nhất là ông Nguyễn Duy Quý, tất cả những việc làm sai trái của những người dưới quyền ông, ông đều biết cả nhưng ông cứ làm lơ coi như mình không có trách nhiệm gì.
Ngược lại do mạng nặng tinh thần thực dụng, họ vận dụng rất nhanh những kết luận tiêu cực phi khoa học khiến cho tình hình xã hội thêm ngưng trệ và thoái hóa. Cũng mong giới nghiên cứu khoa học xã hội của ta đứng trước mọi tệ nạn xã hội đang phát triển hiện nay, với lòng tự trọng, chớ nói rằng mình không có trách nhiệm gì.
B** Trong tạp chí Triết học số 1 năm 2001 vừa qua, giáo sư Vũ Khiêu có viết một bài bàn thêm về Nguyễn Bỉnh Khiêm, giáo sư đã dùng những luận điểm chủ yếu của hội thảo này trong bài viết
của mình nhưng đáng tiếc ông đã không ghi rõ xuất xứ. Đây là một việc làm không minh bạch trong khoa học mà gs Vũ Khiêu không phải là người duy nhất. Chúng tôi sẽ trở lại vấn đề này trong một chuyên đề riêng.
Trước khi sang vấn đề khác, chúng tôi cũng lưu ý bạn đọc nhớ đến một câu nói rất đúng và rất hay của một nhân vật trong phim Chiến quốc của Trung Quốc : "ở đời, có những con người không chịu đựng nổi cái đẹp !". Vận vào những ông giáo sư, tiến sĩ này mới thấy đúng làm sao. Chỉ cần nhắc đến cái tốt, cái đẹp, đối với các ông cũng đã là knhững khó khăn không thể khắc phục nổi. Như Nguyễn Du nói : "Ghen tuông thì cũng người ta thường tình", nhưng ghen đến mức muốn hủy diệt CÁI ĐẸP thì thật nguy hiểm. Vì "Cái đẹp sẽ cứu nhân loại" (Đotoepski), do đó hủy diệt cái đẹp cũng là một cách tự hủy diệt.
3. CHỦ NGHĨA XÃ HỘI NÀO ?
ĐÃ qua một thời CNXH được coi là một vẻ đẹp mới của nhân loại và đã thành hiện thực ở cả một phe 13 nước, đứng đầu là Liên Xô vĩ đại. Hai hội nghị 81 đảng và 12 đảng họp ở Matxcơva đã khẳng định toàn thế giới đang sống trong thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH và phe XHCN trở thành nhân tố chính, động lực chủ yếu quyết định sự phát triển của nhân loại.
Nghe rất đúng và trông thì thấy mê. Vì cái phần nhân loại bị áp bức đau khổ nghe thấy chuyện giải phóng, công bằng, xóa mọi áp bức bất công, có ai lại không mê :
Nước Nga có chuyện lạ đời
Đem người nô lệ thành người tự do
(Nguyễn Ái Quốc)
Mà hiện thực của nước Nga Xô Viết và sau này là siêu cường liên bang Xô Viết thì đáng mê thật. Chiến công thắng phát xít, kỳ công bay vào vũ trụ (đưa vệ tinh và con người đầu tiên vào vũ trụ) rồi bom nguyên tử, bom khinh khí, tên lửa vượt đại châu, tàu ngầm nguyên tử phá băng, nhà máy điện nguyên tử, công trình thủy điện Volga, ... đều đứng vào hàng đầu thế giới. Tất cả những thành tích đó đều được qui công cho CNXH.
Bên cạnh những thành tích có thật của Liên Xô và các nước trong phe còn là những điều tô vẽ thêm của bộ máy truyền thông của ta về những điều bóp méo xuyên tạc của đối phương nhưng dù tô hồng hay bôi đen thì những điều tốt đẹp của CNXH vẫn là có thật và đủ làm say mê những nước thuộc thế giới thứ ba (Angola, Etiopie, Mianma, ...) đều tuyên bố đi theo CNXH). Cả những nước tư bản phát triển như Thụy Điển, Phần Lan, ... cũng đi tìm một mô hình CNXH thích hợp để xây dựng. Có lẽ do những thành công vang dội và nhìn trào lưu XHCN đang hấp dẫn và lôi cuốn nhân loại nên những người lãnh đạo của phe ta có lúc bị ngây ngất choáng váng không còn đủ bình tĩnh và tinh tường để nhận biết những khuyết tật của CNXH Xô Viết. Chỉ đến khi Liên Xô vĩ đại đột nhiên sụp đổ và tan rã người ta mới kinh hoàng và thấy cần duyệt lại mọi nhận thức về CNXH. Phía thiếu thiện ý thì muốn xổ toẹt tất cả. Phía thiện ý nhưng mang di căn giáo điều quá nặng thì ra sức lý giải, biện bạch, cắt nghĩa bằng những lý lẽ vu vơ, không dám nhìn vào thực chất của vấn đề. Chỉ ở những ai trung thực với chân lý, với cuộc sống mới có thể nhìn nhận và đánh giá mọi sự vật, mọi hiện tượng một cách khách quan, khoa học.
Việt Nam ta đã từng là thành viên của phe XHCN, từng vui buồn sướng khổ có nhau. Sự sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu là một tai họa chung. Vấn đề riêng của chúng ta là từ đó cần phải rút ra những bài học kinh nghiệm gì. Không thể khơi khơi nói rằng Liên Xô tan rã nhưng CNXH vẫn còn nguyên giá trị hoặc chủ nghĩa Mác-Lênin vẫn là vô địch, v.v. CNXH còn nguyên giá trị là CNXH nào ?
Chủ nghĩa Mác-Lênin vô địch ở chỗ nào và vô địch với ai ? Những sáo ngữ này chứng tỏ người nói chẳng hiểu biết gì cả, nói lấy được, chẳng giúp ích gì cho việc rút kinh nghiệm của chúng ta. Một trong những người ca ngợi CNXH rất mực sách vở là giáo sư viện sĩ Nguyễn Duy Quý. Đọc kỹ bài của ông (Tạp chí Triết học số ...) mới thấy ông hết lòng và thật lòng ca ngợi CNXH của Mác. Nghĩa là một CNXH còn nằm trên lý thuyết, chưa thực thiện thành công ở đâu cả. Xin thưa với ông Nguyễn Duy Quý : giỏi giang về lý thuyết và thực hành hơn ta nhiều, thế mà Trung Quốc, theo ông Đặng Tiểu Bình cũng phải 100 năm nữa đấy ạ ! Còn lý luận và thực hành theo kiểu của ta thì chắc chắn không thể ngắn hơn. Hay là ông Quý có phép màu "đốt cháy giai đoạn" nào chăng ???
Vừa qua, theo dõi hai hội thảo quốc tế Việt Trung bàn về vấn đề xây dựng CNXH ở thế kỷ XXI, chúng tôi rất đỗi ngạc nhiên khi thấy cả hai đ/c Trưởng đoàn (Nguyễn Đức Bình - Việt Nam, Lý Thiết Ánh - Trung Quốc) và các thành viên của hai đoàn chẳng giúp cho chúng tôi hiểu cụ thể CNXH là thế nào và sẽ xây dựng trong thế kỷ XXI ra sao. Chúng tôi chỉ thấy các đ/c cộng sản Trung Quốc "khôn ngoan" hơn các đ/c cộng sản Việt Nam ta.
Cùng một điều kiên quyết xây dựng thắng lợi CNXH, cùng là ủy viên Bộ Chính trị, phụ trách lý luận của Đảng nhưng đ/c Lý Thiết Ánh chỉ dựa trên cơ sở chủ nghĩa Mác, lờ tịt chủ nghĩa Lênin, còn đ/c Nguyễn Đức Bình của ta thì vẫn nguyên vẹn dựa trên cơ sở chủ nghĩa Mác-Lênin, nghĩa là đ/c Nguyễn Đức Bình chẳng quan tâm đến sự nhầm lẫn của đ/c Stalin trong việc đánh dấu nối vào giữa CN Mác và CN Lênin vào đầu thập niên 30. Trong tác phẩm "Đối thoại năm 2000", chúng tôi đã phân tích về sự nhầm lẫn này : ai thực hiện đúng Mác thì chống lại Lênin; còn ai thực hiện đúng Lênin thì thực chất là chống lại Mác. Cho nên chuyện trung thành với CN Mác-Lênin chẳng khác gì chuyện bán dáo và bán mộc của người nước Tề thời Chiến Quốc.
Đ/c Stalin đáng lẽ phải xuất phát từ thực tiễn Nga mà thực hành chính sách kinh tế mới (NEP) do Lênin chủ trương trong khoảng dăm bảy chục năm gì đó, nhưng đ/c đã thẳng tay xóa bỏ NEP, một mực trung thành với Mác, theo đúng câu chữ của "Tuyên ngôn của đảng cộng sản" mà tức khắc "xóa bỏ quyền tư hữu" và một hậu quả tất yếu là đ/c Stalin và những người tiếp đ/c đã xóa bỏ luôn Liên bang Xô Viết, nghĩa là xóa bỏ CNXH thực tiễn Nga của Lênin. Cho nên các đ/c cộng sản Trung Quốc không theo chủ nghĩa Lênin nữa không phải là không có lý. Vì đó chẳng qua là sản phẩm của thực tiễn xã hội Nga chứ không phải thực tiễn xã hội Trung Quốc, càng không phải là thực tiễn xã hội Việt Nam ta. Mà đất nước Nga chính là nơi đã đẻ ra CN Lênin mà người ta còn không theo thì Trung Quốc với Việt Nam theo sao được. Chúng tôi ngờ rằng những ai đang hò hét là phải trung thành với CN Lênin thì tâm địa cũng chẳng khác những ai hò hét phải phục hồi Khổng giáo.
Thôi thì Mác hay Lênin, cũng như Khổng, Phật, Lão, Giêsu, ... ,ai có cái gì hay thì mình nên khiêm tốn học hỏi, thu nhận. Dung nạp mọi chủ nghĩa, mọi học thuyết, mọi tư tưởng rồi lựa chọn, đồng hóa mọi tinh hoa của nhân loại để bồi dưỡng cho cơ thể tư duy Việt Nam lớn mạnh : đó là cái phương sách không ngoan của tổ tiên ông bà mình mà vừa qua Cụ Hồ cũng đã thực hiện thành công một phần quan trọng. Bài học thời Lê, nhất là thời Nguyễn đưa Nho giáo lên địa vị độc tôn đã để lại những di họa thế nào mọi người đều thấy cả. Bài học "Tam giáo đồng nguyên" của thời Lý Trần với những thành quả rực rỡ đã được lịch sử xác nhận đáng cho ta "học lại", đáng cho giới nghiên cứu lý luận và giới nghiên cứu văn hóa lục ra mà thảo luận một cách nghiêm chỉnh chọn lực cái gì ? Điều chỉnh ra sao ? Bỏ hay dùng ? Đó là quyền của ta, xuất phảt từ lợi ích của ta. Có gì có những nhà lý luận cứ gào lên : cái này Bác Hồ đã chọn, Đảng ta đã chọn, Nhân Dân ta đã chọn thì nhất thiết không được thay đổi.
Xin mạn phép hỏi : Viện Triết học, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh và tất cả quý vị giáo sư, tiến sĩ, viện sĩ, ... đang nghiên cứu lý luận và triết học, và hỏi luôn Ban soạn thảo Văn kiện Đại hội IX :
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI mà Bác Hồ, Đảng ta, Nhân dân ta đã lựa chọn là CHỦ NGHĨA XÃ HỘI nào ? CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Stalin mà chúng ta đã thực hiện trên miền Bắc 20 năm liền (1956-1975) và thực hiện tiếp trong cả nước 10 năm (1976-1986) đã đưa đất nước ta vào tình trạng trì trệ khủng hoảng, rồi nhờ có Đại hội VI sửa sai thực hiện đường lối đổi mới mà thoát khỏi sụp đổ. Vậy, chúng ta xây tiếp CHỦ NGHĨA XÃ HỘI này chăng ? Hay chúng ta định xây dựng CNXH lý thuyết của Các Mác ? Theo dõi buổi truyền hình vừa qua (ngày ... giờ ) chúng tôi thấy các đ/c Hà Đăng, Lê Hữu Tầng, Lưu Minh Hồ giải thích rất lúng túng. Đ/c Lê Hữu Tầng và Hà Đăng nói rằng : nhận thức về CNXH của chúng ta hiện nay đã đổi mới về chất. Vậy đó là cái chất mới nào ? Đ/c Lưu Minh Hồ lại nhấn mạnh phải công hữu hóa. Nghĩa là dù có mới đến đâu thì cũng không vượt qua được "Tuyên ngôn của đảng cộng sản".
Hơn một lần, chúng tôi đã giải thích rằng một trong những luận điểm cốt lõi trong "Tuyên ngôn của đảng cộng sản" là : xóa bỏ quyền tư hữu. Chúng ta đã từng thực thi luận điểm này rồi và đã thất bại một cách đau khổ. Đại hội VI đã sửa cái sai lầm này, đưa ra đường lối đổi mới và cứu được một bàn thua trông thấy. Chúng ta phải trả ngay lại quyền tư hữu ruộng đất cho nông dân. Thế là đang đói vàng mắt ra lập tức lại thừa gạo để xuất khẩu. Vậy, đổi mới thực chất là trở về với CÁI CŨ quá đúng mà đã mấy chục năm rồi chúng ta không chịu theo. Chúng ta lại đi theo một cái mới không thích hợp với chúng ta. Chúng ta vội quên mất rằng chính do khẩu hiệu "người cày có ruộng" mà mấy chục triệu nông dân đi theo Cụ Hồ để làm cuộc cách mạng này. Chính hai ông Qua Ninh và Vân Đình đã viết hẳn một cuốn sách bàn về vấn đề này từ thời tiền khởi nghĩa (cuốn "Vấn đề ruộng đất của dân cày"), rồi chính hai ông này sau có chân trong Bộ Chính trị mà cũng không bàn ra lẽ cái luận điểm nổi tiếng của Mác. Tại sao vừa mới chia cho người ta được 3 sào ruộng lại đã vội vã thu lại, rồi lại giao cho ba ông quản trị hợp tác xã toàn là đảng viên tin cậy chơi trò phương án nổi, phương án chìm, đua nhau xây nhà, xây sân, cưỡi xe đạp trên lưng nông dân. Làm gì sức sản xuất của nông dân không bị triệt tiêu, làm gì hợp tác xã không vỡ. Hợp tác xã có còn cũng chỉ là còn cái vỏ. Thế là tư hữu ruộng đất của nông dân biến thành công hữu của tập thể mà thực chất là tư hữu của ban quản trị. Tình hình công hữu ở lĩnh vực công nghiệp và thương mại cũng tương tự. Các ban giám đốc xí nghiệp, các công ty, tổng công ty bách hóa tổng hợp, thương mại quốc doanh, ... cũng nghiễm nhiên trở thành một thứ "tư hữu" không thể kiểm soát được. Chúng ta chấp nhận tình hình tham nhũng, tình hình sản xuất, buôn bán thua lỗ mấy chục năm liền. Chúng ta bù lỗ thoải mái bằng tiền thuế và tiền viện trợ, và biết bao nhiêu khoản đóng góp của dân tùy theo quyền hành của từng địa phương.
Một thời gian dài trước Đại hội VI, chúng ta không dám động đến những cái gọi là "sở hữu nhà nước" và "sở hữu tập thể" vì động đến nó tức là động đến CNXH. Chúng ta cắn rằng chịu đựng đói rách, trì trệ, khủng hoảng, tụt hậu chứ dứt khoát không thể để mất CNXH. Mà phân tích cho kỹ thì những thứ đó sao lại có thể gọi đượclà CNXH. Nếu CNXH chỉ là như thế thì lựa chọn nó làm gì, xây dựng nó để nhằm mục đích gì.
Trước đại hội VI nhầm đã đành. Sau Đại hội VI, thậm chí đến giáp Đại hội IX mà còn định tiếp tục nhầm, thế là nghĩa lý gì. Chúng tôi thực sự kinh ngạc khi nghe ba đồng chí Hà Đăng, Lê Hữu Tầng, Lưu Minh Hồ lên giải thích trên Đài truyền hình bằng những lập luận, lý lẽ của thời kỳ tiền Đại hội VI. Không một đ/c nào dám liên hệ tình hình thực tế hiện nay. Chúng tôi thân ái và thẳng thắn hỏi các đ/c :
- Các đ/c định cho các doanh nghiệp nhà nước tiếp tục bù lỗ đến thập niên nào của thế kỷ này ?
- Các hợp tác xã sẽ được tái lập với bộ máy nhân sự và cung cách quản lý như thế nào ?
- Bằng cách nào kiềm chế được Ban Kinh tế của các cấp ủy Đảng, quân đội, công an không tìm cách vượt qua pháp luật, móc ngoặc hoặc đánh lừa Hải quan, Ngân hàng và các cấp Thanh tra, Kiểm tra ?
- Bằng cách nào phát hiện và đấu tranh với các đồng chí đảng viên có chức có quyền đang tích cực quan liêu và tham nhũng mà khỏi bị quy tội là làm mất đoàn kết, gây rối loạn nội bộ, làm mất ổn định chính trị và tư tưởng ?
- Bằng cách nào thực hiện được việc kiểm kê tài sản của các đảng viên có chức có quyền và giáo dục được các đồng chí đang gửi tiền ở các nhà băng nước ngoài tự giác rút tiền về để đầu tư xây dựng kinh tế đất nước hoặc trích ra một phần để ủng hộ quỹ Đảng hoặc quỹ Nhà nước ?
- Bằng cách nào để giáo dục tư tưởng cho các đ/c đảng viên giàu có đang cho các con, các cháu mình du học tại các Đại học Cambridge, Haward, ... có biện pháp răn bảo các cháu sau khi tốt nghiệp về nước thì tiếp tục xây dựng chế độ XHCN, chớ lái đất nước đi theo chế độ mới TBCN ?
- Bằng cách nào có thể giúp đỡ các đ/c nghiên cứu lý luận ở các viện, học viện, nhất là các giáo sư, viện sĩ, tiến sĩ, đã hăng hái kiên trì chủ nghĩa Mác - Lênin dám can đảm nhìn thẳng vào thực tế, đề xuất, thảo luận, giải quyết những vấn đề gai góc của thực tế đất nước hiện nay ?
- Bằng cách nào để có thể tổ chức lại bộ máy Đảng ta, bộ máy Nhà nước ta phù hợp với tình hình phát triển của đất nước, nhất là thích hợp với tình hình toàn cầu hóa ?
- Bằng cách nào để giúp đỡ các đ/c lãnh đạo Đảng và Nhà nước quán triệt được tinh thần vừa "làm bạn với tất cả các nước" lại vừa làm bạn được với đồng bào đồng chí của mình và bà con Việt kiều hải ngoại ?
Thôi, hãy xin tạm hỏi các đ/c mấy câu như thế chứ vấn đề thực tế thì còn đa đoan lắm, không thể hỏi hết trong một lúc kẻo lại mang tiếng là làm khó dễ cho các đồng chí. Tất nhiên cũng có nhiều vấn đề cần phải giải quyết kịp thời như : tích cực vận động Ban thi đua Trung ương "khen thưởng" thích đáng các đ/c Bộ trưởng Đầu tư và kế hoạch, Thương mại, Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Công nghiệp, Văn hóa thông tin, v.v. về thành tích xuất sắc cho nhập khẩu các dây chuyền công nghệ lỗi thời, xe gắn máy phế thải của Nhật và mới tinh của Trung Quốc; giúp bà con nông dân tự phát dùng thoải mái các giống cây giả, thuốc trừ sâu giả, tăm Thái Lan, nước mía Mã Lai và muối của nhiều nước bè bạn có bờ biển ít hơn nước ta. Phải "biểu dương" kịp thời Bộ Công nghiệp đã có tinh thần quốc tế cao cả, nhiệt tình giúp các nhà thầu ngoại quốc thắng các nhà thầu bản xứ (điển hình là vụ làm hộp công-tơ điện bằng nhựa compôzit) giúp các nước công nghiệp phát triển tiêu thụ rác phế thải công nghiệp. Riêng thành tích này có thể sánh ngang với Bộ Văn hóa thông tin cho nhập rác văn hóa nhằm nâng cao trình độ của các cháu thiếu niên nhi đồng về mặt bạo lực và tình dục.
Đặc biệt Bộ Giáo dục và đào tạo có thành tích vượt trội về "chiến lược con người" : cải cách giáo dục thực hiện hơn ba chục năm, nay tích cực làm lại từ đầu và làm vô thời hạn; giải thể các trường công nhân kỹ thuật và trung cấp kỹ thuật kịp thời ngay sau ngày toàn thắng; quản lý bằng cấp đạt hiệu quả cao (đôn hàng chục ngàn phó tiến sĩ lên tiến sĩ, còn bằng cấp giả mạo thì đếm không xuể, chỉ những kẻ không may gặp vận xúi mới bị phát hiện, còn số đông cứ yên tâm nhất là các đ/c có chức có quyền đã học giả nhưng lại có bằng thật, không nên vì thế mà sợ hãi hoặc xấu hổ. Tất nhiên không nên chỉ biểu dương đ/c đương kim bộ trưởng Phạm Minh Hiển mà phải khen thưởng thích đáng các đ/c cựu bộ trưởng Phạm Minh Hạc, Trần Hồng Quân, v.v. để khỏi phạm sai lầm "phủ nhận sạch trơn quá khứ". Có lẽ xuất sắc nhất là Ủy ban vật giá, Tổng cục thuế, Tổng cục bưu điện. Việc đặt giá gas và nhiều thứ giá khác ngang với giá khu vực, giá điện thoại, fax, giá truy cập internet thì vào loại cao nhất thế giới. Nhân dân các nước gặp tình huống này hẳn đã rủ nhau xuống đường biểu tình phản đối. Ta thì không, luôn luôn giữ vững truyền thống thông cảm với người nhà nước, đời sống tuy có khó khăn thêm chút đỉnh vẫn vui lòng thắt lưng buộc bụng. Lại tự an ủi rằng dù sao mình vẫn giữ vững được tình hình chính trị và xã hội ổn định. Mấy nước láng giềng và các nước trong khu vực tuy thu nhập có cao hơn, mức sống có khá hơn nhưng cứ nay xuống đường mai xuống đường đâu có phù hợp với đạo lý phương Đông. Vả lại các ông ấy đặt giá các mặt hàng ngang bằng hoặc vượt thế giới chẳng phải cũng là một cách tích cực góp phần nâng cao địa vị quốc tế của Việt Nam ta. Biết đâu các ông này, nhất là ông tiến sĩ tổng cục trưởng Mai Liêm Trực lại còn được ghi vào sách kỷ lục Guiness. Thế có phải vinh dự không ? Tụt hậu về mặt nào thì tụt chứ về mặt giá cả cũng như nhập rác công nghiệp, rác văn hóa, bằng cấp giả mạo, trình độ sao chép lý luận và sách vở ngoại bang, v.v. mình đâu có chịu đi sau thiên hạ, có khi còn tiến lên hàng đầu. Trông lên thì chẳng bằng ai, nhưng trông xuống thì mấy bộ lạc chậm tiến ở châu Phi có đuổi kịp mình cũng còn xa. Vì thế Việt Nam ta cái gì cũng cứ phải từ từ. Các cụ xưa đã chẳng dạy : "Dục tốc bất đạt" đấy sao ? Tốc độ internet dứt khoát là không phù hợp với tình hình hiện đại hóa của ta rồi. Vào mạng nhiều là dễ hỏng đạo đức truyền thống như chơi. Bộ Khoa học công nghệ - môi trường, các viện nghiên cứu, các trường đại học, ... không lên tiếng phản đối cũng là có lý. Ban Tư tưởng - văn hóa Trung ương và Bộ Văn hóa - thông tin thấy thế lại càng mừng. Thông tin vào nhiều chỉ càng thêm rối loạn, cứ triệt hẳn việc vào internet là đắc sách hơn cả.
Lại xin thưa tiếp với ba đồng chí Hà Đăng, Lê Hữu Tầng và Lưu Minh Hồ rằng ta không thể bàn chuyện trăm năm sau mà quên đi những chuyện trước mắt. Trước mắt có chuyện ta đang bảo nhau phải ra sức bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN, đồng thời ta lại nói rằng ta không được đi chệch định hướng XHCN, nghĩa là chúng ta cứ nhằm mục tiêu XHCN mà tiến tới dù phải mất 50 năm, 100 năm hay lâu hơn nữa. Nghĩ như thế, nói như thế và viết như thế liệu có ổn không, có tự mâu thuẫn không, mong các đ/c cho ý kiến. Đây không phải chỉ là vấn đề ngôn từ hay vấn đề lý luận nằm trên sách báo hoặc nghị quyết. Nếu giải quyết không đúng, trước hết về mặt lý luận, nó sẽ tác hại kinh khủng đối với đời sống kinh tế xã hội vì hiện nay có tình hình bất cứ lĩnh vực nào cứ làm đúng thì phát triển nhanh, nhưng người ta lại sợ hãi vì thấy nó giống tư bản quá. Còn làm đúng lý thuyết XHCN như thời kỳ hơn ba chục năm về trước (1960-1986) là y như trì trệ khủng hoảng. Vì đơn giản là lý thuyết XHCN của Mác không thể áp dụng vào thực tế của ta từ trước đến nay và cả dăm thập kỷ tới. Vậy thì ta phải làm kinh tế XHCN hay kinh tế TBCN ?
Trong bài tham luận của đ/c Nguyễn Đức Bình đọc ở Trung Quốc có đặt vấn đề : Phải chăng Việt Nam và Trung Quốc đang làm kinh tế TBCN ? Theo chúng tôi hiểu không còn là chuyện "phải chăng" mà thực tế ta cũng như Trung Quốc đang làm kinh tế TBCN. Trong tác phẳm "D(ối thoại năm 2000", chúng tôi đã khẳng định :
CNXH Hồ Chí Minh = Kinh tế TBCN ++ sự lãnh đạo của Đảng + sự quản lý và điều tiết của Nhà nước DÂN CHỦ NHÂN DÂN.
Mấy đ/c ở Hội đồng lý luận Trung ương khi tọa đàm với chúng tôi đã lờ đi không thảo luận về CNXH Hồ Chí Minh. Đây không phải chỉ là một thuật ngữ mới do chúng tôi tùy tiện đặt ra mà thực chất đó là nội dung của cả một cuộc cách mạng mà chúng ta đã làm và đang phải tiếp tục làm. Vì Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói rành rành trong Di chúc của Người : toàn Đảng, toàn Dân ta phải phấn đấu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh.
Chúng tôi đã nhắc giới nghiên cứu lý luận khá nhiều lần về định hướng chiến lược này của Cụ Hồ. Họ im lặng không tỏ ý tán thành hoặc khẳng định chúng tôi là đúng. Tất nhiên họ cũng không bao giờ dám chứng minh rằng lời di chúc quan trọng ấy đã trở thành lỗi thời. Hình như một số quí vị thầm mong ước rằng giá Cụ Hồ viết : sau khi hoàn thành độc lập, thống nhất thì phải xây dựng một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa có phải thuận tiện cho họ biết bao nhiêu không. Cái sự khó khăn ghê gớm hầu như không thể khắc phục được đối với họ là : một mặt họ phải ra sức bảo vệ Di chúc của Cụ Hồ nói riêng và bảo vệ tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung; một mặt họ lại không dám nói khác ý của các đ/c Ba Duẩn và Sáu Thọ và đường lối của Đại hội IV. Mà đường lối cách mạng XHCN của Đại hội IV đã bị thực tiễn chứng minh là sai và Đại hội VI đã có công sửa lại, cứu nguy cho chế độ (chế độ Dân chủ cộng hòa chứ không phải chế độ XHCN vì thực tế chúng ta chưa bao giờ có chế độ XHCN và với trình độ kinh tế, xã hội chúng ta hôm qua và hôm nay không có khả năng xây dựng cái gọi là chế độ XHCN).
Nhân dân ta có thích chế độ XHCN hay không ? Không phải chỉ riêng nước ta thích mà nhân dân các nước thế giới thứ ba và cả các nước tư bản cũng thích. Nhưng đối với các nước có trình độ tiền công nghiệp như Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên, Cộng hòa Cu Ba và Việt Nam dân chủ cộng hòa thì chuyện xây dựng CNXH là chuyện của trăm năm sau. Nhanh nhất cũng phải là nửa thế kỷ sau.
Tuy nhiên, không xây dựng được chế độ XHCN trong hiện tại hoặc một vài thập kỷ nữa, không có nghĩa rằng Việt Nam ta nhất thiết phải xây dựng chế độ TBCN. Chúng tôi cũng đã từng nói rằng chế độ TBCN với những khuyết tật nằm trong bản chất của nó, không phải là chế độ mà chúng ta mơ ước và nó cũng không phải là nấc thang tiến hóa cuối cùng của nhân loại. Chúng ta không muốn xây dựng chế độ TBCN, chúng ta cũng không thể xây dựng chế độ XHCN như lý thuyết của Mác mà ông Đặng Tiểu Bình đã phải dự báo là 100 năm nữa Trung Quốc mới đạt tới. Vậy, chúng ta phải xây dựng chế độ nào để vừa phù hợp với nguyên vọng của đại đa số nhân dân, vừa thích nghi với đà tiến hóa của nhân loại ? Đó chính là vấn đề cần phải thảo luận cho ra nhẽ.
Xin nhắc lại một ý kiến đề xuất hạn hẹp của chúng tôi : nếu quả thật chúng ta mê say CNXH, chúng ta chỉ có thể xây dựng CHỦ NGHĨA XÃ HỘI HỒ CHÍ MINH mà thôi ? Đây là CNXH mang đặc điểm Việt Nam. Nội dung của nó là : "Xây dựng thành công một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, dân chủ và giàu mạnh".
Trong 25 năm sau giải phóng vừa qua, nếu chúng ta không thực hiện dân chủ một cách hình thức mà làm một nền dân chủ thực sự từ trên xuống dưới, từ dưới lên trên thì hẳn đất nước ta đã phát triển không bị bất cứ một nguy cơ tụt hậu nào đe dọa. Phải thẳng thắn nói với nhau rằng để đến khi vụ Thái Bình nổ ra, chúng ta mới đi lo thực hiện qui chế dân chủ hóa cơ sở là quá muộn và vẫn còn nửa vời. Cấp trung ương còn chưa dân chủ hóa được thì làm sao mà dân chủ hóa được cấp phường xã. Một cán bộ đảng viên ở cấp phường xã hoặc cấp quận huyện làm sai lại được một cán bộ đảng viên ở cấp tỉnh hoặc cấp trung ương bao che, bênh vực, thử hỏi dân còn biết kêu ai và kiện ai ? Hàng triệu vụ khiếu kiện tồn đọng hầu như không thể giải quyềt được chính là do tình trạng mất dân chủ từ cấp vi mô cho đến cấp vĩ mô này đây. Địa phương không chịu giải quyết mà dồn hết về trung ương, thử hỏi các đ/c Tổng bí thư, Chủ tịch quốc hội, Chủ tịch nước, Thủ tướng chính phủ biết giở tay ra sao ? Oan khuất của nhân dân không giải quyết thì vẫn còn nguyên vẹn đó chứ mất đi đâu được. Oán hờn cứ chồng chất tháng này qua năm khác, thử hỏi chế độ sẽ ra sao, đất nước sẽ ra sao ? Nhiều đảng viên, nhất là những đảng viên có chức có quyền cứ bình chân như vại, thản nhiên nhắm mắt, bưng tai, bịt mũi coi như không có gì quan trọng xảy ra trên đời này Thật đáng buồn và cũng thật đáng ghê tởm ! Giáo sư viện sĩ Nguyễn Duy Quý lại còn tỏ ra rất "quan điểm", rất "lập trường", cao giọng : Chúng ta không thể tán thành luận điểm "CNXH dân tộc".
Này, xin phép hỏi ông : ông theo CNXH quốc tế nào đấy ? Ông thử chỉ cho chúng tôi xem mặt mũi hình dạng nó như thế nào ?
Thiên hạ người ta chủ trương xây dựng "CNXH mang đặc điểm Trung Quốc" là người ta khôn lọt vành ra. Mình kém cạnh gì mà lại không biết bảo nhau xây dựng CNXH mang đặc điểm Việt Nam. Chắc ta lại định chơi trò "lội nước đi sau", chờ khoảng dăm chục năm nữa, khi người ta xây dựng CNXH mang đặc điểm Trung Quốc thành công rồi, bấy giờ các nhà lý luận và các phương tiện truyền thông của ta mới đua nhau gào lên "phải ra sức xây dựng CNXH mang đặc điểm Việt Nam !". Rất tiếc, lúc bấy giờ dẫu có gào to hơn hiện nay thì thế giới người ta cũng chẳng nghe thấy gì vì với khoảng cách giữa nước phát triển kém nhất với vị thế tụt hậu vô địch của ta thì thiên hạ nhìn ta qua kính viễn vọng, chỉ còn thấy hình ảnh một lũ "lừ đừ như ông từ vào đền". Chúng tôi thật mắc lỗi khiếm nhã khi phải bộc lộ cảm giác xấu hổ khi thấy những người ít hiểu biết về CNXH lại được cử đi tham dự những hội thảo quốc tế bàn về CNXH. Đúng là Dân ta tốt thật. Nhưng cứ tốt như thế này cho đến tận bao giờ thì quả thật chúng tôi cũng không đủ khả năng dự báo. Xin nhường phần cho các nhà TƯƠNG LAI HỌC. Chỉ có điều chắc chắn là bước sang thế kỷ mới, Dân ta cũng sẽ đổi mới tư duy dữ dội hơn, không chờ đến lúc "nước đến trôn" mới quáng quàng giải quyết vấn đề.
4. ĐỒNG CHÍ TRẦN BẠCH ĐẰNG LẠI HĂNG HÁI BÀN VỀ NHÂN SỰ ĐẠI HỘI !?
Thú thật, đọc bài của đ/c Trần Bạch Đằng bàn về nhân sự Đại hội đăng trên báo Sài Gòn Giải Phóng (ngày ...), chúng tôi thấy rầu lòng tự hỏi : tầm cỡ nghiên cứu như Trần Bạch Đằng mà chỉ bàn luận có thế thôi hay sao ? Hãy khoan bàn về những luận điểm thiếu minh bạch và lối lập luận vòng vo tránh né của tác giả xung quanh một vấn đề chưa phải là quan trọng hàng đầu của đời sống hiện nay. Có người nghiên cứu nào lại không hiểu rằng vấn đề quan trọng hàng đầu của mỗi đại hội Đảng là mục tiêu chiến lược. Nói nôm na là ta định dẫn dắt nhau đi đâu trong 5 năm tới ? Và đến năm thứ 5 thì ta chạm đến cái tiêu nào ?
Nhìn lại lịch sử, ta thấy :
- Đại hội I (1930) - Giải quyết được mục tiêu giành chính quyền thành lập được nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
- Đại hội II (1951) - Đánh thắng thực dân xâm lược Pháp, giải phóng được một nửa đất nước.
- Đại hội III (1960) - Định hai mục tiêu thì đạt được một là giải phóng miền Nam thống nhất Tổ quốc, còn mục tiêu xây dựng CNXH ở miền Bắc coi như không đạt - không đạt vì mục tiêu đó không thích hợp với trình độ kinh tế xã hội của miền Bắc lúc bấy giờ.
- Đại hội IV (1968) - Mục tiêu xây dựng CNXH trong cả nước hoàn toàn duy ý chí, không tưởng nên đã đưa đất nước vào con đường trì trệ khủng hoảng.
- Đại hội V (1978) - Tiếp tục đường lối của Đại hội IV, nghĩa là tiếp tục thực hiện đường lối cách mạng CNXH trong cả nước và cũng có nghĩa là tiếp tục trì trệ và khủng hoảng, và còn có nguy cơ sụp đổ.
- Đại hội VI (1986) - Có thể gọi là Đại hội của sự bừng tỉnh, nghĩa là Bộ Chính trị Trường Chinh thức nhận được rằng muốn tránh sụp đổ thì phải thay đổi đường lối, "ĐỔI MỚI HAY LÀ CHẾT !". Sự khôn ngoan của Bộ Chính trị Trường Chinh là đề ra được nguyên tắc : đổi mới toàn diện nhưng trước hết là đổi mới về tư duy kinh tế. Tất nhiên nếu trước hết lại đổi mới tư duy chính trị thì không tránh khỏi mất ổn định và sinh ra rối loạn xã hội. Đ/c Nguyễn Văn Linh và tập thể Bộ Chính trị đã thực hiện tương đối tốt đường lối đổi mới này, nhưng rất tiếc chỉ tốt được nửa nhiệm kỳ. Trước sự biến Liên Xô và Đông Âu cũng như sức ép của lực lượng bảo thủ trong Đảng, Bộ Chính trị Nguyễn Văn Linh co lại. Tất cả "những việc cần làm ngay" không làm nữa và được xếp lại. Xã hội đang phát triển mạnh mẽ bỗng nhiên khựng lại, nhiều lĩnh vực vừa mới được "cởi trói" bị trói lại. Giới trí thức văn nghệ sĩ lại bị trấn áp, đe nẹt. Việc bắt bớ người này, khai trừ kẻ khác chẳng qua là chơi cái trò "giết gà dọa khỉ" (tất nhiên, khi nào mới bị dọa mà đã vội sợ thì cực kỳ "khỉ" rồi). Nhưng tất cả những ai thật lòng yêu Nước, thương Dân có bao giờ thèm đánh vần chữ "sợ". Xin nhắc lại thêm một lần nữa ở đây lời Cụ Hồ trả lời cuộc phỏng vấn của phóng viên báo "Frères d'Armes" hồi năm 1948 ở Việt Bắc :
- Thưa chủ tịch, chủ tịch sợ điều gì nhất ?
- Không sợ gì cả ! Một người yêu nước không sợ gì hết, và nhất thiết không được sợ gì !
(Hồ Chí Minh toàn tập - tập 4)
Đáng lẽ sự đổi mới tư duy chính trị phải tiếp theo ngay sự đổi mới về tư duy kinh tế và cứ song song đổi mới dần dần cho đến mức hoàn hảo. Sự chậm chạp đổi mới tư duy chính trị đến một lúc nào đó đã cản trở kinh tế, văn hóa xã hội phát triển. Đ/c Nguyễn Văn Linh vĩ đại vì đã dám thực hiện đường lối đổi mới, nhưng cũng kém phần vĩ đại vì đã không đủ can đảm đổi mới một cách toàn diện và triệt để. Đ/c Trần Bạch Đằng hồi đó là một trong những tham mưu đắc lực của đ/c Nguyễn Văn Linh cũng không thể chối bỏ phần trách nhiệm của mình trong chuyện đi từ "tân cổ giao duyên" trở về "cải lương" này.
Nhiều người thấy Đại hội VI không đi được hết con đường đổi mới của mình thì qui lỗi cho đ/c Sáu Thọ về vấn đề nhân sự, nhưng theo chúng tôi chủ yếu vẫn là vấn đề bế tắc và khủng hoảng về lý luận. Làm CNXH như cũ thì không thể được vì làm giỏi như Liên Xô còn hỏng, chứ ta đã vào thứ bậc nào. Làm CNTB thì chúng ta không muốn. Thảo luận để tìm ra một đường riêng cho Việt Nam thì chúng ta không cho phép tự do thảo luận. Còn mấy đ/c nghiên cứu giáo điều hội thảo với nhau thì làm sao tìm ra được vấn đề. Vấn đề quá lớn này đáng lẽ phải được thảo luận rộng rãi và quan trọng nhất là tập hợp được những trí tuệ sắc sảo nhất - không kể trong Đảng hay ngoài Đảng, trong nước hay ngoài nước - thảo luận một cách có thực chất chứ không phải hội thảo hình thức như bấy lâu nay thường làm. Còn vài ba hội thảo do Hội đồng lý luận trung ương tổ chức thảo luận về cái gọi là "kinh tế thị trường XHCN" thì chẳng qua cũng là dập theo lý luận của Trung Quốc và bản thân những nhà lý luận Trung Quốc cũng rất lúng túng trong chuyện này, lúng túng cho đến nay vẫn chưa gỡ ra được.
Gần đây nhất, ông Chu Dung Cơ và toàn thể Ban chấp hành TW của Đảng Cộng sản Trung Quốc nhận thấy không thể tiếp tục bù lỗ cho các doanh nghiệp nhà nước nhưng tư nhân hóa cách nào để khỏi chệch hướng thì thấy khó quá. Về vấn đề tham nhũng thì tuy có xử bắn hết bí thư tỉnh này đến chủ tịch tỉnh nọ, thậm chí bắn cả thứ trưởng Bộ Công an và phó chủ tịch Quốc hội vẫn không chặn đứng được tình hình nguy hiểm này. Xét cho cùng cũng là do tình trạng "nửa vời" về mặt lý luận, các nhà lý luận của ta nhận thấy "kinh tế thị trường XHCN" chẳng qua cũng là một thuật ngữ "dở dơi dở chuột" nên vận dụng sáng tạo thành "kinh tế thị trường định hướng XHCN". Thế là có khác chữ định hướng chứ vẫn là chung về định tính, nghĩa là cũng nửa vời, dở dơi dở chuột như nhau. Có lẽ còn thiếu ông thợ giày thứ ba chăng ? Nhưng xem ra có tập trung thêm hai ông thợ giày nữa để hội thảo thì cũng chẳng thể biến hóa thành Gia Cát Lượng được.
Rút cục, có vấn đề cốt tử là vấn đề DÂN CHỦ thì vị nào cũng tránh. Tránh cũng có mặt đúng của nó, vì bà con phương Tây vẫn cứ nhằm vấn đề này để khoét sâu, kích động. Nhưng khốn nỗi càng tránh lại càng bế tắc, càng tụt hậu. Vì đơn giản là những nước vốn thoát thai từ phong kiến, từ thuộc địa mà không dân chủ hóa thì không phát triển được. Dân chủ theo kiểu Mỹ, kiểu Pháp, kiểu Anh, kiểu Nhật, kiểu Asean thì ta không ham, vậy chỉ còn có cách là ta theo kiểu của ta. Mà của ta như hiện nay là không ổn. Vậy, đề tài bàn luận hiện nay là :
THẾ NÀO LÀ DÂN CHỦ THEO KIỂU VIỆT NAM ?
Đại hội VII và Đại hội VIII đã nhận ra các nguy cơ và các quốc nạn nhưng chưa tìm được phương sách tối ưu. Quốc nạn tham nhũng càng chống càng phát triển. Nạn quan liêu, cường hào mới không giảm, lại có chiều hướng "tăng cường". Chỉnh đốn Đảng thì toàn 98%, 99% đảng viên loại 1. Đến nỗi đ/c Tổng bí thư phải hốt hoảng kêu lên : không chống được tham nhũng thì sẽ mất vai trò lãnh đạo của Đảng. Các tầng lớp nhân dân - nhất là nông dân mất đất, cộng với nhiều sự ức hiếp khác, bất bình thực sự. Lòng Dân không yên : đó là nguy cơ lớn nhất của mọi nguy cơ.
Khẩu hiệu "Dân giàu, nước mạnh, xã hội hội công bằng văn minh" mới nghe thì hay, ngẫm nghĩ kỹ mới thấy chệch hướng chiến lược của Cụ Hồ. Điều đáng lo ngại là sự chệch hướng từ lâu này lại muốn nâng lên thành lý luận chỉ đạo.
Chúng tôi đã thẳng thắn phê phán sự chệch hướng này (xem "Chỉnh đốn để tồn tại và phát triển") : Thực tế Thái Bình và nhiều vụ việc khiếu kiện tập thể (chúng tôi phản đối đ/c Hữu Thọ và các phương tiện truyền thông dùng cụm từ "khiếu kiện đông người" bên cạnh cụm từ "tham ô tập thể". Hóa ra các vị lại khinh bỉ nhân dân và kính trọng bọn tham nhũng qua cách tráo đổi từ ngữ này chăng ?) ở tất cả các địa phương là những dấu hiệu cảnh báo sự lâm nguy của chế độ, tuy có làm cho nhiếu đ/c lãnh đạo sáng mắt ra nhưng Ban soạn thảo Văn kiện Đại hội IX thấy buộc lòng phải đưa vấn đề Dân chủ ra. Nhưng chẳng lẽ đ/c Hà Đăng và toàn Ban soạn thảo lại không thấy rằng khi đưa vấn đề trọng đại này vào văn kiện theo kiểu "xây dựng một xã hội công bằng dân chủ văn minh" là đưa một cách đối phó và hình thức ư ?
Chẳng lẽ nhà nghiên cứu Trần Bạch Đằng lại không cảm nhận và thức nhận được rằng đây là chuyện đối phó và hình thức ? không Dân chủ thì làm thế nào để có thể công bằng và văn minh? Đáng lẽ nhưng người nghiên cứu tầm cỡ như Trần Bạch Đằng phải tập trung thảo luận vấn đề cốt tử mang tầm vóc chiến lược. Những người làm công tác nghiên cứu lý luận mà né tránh vấn đề Dân chủ hóa đất nước thử hỏi Nhân Dân còn biết trông cậy vào đâu ?
Chúng tôi cũng thân ái và thẳng thắn phê bình Báo Nhân Dân, Báo Sài Gòn Giải Phóng và một số tờ báo khác vừa rồi đăng một loạt bài tham gia ý kiến với Văn kiện Đại hội Đảng, phần đông chỉ chọn những bài phát biểu những vấn đề thứ yếu hoặc những vấn đề "râu ria". Có một số ít bài đề xuất những vấn đề lớn mang tầm vóc chiến lược thì không đăng hoặc đăng nhưng không tập trung ý kiến để thảo luận. Do đó ưu điểm là đăng được nhiều ý kiến nhưng khuyết điểm lại là tản mạn, vô thưởng vô phạt. Thành ra một cuộc phát động thảo luận rộng rãi mang ý nghĩa trọng đại như thế mà kết quả rất hạn chế. Theo thông báo của đ/c Hữu Thọ thì cả nước đã gửi đến Trung ương hơn một triệu ý kiến. Điều đó chứng tỏ mọi tầng lớp nhân dân tha thiết và nhiệt tình bàn việc Đảng, việc Nước như thế nào. Chúng tôi xin mạn phép hỏi Ban soạn thảo : các đ/c làm thế nào mà trong một thời gian ngắn như thế đọc được hàng triệu ý kiến ? Và đối với những ý kiến đúng đắn, khoa học, mang tầm cỡ chiến lược nhưng lại khác biệt, thậm chí trái ngược với thứ lý luận giáo điều mà các đ/c đã quen thuộc, liệu các đ/c có đủ cái tâm rộng rãi và chính đính để thâu nhận nó rồi can đảm đề xuất việc sửa chữa Dự thảo văn kiện hay không ?
Hiện nay, chúng ta đang đứng trước một nghịch lý : rất phổ biến một tâm lý sợ hãi vô lý nhưng có thật, tức là cần đề xuất một vấn đề mà mình cho là đúng thậm chí hiển nhiên là đúng nhưng cứ dụt dè e ngại, chỉ lo bị chụp mũ "sai quan điểm", "chống quan điểm". ít khi người ta tự hỏi : quan điểm ấy là quan điểm nào ? Của ai ? Vì lợi ích nào ? Có phù hợp với lợi ích của nhân dân và thực tiễn phát triển của đất nước hay không ? Việc tiến sĩ Nguyễn Kế Hào từ chức vụ trưởng Vụ Tiểu học là một sự kiện rất đáng ghi nhận. Nó biểu hiện một tinh thần tự trọng và ý thức trách nhiệm đối với dân tộc và đất nước của người trí thức chân chính.
Đứng trước một quyết định mà mình thấy là sai trái có hại cho lợi ích chung thì dù quyết định đó là của cấp trên hay tập thể, mỗi người cần có tiếng nói rõ ràng và hành động cụ thể. Không thể vin cớ "tôn trọng nguyên tắc dân chủ tập trung" hoặc "ý thức phục tùng tổ chức" rồi ngậm miệng và hành động hùa theo cái sai. Đến khi thực tiễn chứng minh được sự sai lầm thì thường mất hàng chục năm và tổn thất hàng trăm, hàng ngàn tỷ đồng, rồi khi phải làm lại từ đầu thì khoảng cách với bạn bè trong khu vực cũng như trên thế giới thật đáng sợ. Không ai chịu trách nhiệm cả. Những người chỉ đạo việc làm hoặc đã chết hoặc đã hưu trí hoặc đã chuyển sang công việc khác. Người ta đổ lỗi cho hoàn cảnh lịch sử, còn sự thiệt hại, sự nghèo nàn, sự lạc hậu người ta trút lên đầu nhân dân và khuyến cáo NHÂN DÂN và ĐẤT NƯỚC hãy cam bề chịu đựng.
Thử hỏi công cuộc cải cách giáo dục khởi đầu từ năm 1981 đến nay thất bại thảm hại như thế, các đ/c cựu bộ trưởng Phạm Minh Hạc, Trần Hồng Quan và tất cả những vụ, viện dưới quyền các đ/c có cần chịu trách nhiệm gì không ? Bao nhiêu ý kiến đúng đóng góp, các đ/c bỏ ngoài tai. Giá thời kỳ bấy giờ, các đ/c hoặc chỉ cần một vài người dưới quyền các đ/c có tinh thần tự trọng và ý thức trách nhiệm như Nguyễn Kế Hào thì phúc đức cho Dân Tộc và Chế Độ biết bao ! Bây giờ chúng ta đi vay hàng triệu đô la để đổ vào chương trình cải cách giáo dục tiểu học, nếu thành công thì đ/c Bộ trưởng Phạm Minh Hiển nhận huân chương, nhưng nếu thất bại thì đ/c Hiển có chịu trách nhiệm gì không ? Tại sao không mang những ý kiến của Nguyễn Kế Hào ra thảo luận rộng rãi. Chỉ xem những thông số và một vài luận chứng mà Nguyễn Kế Hào đưa ra trên báo Tuổi Trẻ TPHCM ngày 2-4-2001, nếu sự thật đúng là như thế, thì kế hoạch cải cách giáo dục tiểu học thất bại là điều chắc chắn.
Theo ý chúng tôi, chẳng lẽ một người như đ/c Phạm Minh Hạc từng chủ nhiệm đề tài "chiến lược con người" ở cấp quốc gia từng tiêu tốn hơn một tỷ đồng, được nghiệm thu loại xuất sắc lại không đủ can đảm đề xuất với Ban thi đua trung ương phát động một phong trào thi đua học tập những điển hình mới như Nguyễn Tăng Thắng, Nguyễn Kế Hào hay sao ? Nếu những người này nghĩ sai, hành động sai, thiết tưởng với cương vị phó chủ tịch thường trực Hội đồng lý luận TW kiêm phó Ban khoa giáo TW, đ/c cũng nên viết bài phân tích phê phán cho rõ ràng.
Chúng ta đang hô hào phải hiện đại hóa đất nước, lại động viên nhau ngậm miệng lại thì hiện đại hóa cái gì ? Quốc hội ta vừa rồi thông qua một số đạo luật bất cập, thậm chí vi phạm hiến pháp (điển hình là luật báo chí và xuất bản); chính phủ cũng ra những nghị định vi phạm hiến pháp (điển hình là nghị định 31CP) thế mà các đại biểu quốc hội, đặc biệt những đại biểu là luật sư, luật gia, ... lại ngậm miệng, thế là nghĩa lý gì ?
Đấy là nhân dân chưa hỏi đến trách nhiệm của các Hội luật gia, các đoàn luật sư ở Trung ương cũng như ở các địa phương không hiểu các quí vị muốn để cho Nhân Dân đau khổ và Đất Nước chìm đắm đến thế kỷ nào nữa ?
Ôi ! Một dân tộc anh hùng như Dân Tộc ta, một đất nước văn hiến như Đất Nước ta lại cam chịu lẽo đẽo theo sau thiên hạ mãi sao ? Chẳng lẽ tất cả những con người Hiểu Biết hoặc tự nhận mình là hiểu biết hiện nay đều đứt mất dây thần kinh xấu hổ rồi
chăng ? Chưa bao giờ chúng tôi lại cảm nhận được nỗi đau của các cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh và tất cả những nho sĩ yêu nước, trí thức yêu nước của đầu thế kỷ XX. Nhìn một lũ mũ cao áo dài khom lưng uốn gối, một lũ sỹ phu hũ nho giả câm giả mù giả điếc trước tình hình nhân dân bị đày đọa, đất nước bị nô lệ, cụ Phan Bội Châu đã phải gầm lên ở phương Đông : "Con bò con lợn bị chọc tiết, trước khi chết còn rống lên được một tiếng, một dân tộc bị đày đọa, bị giết dần giết mòn lại không dám kêu lên một tiếng. Hóa ra con người lại không bằng con bò con lợn hay sao ?".
Còn ở phía trời Tây thì ông Nguyễn Ái Quốc cũng đã phải thay mặt nhóm Ngũ Long mà gầm lên trước Hội nghị liệt cường đang chia phần sau Thế chiến để đòi độc lập và tự do cho Dân Tộc.
Xin phép hỏi mai ngày hiệp định thương mại Việt Mỹ được thực thi, tình hình AFTA hóa thành hiện thực mà ta lại không bàn nhau chuẩn bị cho đủ sức cạnh tranh thì rồi Nhân Dân và Đất Nước sẽ ra sao ?
Chúng tôi thật kinh ngạc khi thấy trong tình hình nước sôi lửa bỏng như thế này mà đ/c Trần Bạch Đằng lại đi bàn về nhân sự. Một cái cơ chế, một cái lề lối suy nghĩ và làm việc kể cả cái lề lối đề cử, dự kiến và bầu cử như hiện nay thì "nhân sự" nào cho lại ? Nói riêng một cái cải cách hành chính, ai cũng đều thấy hết cái chướng, thấy đủ thứ cản trở trong bộ máy mà cải cách liền trong hàng chục năm vẫn chưa đâu vào đâu. Chẳng lẽ đ/c Trần Bạch Đằng lại không thấy và không hiểu rằng cứ cái cơ chế và lề lối làm việc này thì con người nào dù tài năng đến mấy cũng phải bó tay ? Hoặc là anh sẽ nhập "băng" để cùng ăn chia hoặc là anh sẽ bị hất đi không thương tiếc. Vậy thì "nhân sự" nào đây để xoay chuyển tình hình ? Một triều đình Huế đâu có thiếu người giỏi nhưng kiểm đâu ra một cái đầu Minh Trị thiên hoàng. Ông Đặng Tiểu Bình và ông Enxin đều có những điểm đáng chê trách. Nhưng khi ông Đặng Tiểu Bình biết sử dụng loại mèo biết bắt chuột, ông Enxin trong 6 tháng dám cách chức 4 thủ tướng rồi lại biết chọn cho nước Nga một ông Putin trước khi tự nguyện lui về làm dân thường (ông ta cũng chẳng thiết làm cố vấn) : thế là đáng ghi nhận và đáng học tập lắm chứ !
Đ/c Trần Bạch Đằng, với tư cách là nhà nghiên cứu, chẳng lẽ lại không thừa hiểu rằng " nhân sự" của 8 Đại hội Đảng đã qua tốt xấu ra sao, Nhân Dân lại không biết chăng ? Đại hội IX của ta kỳ này, nếu không sửa lại cái thể thức bầu cử ứng cử - nhất là cái tiền lệ "dự kiến", "bầu thử", liệu rồi "hậu lệ sẽ ra sao ? Việc đáng bàn đ/c lại không bàn. Ta cứ bảo nhau vòng vo Tam quốc, né tránh những vấn đề gai góc rồi nơm nớp lo "đầu chẳng phải lại phải tai" thì rồi đây ta sẽ dẫn nhau đến những hầm hố nào đây ?
Quả thật, chúng tôi không tránh được lỗi khiếm nhã khi bật phì cười trước những lời lẽ bàn nối theo về vấn đề DÂN VẬN của đ/c Trần Bạch Đằng
4.Đối thoại 2001-T.4
[Đăng ngày 04/02/2012]
TRẦN KHUÊ - NGUYỄN THỊ THANH XUÂN
[Đăng ngày 04/02/2012]
TRẦN KHUÊ - NGUYỄN THỊ THANH XUÂN
ĐỐI THOẠI HAI NGÀN LẺ MỘT
TậP 4
1 - TRƯỚC HẾT PHẢI TRUNG THÀNH VỚI AI :
TỔ QUỐC HAY ĐẢNG CỘNG SẢN ?
Đọc báo Nhân Dân, chúng tôi giật mình khi thấy đồng chí Lê Văn Dũng - Tổng tham mưu trưởng QĐNDVN - trong bài “ ...” viết rằng : “Quân đội ta phải trung với Đảng, trung với Nước, hiếu với Dân”.
Viết như thế này hóa ra đ/c Lê Văn Dũng đặt Đảng ở vị thế trên cả ĐẤT NƯỚC, trên cả TỔ QUỐC. Vậy, đúng hay sai ?
Chúng tôi không rõ đ/c Dũng viết theo ai hay tự nghĩ ra ?
Theo sự hiểu biết hạn hẹp của chúng tôi thì chưa có một văn bản, nghị quyết nào của Đảng viết như thế. Cũng chưa có sách vở lý luận nào dạy như thế. Mà có viết và dạy như thế cũng là sai, sai cả về lý luận và thực tiễn, đặc biệt là sai với tư tưởng Hồ Chí Minh.
Chuyện “trung hiếu” xưa vốn là chuyện của Khổng Mạnh.
Chuyện “trung hiếu” nay - trung hiếu kiểu mới - mang nội dung dân tộc hiện đại, đó là chuyện của Hồ Chí Minh. Ai cũng thấy Cụ Hồ rất giỏi trong việc đưa nội hàm mới vào trong các khái niệm cũ để cho mọi người dù ít học hay nhiều chữ nghĩa cũng đều hiểu rất nhanh đặng thực hành thắng lợi công cuộc kháng chiến và kiến quốc. Từ khái niệm hạn hẹp của ngàn xưa : “trung quân” tức là trung với vua, Cụ Hồ mở rộng thành trung với Nước ; từ “hiếu ư phụ mẫu” tức là hiếu với cha mẹ, Cụ mở rộng thành hiếu với Nhân Dân. Nếu chúng tôi không nhầm thì văn bản đầu tiên nói đến vấn đề này lá cờ thêu sáu chữ TRUNG VỚI NƯỚC, HIẾU VỚI DÂN mà chính Cụ Hồ đã tận tay trao tặng cho các học viên trường Lục quân Trần Quốc Tuấn khóa II ngày ... tại Việt Bắc.
Chữ nghĩa như thế và chính chữ nghĩa đúng đắn như thế khi đã thấm vào lòng người, nó đã trở thành những lực lượng tinh thần và vật chất bất khả chiến thắng.
Bất kỳ một kẻ thù nào đối đầu với một quân đội như thế đều phải hoặc là giơ tay đầu hàng (chủ nghĩa thực dân cũ) hoặc là cuốn cờ rút trong danh dự (chủ nghĩa thực dân mới).
Đánh nhau với bộ đội Việt Nam, mọi kẻ thù dứt khoát phải thất bại vì đó là QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM. Mọi kẻ thù không hiểu hoặc cố tình không chịu hiểu rằng đây là một thứ quân đội do Nhân Dân đẻ ra, Nhân Dân nuôi dưỡng, Nhân Dân che chở bảo vệ. Hãy tiêu diệt Nhân Dân này rồi mới tính được chuyện tiêu diệt Quân Đội này. Mà Nhân Dân này đã 4000 năm sừng sững trụ vững trên đất này, tìm đâu ra lực lượng nào tiêu diệt nổi ? Lịch sử chỉ thấy mọi lực lượng ngu xuẩn đụng đầu với Nhân Dân này đều chuốc lấy thất bại thảm hại. Thù Việt Nam thì cứ việc thù, còn những ai muốn tính đến chuyện phục thù Việt Nam, hãy coi chừng ! Xin vui vẻ thân ái nói rõ với nhau như thế !
Vởy, tại sao lại có chuyện đang “trung với Nước, hiếu với Dân” lại trở thành “trung với Đảng, hiếu với Dân”.
Ai đã từng nghiên cứu lịch sử Nước ta và lịch sử Đảng ta hẳn thấy rõ, đó là chuyện xảy ra vào thời kỳ sau khi Cụ Hồ qua đời. Việc Bộ Chính trị Lê Duẩn duyệt sự thay đổi này đã gây ra một phản ứng không nhỏ. Nó cũng tương tự như chuyện sau ngày toàn thắng 30-4-75, người ta cứ nhấn mạnh công ơn của Đảng đối với Dân. Mãi gần đây, Bộ Chính trị Lê Khả Phiêu mới điều chỉnh được rằng phải nhấn mạnh công ơn của Nhân Dân đối với Đảng. Như thế là trở lại với Hồ Chí Minh, vì đánh giá đúng vị thế của Nhân Dân là một bộ phận quan trọng về lý luận cũng như thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh.
Hình như đ/c Lê Văn Dũng cũng nhận thấy cần phải chấp hành chỉ thị của Bộ Chính trị và trở lại với Hồ Chí Minh. Nhưng sao đ/c lại trở về nửa vời như thế ? “Trung với Đảng, trung với Nước, hiếu với Dân”, viết như thế hóa ra được đặt trên cả Tổ Quốc và Nhân Dân.
Thú thật, chúng tôi cũng không rõ, trước khi được bổ nhiệm làm Tổng tham mưu trưởng QĐNDVN, đồng chí đã được học qua những học viện chính trị, học viện quân sự nào ? Chẳng lẽ ở những học viện đó người ta lại không giảng hoặc giảng sai một luận điểm hết sức quan trọng của Lê-nin : Theo sự phát triển tất yếu của xã hội thì đến một thời điểm nào đó nhà nước sẽ tiêu vong, giai cấp cũng tiêu vong và đảng cũng không tồn tại nữa, nhưng Tổ Quốc, Dân Tộc vẫn sẽ còn lại, còn lại cho đến khi không còn hành tinh và nhân loại. Cho nên, Cụ Hồ nói : “Tổ Quốc trên hết” là đúng, đúng với truyền thống, đúng với hiện tại và mãi mãi.
Vởy thì không được phép quên rằng nhiệm vụ của Quân Đội Nhân Dân là bảo vệ TỔ QUỐC và bảo vệ NHÂN DÂN, nghĩa là phải đặt tổ quốc trên hết, phải “trung với Nước, hiếu với Dân“.
Từng có nơi, có những người lãnh đạo ra lệnh cho quân đội bắn vào nhân dân, do đó họ phải ra hầu tòa. Hai cựu tổng thống Hàn Quốc Chung Đô Hoan và Rô-tê là những tấm gương tầy liếp. ậ phe ta thì có đ/c Đặng Tiểu Bình tuy thoát được tòa án pháp lý như vẫn phải ra hầu tòa án lịch sử.
Nhân Dân tha thứ hay không là quyền của Nhân Dân.
Mặc dù chưa bao giờ nguôi lòng căm ghét cái ông công sản lão thành Đặng Tiểu Bình từng mở miệng nói một câu đáng tởm : “Phải dạy cho Việt Nam một bài học” rồi dám lùa hàng chục vạn quân tràn qua biên giới cướp bóc, đánh phá nhân dân của một dân tộc anh em cùng phe XHCN với mình, xóa bỏ tình nghĩa “môi răng”, “vừa là đồng chí vừa là anh em”, chúng tôi vẫn khâm phục lòng tự trọng của ông và kêu gọi mọi người lãnh đạo nên học tập tinh thần tự trọng đó.
Mọi sự ân hận, sám hối đều đáng được hưởng lượng khoan hồng của Nhân Dân và hậu thế. Nói cho mọi người nào đã từng lầm lỗi hoặc đã trót nhúng tay vào tội ác hãy mau tỉnh ngộ.
Lưới trời lồng lộng, không một Chung Đô Hoan, một Đặng Tiểu Bình, môt Pinochê nào có thể trốn thoát. Tất cả những kẻ nào chủ trương dùng vũ lực để tàn sát nhân dân đều sẽ bị Nhân Dân và Lịch Sử tiêu diệt !
TậP 4
1 - TRƯỚC HẾT PHẢI TRUNG THÀNH VỚI AI :
TỔ QUỐC HAY ĐẢNG CỘNG SẢN ?
Đọc báo Nhân Dân, chúng tôi giật mình khi thấy đồng chí Lê Văn Dũng - Tổng tham mưu trưởng QĐNDVN - trong bài “ ...” viết rằng : “Quân đội ta phải trung với Đảng, trung với Nước, hiếu với Dân”.
Viết như thế này hóa ra đ/c Lê Văn Dũng đặt Đảng ở vị thế trên cả ĐẤT NƯỚC, trên cả TỔ QUỐC. Vậy, đúng hay sai ?
Chúng tôi không rõ đ/c Dũng viết theo ai hay tự nghĩ ra ?
Theo sự hiểu biết hạn hẹp của chúng tôi thì chưa có một văn bản, nghị quyết nào của Đảng viết như thế. Cũng chưa có sách vở lý luận nào dạy như thế. Mà có viết và dạy như thế cũng là sai, sai cả về lý luận và thực tiễn, đặc biệt là sai với tư tưởng Hồ Chí Minh.
Chuyện “trung hiếu” xưa vốn là chuyện của Khổng Mạnh.
Chuyện “trung hiếu” nay - trung hiếu kiểu mới - mang nội dung dân tộc hiện đại, đó là chuyện của Hồ Chí Minh. Ai cũng thấy Cụ Hồ rất giỏi trong việc đưa nội hàm mới vào trong các khái niệm cũ để cho mọi người dù ít học hay nhiều chữ nghĩa cũng đều hiểu rất nhanh đặng thực hành thắng lợi công cuộc kháng chiến và kiến quốc. Từ khái niệm hạn hẹp của ngàn xưa : “trung quân” tức là trung với vua, Cụ Hồ mở rộng thành trung với Nước ; từ “hiếu ư phụ mẫu” tức là hiếu với cha mẹ, Cụ mở rộng thành hiếu với Nhân Dân. Nếu chúng tôi không nhầm thì văn bản đầu tiên nói đến vấn đề này lá cờ thêu sáu chữ TRUNG VỚI NƯỚC, HIẾU VỚI DÂN mà chính Cụ Hồ đã tận tay trao tặng cho các học viên trường Lục quân Trần Quốc Tuấn khóa II ngày ... tại Việt Bắc.
Chữ nghĩa như thế và chính chữ nghĩa đúng đắn như thế khi đã thấm vào lòng người, nó đã trở thành những lực lượng tinh thần và vật chất bất khả chiến thắng.
Bất kỳ một kẻ thù nào đối đầu với một quân đội như thế đều phải hoặc là giơ tay đầu hàng (chủ nghĩa thực dân cũ) hoặc là cuốn cờ rút trong danh dự (chủ nghĩa thực dân mới).
Đánh nhau với bộ đội Việt Nam, mọi kẻ thù dứt khoát phải thất bại vì đó là QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM. Mọi kẻ thù không hiểu hoặc cố tình không chịu hiểu rằng đây là một thứ quân đội do Nhân Dân đẻ ra, Nhân Dân nuôi dưỡng, Nhân Dân che chở bảo vệ. Hãy tiêu diệt Nhân Dân này rồi mới tính được chuyện tiêu diệt Quân Đội này. Mà Nhân Dân này đã 4000 năm sừng sững trụ vững trên đất này, tìm đâu ra lực lượng nào tiêu diệt nổi ? Lịch sử chỉ thấy mọi lực lượng ngu xuẩn đụng đầu với Nhân Dân này đều chuốc lấy thất bại thảm hại. Thù Việt Nam thì cứ việc thù, còn những ai muốn tính đến chuyện phục thù Việt Nam, hãy coi chừng ! Xin vui vẻ thân ái nói rõ với nhau như thế !
Vởy, tại sao lại có chuyện đang “trung với Nước, hiếu với Dân” lại trở thành “trung với Đảng, hiếu với Dân”.
Ai đã từng nghiên cứu lịch sử Nước ta và lịch sử Đảng ta hẳn thấy rõ, đó là chuyện xảy ra vào thời kỳ sau khi Cụ Hồ qua đời. Việc Bộ Chính trị Lê Duẩn duyệt sự thay đổi này đã gây ra một phản ứng không nhỏ. Nó cũng tương tự như chuyện sau ngày toàn thắng 30-4-75, người ta cứ nhấn mạnh công ơn của Đảng đối với Dân. Mãi gần đây, Bộ Chính trị Lê Khả Phiêu mới điều chỉnh được rằng phải nhấn mạnh công ơn của Nhân Dân đối với Đảng. Như thế là trở lại với Hồ Chí Minh, vì đánh giá đúng vị thế của Nhân Dân là một bộ phận quan trọng về lý luận cũng như thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh.
Hình như đ/c Lê Văn Dũng cũng nhận thấy cần phải chấp hành chỉ thị của Bộ Chính trị và trở lại với Hồ Chí Minh. Nhưng sao đ/c lại trở về nửa vời như thế ? “Trung với Đảng, trung với Nước, hiếu với Dân”, viết như thế hóa ra được đặt trên cả Tổ Quốc và Nhân Dân.
Thú thật, chúng tôi cũng không rõ, trước khi được bổ nhiệm làm Tổng tham mưu trưởng QĐNDVN, đồng chí đã được học qua những học viện chính trị, học viện quân sự nào ? Chẳng lẽ ở những học viện đó người ta lại không giảng hoặc giảng sai một luận điểm hết sức quan trọng của Lê-nin : Theo sự phát triển tất yếu của xã hội thì đến một thời điểm nào đó nhà nước sẽ tiêu vong, giai cấp cũng tiêu vong và đảng cũng không tồn tại nữa, nhưng Tổ Quốc, Dân Tộc vẫn sẽ còn lại, còn lại cho đến khi không còn hành tinh và nhân loại. Cho nên, Cụ Hồ nói : “Tổ Quốc trên hết” là đúng, đúng với truyền thống, đúng với hiện tại và mãi mãi.
Vởy thì không được phép quên rằng nhiệm vụ của Quân Đội Nhân Dân là bảo vệ TỔ QUỐC và bảo vệ NHÂN DÂN, nghĩa là phải đặt tổ quốc trên hết, phải “trung với Nước, hiếu với Dân“.
Từng có nơi, có những người lãnh đạo ra lệnh cho quân đội bắn vào nhân dân, do đó họ phải ra hầu tòa. Hai cựu tổng thống Hàn Quốc Chung Đô Hoan và Rô-tê là những tấm gương tầy liếp. ậ phe ta thì có đ/c Đặng Tiểu Bình tuy thoát được tòa án pháp lý như vẫn phải ra hầu tòa án lịch sử.
Nhân Dân tha thứ hay không là quyền của Nhân Dân.
Mặc dù chưa bao giờ nguôi lòng căm ghét cái ông công sản lão thành Đặng Tiểu Bình từng mở miệng nói một câu đáng tởm : “Phải dạy cho Việt Nam một bài học” rồi dám lùa hàng chục vạn quân tràn qua biên giới cướp bóc, đánh phá nhân dân của một dân tộc anh em cùng phe XHCN với mình, xóa bỏ tình nghĩa “môi răng”, “vừa là đồng chí vừa là anh em”, chúng tôi vẫn khâm phục lòng tự trọng của ông và kêu gọi mọi người lãnh đạo nên học tập tinh thần tự trọng đó.
Mọi sự ân hận, sám hối đều đáng được hưởng lượng khoan hồng của Nhân Dân và hậu thế. Nói cho mọi người nào đã từng lầm lỗi hoặc đã trót nhúng tay vào tội ác hãy mau tỉnh ngộ.
Lưới trời lồng lộng, không một Chung Đô Hoan, một Đặng Tiểu Bình, môt Pinochê nào có thể trốn thoát. Tất cả những kẻ nào chủ trương dùng vũ lực để tàn sát nhân dân đều sẽ bị Nhân Dân và Lịch Sử tiêu diệt !