Thứ Năm, 24 tháng 12, 2020

Lịch sử quan hệ Việt-Trung nhìn từ góc độ đại chiến lược

Lịch sử quan hệ Việt-Trung
nhìn từ góc độ đại chiến lược

 

Vũ Hồng Lâm*

 

Tóm tắt:  Quan hệ Việt Nam-Trung Quốc, cũng như nhiều quan hệ địa chính trị khác, có hai mặt: hình thức và thực chất. Hai mặt này không phải bao giờ cũng tương đồng. Về mặt hình thức, quan hệ Việt-Trung được định vị trong khuôn khổ một mô hình thế giới có tính chuẩn tắc mà cả hai thế lực cầm quyền ở Trung Quốc và ở Việt Nam cùng công nhận. Song về thực chất, quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc phản ánh sự cọ sát, đụng độ hoặc thỏa hiệp giữa những viễn tượng khác nhau về trật tự thế giới, xét cho cùng là phản ánh tương quan lực lượng giữa các thế lực lãnh đạo đại diện cho các viễn tượng thế giới khác nhau. Sự chia sẻ và tranh chấp trật tự thế giới được thực hiện thông qua đại chiến lược và được thể hiện thông qua lễ nghi. Tìm hiểu đại chiến lược của Việt Nam và Trung Quốc, giải mã lễ nghi trong tiếp xúc và trao đổi giữa hai nước (đúng hơn là hai thế lực địa chính trị), sẽ cho câu trả lời về tính chất và đặc điểm của mối quan hệ Việt-Trung. Bài viết này điểm qua mối quan hệ Việt-Trung trong 22 thế kỷ lịch sử của nó, đặc biệt tập trung vào giai đoạn từ thập niên 1970 cho đến nay.

 

Tổng quan

 

Quan hệ Việt Nam-Trung Quốc là một trong những mối quan hệ địa chính trị lâu đời nhất trên thế giới còn tồn tại đến ngày nay. Nói “quan hệ địa chính trị” để nói về một phạm trù tổng quát hơn, bao trùm hơn phạm trù “quan hệ giữa hai quốc gia”. Bởi vì trong gần hai mươi hai thế kỷ lịch sử của nó, quan hệ Việt-Trung không phải lúc nào cũng là quan hệ giữa hai quốc gia, càng không phải lúc nào cũng là quan hệ giữa hai “nhà nước dân tộc có chủ quyền”, như ta vẫn quen hình dung về mối quan hệ giữa hai “nước” trong thế giới hiện đại. “Quan hệ Việt-Trung” ở đây được hiểu là mối quan hệ giữa hai thực thể địa chính trị. Mối quan hệ địa chính trị này trong từng thời kỳ có tính chất gì, mang đặc điểm gì, hay có thể gọi là gì, đó chính là câu hỏi bao trùm của bài nghiên cứu này.

Quan hệ Việt-Trung trong gần 2200 năm tồn tại từ thế kỷ 2 trước Tây lịch đến nay có thể chia ra bốn thời kỳ cơ bản. Thời kỳ thứ nhất quen gọi là “thời kỳ Bắc thuộc”, dài khoảng một ngàn năm, từ lúc nước Âu Lạc của An Dương Vương thuộc về nước Nam Việt của Triệu Đà (năm 179 tr. TL), khi mối liên hệ địa chính trị đầu tiên giữa miền châu thổ sông Hồng với miền Trung nguyên Trung Quốc được thiết lập thông qua quan hệ Hán-Nam Việt, cho đến thời điểm Ngô Quyền thắng quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng (năm 938 sau TL). Thời kỳ thứ hai gọi chung là “thời kỳ Đại Việt”, dài tương đương, từ khi Ngô Quyền xưng vương (939) đến khi Pháp đặt nền bảo hộ ở Việt Nam và nhà Thanh công nhận chủ quyền của Pháp ở đây (1883). Thời kỳ thứ ba quen gọi là “thời kỳ Pháp thuộc”, kéo dài khoảng 6 thập niên, từ 1883 đến 1945, khi Việt Nam tuyên bố độc lập. Thời kỳ thứ  gọi chung là “thời kỳ Việt Nam”, dài tương tự, từ 1945 đến nay. Thời kỳ này gồm 3 giai đoạn: (1) từ cuối thập niên 40 đến cuối thập niên 60, (2) từ đầu thập niên 70 đến cuối thập niên 80, (3) từ đầu thập niên 90 đến nay.

 

Thời kỳ Bắc thuộc

 

Thời Bắc thuộc, Việt Nam được tổ chức thành quận huyện trong cơ cấu nhà nước đế quốc Trung Hoa với tên gọi “Giao châu” (nửa đầu thời kỳ) và “An Nam đô hộ phủ” (nửa sau thời kỳ). Quan cai trị Việt Nam do vua Trung Quốc bổ nhiệm. Như vậy, Việt Nam thống thuộc vào Trung Quốc về nhân sự lãnh đạo cũng như về chính sách. Song thực tế không nhất thiết là như vậy. Có hai cách đi ra ngoài khuôn khổ của triều đình Trung Hoa.

Cách thứ nhất được thực hiện bằng một cuộc khởi nghĩa vũ trang, sau đó người lãnh đạo khởi nghĩa xưng “vương” hoặc xưng “đế”. Hiện tượng các thủ lĩnh địa phương nổi lên xưng đế là hiện tượng bình thường trong lịch sử Trung Quốc. Thế nhưng trong đa số trường hợp họ đều hướng tới chiếm lĩnh Trung nguyên, thâu tóm cả Trung Quốc về mình: Dưới vòm trời chỉ có một mặt trời mà thôi. Song ở Việt Nam, những người nổi lên xưng vương xưng đế chưa bao giờ nuôi ý đồ tiến chiếm Trung nguyên. Họ luôn coi Trung Quốc như một thiên hạ khác. Họ không định gồm thâu Trung Quốc, mà ngược lại, họ muốn rạch ngang vòm trời, chia thiên hạ làm hai, nửa bắc của người bắc, nửa nam của mình. Ở đây, người ta vẫn sử dụng mô hình thế giới của Trung Hoa, nhưng bóp méo nó đi ở một điểm cơ bản: Thiên hạ chia hai, có hai mặt trời. Tư tưởng này là viễn tượng về trật tự thế giới của hàng loạt các thế lực lãnh đạo Việt Nam cho đến mãi về sau. Nó thể hiện trong đế hiệu “Lý Nam đế” của Lý Bí (544), trong bài thơ “Nam quốc sơn hà Nam đế cư” được cho là của Lý Thường Kiệt (1075), trong bài phú “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi (1428). Nhưng không phải nó chỉ bắt đầu với Lý Bí. Nó đã bắt đầu rất sớm, trước cả khi có mối quan hệ Việt-Trung nếu ta quan niệm quan hệ Việt-Trung khởi sự cùng với mối liên hệ địa chính trị đầu tiên giữa miền châu thổ sông Hồng và miền Trung nguyên Trung Quốc. Do đó, mối quan hệ địa chính trị giữa Việt Nam và Trung Hoa ngay từ khi khởi sự đã được lồng trong cái tư tưởng “Bắc Nam chia đôi” ấy. Kẻ khởi xướng ra cái tư tưởng “Bắc Nam tương xứng” đó là Triệu Đà, nguyên là một viên tướng nhà Tần cử xuống cai trị ở vùng Lĩnh Nam. Nhân lúc trung ương Hoa Hạ suy yếu, họ Triệu nổi lên xưng đế, lập nước Nam Việt, xây dựng chính quyền theo hình mẫu Trung Hoa, nhưng cải lối sống theo tục Việt. Tuy nhiên Triệu Đà sớm phải thỏa hiệp với Trung Hoa: Ông phải bỏ xưng “đế”, chịu cho nhà Hán phong “vương”, nghĩa là công nhận tư cách của mình chỉ như một chư hầu mà vua Hán là bá chủ. Trong suốt thời Bắc thuộc, các cuộc khởi nghĩa của người Việt cũng đều ngắn ngủi. Phần thắng vẫn thuộc về kẻ muốn áp đặt trật tự thế giới một trung tâm, mà Việt Nam trong đó chỉ có tư cách quận huyện.

Cách thứ hai là chấp nhận tư cách quận huyện của Việt Nam trong cơ cấu tổ chức nhà nước Trung Quốc, nhưng giữ cho mình một không gian tự chủ riêng. Kẻ cai trị Giao châu hay An Nam tự lập vào chức đứng đầu bộ máy cai trị địa phương hoặc cha truyền con nối, sự sắc phong của triều đình trung ương bên Trung Hoa chỉ là hình thức. Tự chủ trong nhân sự lãnh đạo đi kèm với tự chủ trong chính sách. Những thời kỳ như vậy nổi bật nhất có họ Sĩ (tk 2 sau TL) và họ Khúc (tk 9).

 

Thời kỳ Đại Việt

 

Đây là lúc Việt Nam không còn chấp nhận tư cách quận huyện trong đế quốc Trung Hoa nữa, và Trung Hoa cũng phải chấp nhận cho Việt Nam nằm ngoài cương vực của mình. Lịch sử quan hệ Việt-Trung trong thời kỳ này là lịch sử sự xung đột và thỏa hiệp, lịch sử sự thể chế hóa các xung đột và thỏa hiệp ấy giữa hai viễn tượng về trật tự thế giới.

Trung Hoa áp đặt trật tự thế giới của mình thông qua “lễ”. Để khẳng định vị trí của mình trong trật tự thế giới của Trung Hoa, Việt Nam phải nộp cống, kẻ cầm quyền mới lên ngôi phải cầu phong, nhận sắc chỉ của hoàng đế Trung Hoa phải khấu đầu, nếu không làm tròn phận sự sẽ bị cất quân hỏi tội.

Việt Nam thực hiện một chính sách hai mặt. Một mặt vẫn thực hiện đủ lễ với Trung Hoa, nghĩa là về hình thức công nhận trật tự thế giới của Trung Quốc. Mặt khác cứ thực hiện trật tự thế giới của riêng mình. Tự xưng hoàng đế, coi mình như Trung Quốc ở phương Nam, bắt các nước ngoài Trung Hoa phải triều cống, sắc phong cho họ, nếu “bất trung” cũng cất quân hỏi tội. Tuy nhiên, như Alexander Woodside (1971) nhận xét, cái trật tự “Trung Quốc của phương Nam” này lỏng lẻo hơn “Trung Quốc thật sự” rất nhiều.

Phương thức đại chiến lược của Việt Nam đối với Trung Quốc có sự giống và khác giữa hai giai đoạn. Giai đoạn đầu, thời Lý-Trần, là kháng cự và không chối từ (“non-refus”, chữ dùng của Pierre Féray, được Trần Quốc Vượng (1991) tâm đắc). Giai đoạn sau, thời Lê-Nguyễn, là kháng cự và bắt chước. Sự khác nhau này là nguồn gốc gây tranh cãi về thái độ của Việt Nam đối với Trung Quốc trong thời Trung đại. Vĩnh Sính (1994) gọi thái độ ấy nói chung là “kháng cự và chấp nhận”, so sánh với thái độ của sĩ phu Nhật Bản với Trung Quốc là “kính trọng và chối từ”. Sự dịch chuyển thái độ của Việt Nam với Trung Quốc vào nửa sau thời Trung đại, theo Trần Quốc Vượng (1993), là do sự thắng thế của đạo Nho, khiến cho trong thời Lê-Nguyễn tình trạng tam giáo đồng nguyên bị thay bằng tình trạng độc tôn Nho giáo. Mục tiêu đại chiến lược của giới nho sĩ, tức là nghiệp cấp lãnh đạo Việt Nam trong thời Trung đại, như Trần Quốc Vượng (1988) chỉ ra, là “vô tốn, bất dị” (không kém và không khác) Trung Quốc.

 

Thời kỳ Pháp thuộc

 

Thời Pháp thuộc, Việt Nam bị chia làm ba kỳ, nằm trong Liên bang Đông Dương thuộc Pháp: Bắc kỳ và Trung kỳ là xứ bảo hộ, Nam kỳ là thuộc địa. Với Hiệp ước Pháp-Thanh năm 1885, Trung Quốc từ bỏ bá quyền của mình và thừa nhận sự bảo hộ của Pháp đối với Việt Nam. Quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc do Pháp đảm nhiệm và trở thành một bộ phận của quan hệ Pháp-Trung.

Thời kỳ này cũng là thời kỳ mà Trung Hoa phải từ bỏ mô hình thế giới truyền thống của mình và áp dụng mô hình thế giới kiểu Âu, một kiểu trật tự thế giới được công nhận ở châu Âu từ sau Hòa ước Westphalia (1648). Sự khác biệt lớn nhất giữa hai mô hình Trung Hoa và Tây phương là trật tự thế giới kiểu Tàu đòi hỏi phải có một trung tâm thiên hạ, đại diện là hoàng đế Trung Quốc với tư cách “con trời”, dưới ông là một hệ thống các “phiên bang”, “chư hầu”, “thuộc quốc”, tức là một sự phân biệt trên dưới rất rõ ràng; trong khi trật tự thế giới kiểu Westphalia không công nhận một trung tâm quyền lực tối thượng đứng trên các nước khác, cai quản cả thế giới dù chỉ trên danh nghĩa, các nước có chủ quyền tối cao trong vùng lãnh thổ của mình, và do đó là ngang nhau trên trường quốc tế.

Tuy nhiên, hành xử của các nước Tây phương phải chia làm hai lớp. Ở phần nghi lễ ngoại giao là mô hình Westphalia, còn trong thực tế là chính trị dựa trên sức mạnh (power politics). Chẳng hạn ở Việt Nam, Pháp chiếm Nam kỳ lục tỉnh làm thuộc địa, có giao kèo đàng hoàng. Nghĩa là quyền chiếm đất của Pháp không phải tự nhiên mà có. Pháp đặt vòng bảo hộ lên Bắc và Trung kỳ, giữ nguyên ngai vàng Hoàng đế Đại Nam, chỉ đặt “công sứ” cai trị. Nghĩa là vẫn công nhận vua An Nam là chủ nước An Nam. Tuy rằng tất cả phải chịu sự điều động của Toàn quyền Đông Dương và chính phủ Pháp. Riêng đối với Trung Hoa, do nước này quá lớn, phương Tây bắt Trung Hoa phải tô nhượng cho họ một số khu vực đầu mối giao thương, phải thừa nhận cho họ có khu vực ảnh hưởng trên lãnh thổ mình. Chẳng hạn Pháp bắt nhà Thanh phải thừa nhận các tỉnh Lưỡng Quảng và Vân Nam nằm trong khu vực ảnh hưởng của Pháp.

Về phía Trung Quốc, một mặt chuyển theo mô hình thế giới kiểu Âu nhất là trong việc đòi hỏi quyền bình đẳng với các nước lớn Tây phương, mặt khác vẫn nuôi tham vọng dành lại bá quyền với các nước khi xưa đã chấp nhận trật tự thế giới kiểu Trung Quốc. Chính sách này chung cho mọi chính quyền ở Trung Quốc, từ nhà Thanh, Quốc dân đảng đến Cộng sản đảng.

 

Lý và thực trong thời hiện đại

 

Sau Thế Chiến II, cả thế giới cùng công nhận mô hình Westphalia. Mô hình đó là cơ sở ý thức hệ của Liên Hợp Quốc (cấm xâm lược, mỗi nước một phiếu), cũng là chỗ bám để các nước thuộc địa đòi hỏi quyền tự quyết của mình. Chính trên căn bản này mà Ấn Độ và Trung Quốc đã đề ra “năm nguyên tắc chung sống hòa bình” (tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không xâm lược lẫn nhau, không can thiệp vào nội trị của nhau, bình đẳng cùng có lợi, chung sống hòa bình). Những nguyên tắc này cũng được Trung Quốc và Việt Nam coi như một căn bản trong quan hệ giữa hai quốc gia. Nói cách khác, mô hình thế giới truyền thống kiểu Trung Quốc mà các triều đình Việt Nam và Trung Hoa chia sẻ trước kia đã không còn hiệu lực pháp lý. Bên cạnh đó, nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa và nước Trung Hoa xã hội chủ nghĩa còn có chung một mô hình thế giới nữa. Theo đó, thế giới chia làm hai phe, xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa, trong đó Việt Nam và Trung Quốc cùng thuộc phe xã hội chủ nghĩa, tức là như “anh em một nhà”.

Trong những năm 50 và 60, Việt Nam coi Liên Xô và Trung Quốc là hai nước đứng đầu phe xã hội chủ nghĩa, là “anh cả” và “anh hai”. Điều này có vẻ như Việt Nam trùng quan điểm với Trung Quốc (Liên Xô và Trung Quốc là anh cả và anh hai của phe xã hội chủ nghĩa), khác quan điểm với Liên Xô (Liên Xô một mình lãnh đạo phe xã hội chủ nghĩa). Nhưng thực chất có sự khác biệt quan trọng giữa ba quan điểm của ba nước. Trung Quốc vẫn công nhận phe xã hội chủ nghĩa lãnh đạo bởi Liên Xô, nhưng điểm mấu chốt mà Trung Quốc đòi hỏi là họ phải được độc lập, không bị phụ thuộc vào “anh cả”. Vì thế mà Mao muốn Liên Xô chia sẻ kỹ thuật làm bom nguyên tử với Trung Quốc. Nhưng Liên Xô muốn các nước xã hội chủ nghĩa phụ thuộc vào mình nên từ chối cho Trung Quốc công nghệ nguyên tử. Đây là nguyên nhân sâu xa và căn bản của sự “bất hòa” giữa hai nước trong những năm về sau. Về phía Việt Nam, để phục vụ mục tiêu hoàn toàn giải phóng miền Nam, Việt Nam cần cả hai cường quốc xã hội chủ nghĩa, còn chuyện họ có phụ thuộc vào nhau hay không thì không quan trọng.

Tuy nhiên, trong giai đoạn Khrushchev cầm quyền ở Liên Xô, Hà Nội bất đồng với Mátxcơva trên hai điểm căn bản. Thứ nhất là chủ trương chung sống hòa bình giữa hai hệ thống xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa. Chính sách này làm Hà Nội bất mãn, vì họ không tin Mỹ cũng muốn chung sống hòa bình, bằng chứng của họ là việc Washington ngày càng can thiệp sâu vào miền Nam. Thêm nữa, chủ trương chung sống hòa bình đi ngược lại ý đồ của Hà Nội là quyết tâm giải phóng miền Nam, kể cả bằng vũ lực. Thứ hai là chủ trương xét lại các giáo điều của Lênin và Stalin. Điều này gây hoang mang, xáo trộn tư tưởng trong cán bộ, khi mà Hà Nội lại đang rất cần thống nhất và ổn định tư tưởng để tranh đấu ở miền Nam. Trong lúc đó thì Trung Quốc cũng chủ trương dùng đấu tranh vũ trang để chống Mỹ và giương ngọn cờ chống xét lại để tiếp tục bám giữ các giáo điều. Do đó, tại Hội nghị trung ương 9 khóa 3 Đảng Lao động Việt Nam, tháng 12/1963, cùng với một nghị quyết “giải phóng miền Nam” là một nghị quyết “chống chủ nghĩa xét lại” của Liên Xô như một sự “ngả về” Trung Quốc. Tuy nhiên, như W. R. Smyser (1980: 80) nhận định, vấn đề đối với Hà Nội không phải là theo Trung Quốc hay ngả về Liên Xô hay giữ một vị trí cân bằng giữa hai bên. Chính sách của Hà Nội theo đuổi một mục tiêu không đổi: giành sự kiểm soát hoàn toàn miền Nam. Và Hà Nội sẽ nghiêng về bên nào ủng hộ mục tiêu đó.

Song chẳng bao lâu sau, vào cuối những năm 60, đầu những năm 70, quan điểm và đường lối đại chiến lược của Việt Nam và Trung Quốc bắt đầu rời xa nhau. Bất đồng sâu sắc với Liên Xô mà không lôi kéo được phe xã hội chủ nghĩa theo mình, Trung Quốc quay ra giương cao ngọn cờ lãnh đạo các nước đang phát triển. Cuối những năm 60, Trung Quốc đưa ra viễn tượng “nông thôn thế giới bao vây thành thị thế giới”, trong đó “nông thôn thế giới” do Trung Quốc lãnh đạo, còn “thành thị thế giới” bao gồm cả Mỹ lẫn Liên Xô. Cũng trong khoảng thời gian này, Liên Xô đưa ra mô hình “ba dòng thác cách mạng thế giới”. Ba dòng thác ấy bao gồm chủ nghĩa xã hội ở các nước xã hội chủ nghĩa, phong trào công nhân ở các nước tư bản chủ nghĩa, và phong trào giải phóng dân tộc ở các nước đang phát triển. Theo thuyết của Liên Xô, nước này lãnh đạo phe xã hội chủ nghĩa và lực lượng xã hội chủ nghĩa là chủ lưu của ba dòng thác cách mạng. Như vậy, Liên Xô là lãnh đạo của lãnh đạo. Việt Nam không nhận được vai trò gì quan trọng trong viễn tượng thế giới của Trung Quốc, nhưng vẫn có thể có chỗ đứng danh giá trong mô hình của Liên Xô. Đó là một lý do vì sao Bí thư thứ nhất Lê Duẩn nhanh chóng tiếp thu lý luận “ba dòng thác cách mạng” của Suslov, đồng thời gắn vào đó hình ảnh Việt Nam là “tiền đồn của phe xã hội chủ nghĩa ở Đông Nam Á” và “mũi nhọn của phong trào giải phóng dân tộc trên toàn thế giới”.

Ngoài ra, cũng trong khoảng thời gian cuối những năm 60, đầu những năm 70, một loạt biến cố quan trọng đã xảy ra trong chính sách và mối quan hệ của các nước lớn liên quan đến Việt Nam. Năm 1966, căng thẳng giữa Trung Quốc và Liên Xô bùng cháy thành xung đột biên giới. Năm 1967, Mỹ tổn thất nặng vì chiến tranh Việt Nam, Tổng thống Johnson không dám ra tranh cử tổng thống. Năm 1968, Nixon trúng cử tổng thống Mỹ, chuyển sang chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh. Cố vấn an ninh quốc gia Kissinger, một giáo sư sử học đặc biệt tâm đắc phương thức “cân bằng quyền lực” (balance of power), phương thức mà theo ông đã giúp châu Âu duy trì hòa bình trong suốt một thế kỷ (từ sau Chiến tranh Napoléon đến trước Thế chiến thứ 1), bí mật sang Trung Quốc thăm dò khả năng dùng nước này làm đối trọng với Liên Xô. Năm 1972, nhân chuyến thăm Trung Quốc của Tổng thống Mỹ Nixon, hai nước ký Tuyên bố chung Thượng Hải, đặt nền móng cho liên minh chiến lược chống lại Liên Xô. Sự bắt tay của Trung Quốc với Mỹ càng làm Việt Nam xích lại gần Liên Xô. Như Eero Palmujoki (1997: 48) nhận xét, việc Hà Nội tiếp thu lý luận “ba dòng thác cách mạng” là để thể hiện chính sách thân Liên Xô, vì quan điểm “ba dòng thác cách mạng” mà Liên Xô đưa ra năm 1969 về cơ bản không khác gì quan điểm “ba lực lượng cách mạng thế giới” mà Hội nghị các đảng cộng sản và công nhân đã thông qua vào năm 1960.

Năm 1975, chiến tranh kết thúc, nước Việt Nam thống nhất, quan hệ Việt-Trung đi vào một bối cảnh mới. Sự nghiệp “giải phóng miền Nam” đã hoàn tất, Việt Nam phải chuyển sang chiến lược lớn mới. Mục tiêu của sự nghiệp mới là “xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước”, mà một nội dung chính là đưa Việt Nam tiến kịp các nước phát triển về kinh tế. Lãnh đạo Việt Nam lúc đó tin tưởng rằng với vị thế rất cao trên trường quốc tế sau khi đã chiến thắng siêu cường số 1 thế giới, Việt Nam hoàn toàn có thể tranh thủ được nguồn lực của cả hai phe, của Liên Xô (vì Việt Nam đã có thành tích thắng Mỹ) cũng như của Mỹ (vì Mỹ đã hứa viện trợ nhiều tỉ đô la bồi thường chiến tranh), để thực hiện mục tiêu này. Song tính toán của Việt Nam hoàn toàn dựa trên sự hiểu sai thế giới bên ngoài, nhất là hiểu sai các nước lớn có ảnh hưởng quyết định đến số phận của Việt Nam là Mỹ, Trung Quốc cũng như Liên Xô. Không như Việt Nam nghĩ, Liên Xô mạnh tay giúp Việt Nam phần nhiều vì Việt Nam đứng trên tuyến đầu chống kẻ thù chiến lược của Liên Xô chứ không hẳn vì Việt Nam xây dựng chủ nghĩa xã hội cho bản thân. Bởi vậy, sau khi chiến tranh kết thúc, Liên Xô cùng các nước xã hội chủ nghĩa khác đã cắt giảm mạnh viện trợ cho Việt Nam, thay vì tiếp tục cho không để Việt Nam xây dựng chủ nghĩa xã hội. Khác với tin tưởng của Việt Nam, Mỹ chỉ giận chứ không sợ Việt Nam sau khi thua cuộc chiến. Do đó, Washington nhất định không chấp nhận lấy việc Mỹ viện trợ (Hà Nội đòi 3,2 tỉ đô la) làm điều kiện để bình thường hóa quan hệ. Đối với Trung Quốc, Việt Nam cho rằng cái uy chiến thắng siêu cường Mỹ sẽ khiến người láng giềng phương bắc phải nể. Nhưng sự mạnh lên của Việt Nam lại khiến Bắc Kinh coi Hà Nội như một đối thủ cần ngăn chặn. Do đó, Trung Quốc đã kết liên chiến lược với Campuchia để gây sức ép với Hà Nội từ phía nam.

Năm 1978, Trung Quốc đi vào một khúc quanh lịch sử. Đặng Tiểu Bình trở lại chính quyền – lần này không còn Mao Trạch Đông ngồi trên nữa vì ông đã chết từ 1976 – phát động một đại chiến lược mới. Vẫn hoài bão cũ: đưa Trung Quốc trở thành đại cường quốc thế giới, nhưng nhiệm vụ mới: “4 hiện đại hóa”, và phương thức thực hiện mới: tranh thủ sự cộng tác của phương Tây, đặc biệt là Mỹ. Trung Quốc từ bỏ quan điểm đấu tranh giai cấp trong quan hệ quốc tế, phấn đấu làm đồng minh chiến lược của Hoa Kỳ. Mô hình “3 thế giới” trong đó Trung Quốc có sứ mệnh lãnh đạo “thế giới thứ ba” (các nước đang phát triển), liên kết với “thế giới thứ hai” (các nước công nghiệp phát triển nhưng không phải siêu cường), để lật đổ sự thống trị của “thế giới thứ nhất” (gồm hai siêu cường Mỹ và Liên Xô), không còn giá trị. Thay vào đó là lợi ích dân tộc thuần túy và tư duy thực dụng: Trung Quốc phải tranh thủ được nước mạnh nhất thế giới về năng lực kinh tế, khoa học và quân sự, bất kể nước đó “màu gì” (Đặng: “Mèo trắng mèo đen không quan trọng, miễn là bắt được chuột”).

Các sự kiện có tính bước ngoặt trong hai năm 1977-78: Sự đổ vỡ trong quan hệ Việt-Trung, Mỹ cự tuyệt quan hệ ngoại giao với Việt Nam, Việt Nam gia nhập khối kinh tế của Liên Xô (Hội đồng Tương trợ Kinh tế) và ký liên minh phòng thủ (Hiệp ước Hòa bình, Hữu nghị và Hợp tác) với Liên Xô và các nước trong khối Vácsava, Campuchia gây hấn biên giới tây nam Việt Nam và Việt Nam đưa quân vào thay đổi chính phủ của Campuchia, diễn ra như là kết quả của sự đan xen đại chiến lược giữa các nước liên hệ, tiếp theo một chuỗi các sự kiện đã khởi sự từ cuối những năm 60, đầu những năm 70. Cuối năm 1978, Trung Quốc lập quan hệ ngoại giao với Mỹ, đầu năm 1979 đưa quân đánh Việt Nam trên toàn tuyến biến giới phía bắc, Việt Nam bị cả thế giới ngoài các nước thân Liên Xô tẩy chay. Việt Nam buộc phải chuyển sang một chiến lược lớn khác.

Liệu lịch sử có thể khác đi được không? Chẳng hạn như nếu sau năm 1975, Việt Nam không giải tán Cộng hòa miền Nam Việt Nam, hoặc thực hiện “một nước, hai chế độ”, không cải tạo công thương ở miền Nam, không nghiêng về một nước lớn nào mà tìm cách cân bằng ảnh hưởng của cả ba cường quốc Liên Xô, Trung Quốc, Hoa Kỳ, cố gắng tranh thủ nguồn lực của tư bản trong nước cũng như quốc tế, giữ thể diện cho Mỹ (như cha ông đã từng làm với Trung Quốc sau khi thắng họ) để bình thường hóa quan hệ và tranh thủ nguồn lực của Mỹ. Như Trần Quang Cơ (2001/2003) nhận định, trong các năm 1977-78, “ta đã bỏ lỡ mất cơ hội củng cố thế đứng của Việt Nam trong hòa bình để tập trung phát triển đất nước sau bao năm chiến tranh, lỡ cơ hội san bằng khoảng cách với các nước cùng khu vực” (tr. 6). Theo ông, Việt Nam đã có 4 sai lầm lớn là 1) không duy trì quan hệ cân bằng với Trung Quốc và Liên Xô, 2) quá cứng nhắc bắt Mỹ phải viện trợ, bỏ lỡ cơ hội bình thường hóa quan hệ với Mỹ năm 1977, 3) không gia nhập khối ASEAN từ 1976 khi cả 6 nước này đều muốn Việt Nam tham gia, 4) dính líu quá sâu và quá lâu vào Campuchia (tr. 7). Liệu những “sai lầm” này có phải là tất yếu không và nếu chúng không xảy ra thì tình hình có khác đi cơ bản hay không? Khó có thể trả lời những chữ “nếu” khi lịch sử đã là lịch sử. Song có thể thấy để chuyển lịch sử đi theo hướng khác đòi hỏi rất nhiều nỗ lực. Trước hết, những “sai lầm” nói trên dường như là kết quả của một sự “cộng hưởng chiến lược” làm cho cơ hội khác đi của lịch sử càng ngày càng thu hẹp. Sự cự tuyệt và thái độ thù địch của Mỹ đối với miền Nam Việt Nam sau 30/4/1975 càng làm cho Hà Nội thấy không cần thiết phải để Cộng hòa miền Nam Việt Nam tiếp tục tồn tại. Ngược lại, việc Việt Nam khăng khăng bắt Mỹ phải viện trợ làm điều kiện cho bình thường hóa đã góp phần thu hẹp cơ hội này, khiến Ngoại trưởng Cyrus Vance không còn con bài nào để chơi, và khi mà Cố vấn an ninh quốc gia Zbigniew Brzezinski đã bắt tay được với Trung Quốc thì sau đó Việt Nam đã trở thành một thứ “con tin” trong quan hệ Mỹ-Trung (Tác giả cảm ơn người thẩm định của Thời Đại Mới đã chỉ ra điểm này; bạn đọc có thể xem Chanda (1986) để tìm hiểu kỹ hơn giai đoạn lịch sử bước ngoặt 1975-78). Thứ hai, nếu Việt Nam đi tìm một vị trí cân bằng giữa ba nước lớn, nhiều khả năng là các nước sẽ áp dụng cho Việt Nam một công thức như kiểu Nam Tư. Song, sau một chiến thắng vĩ đại như năm 1975, hình ảnh một “Nam Tư phương Đông” khó lòng hấp dẫn bằng hình ảnh ”tiền đồn phe xã hội chủ nghĩa ở Đông Nam Á” và “mũi nhọn phong trào giải phóng dân tộc trên toàn thế giới”.

Các sự kiện năm 1978-79 đã xô đẩy Việt Nam vào một đại chiến lược mới. Phải can dự vào Campuchia, bị chiến tranh với Trung Quốc và bị phần lớn thế giới cô lập, Việt Nam buộc phải tìm kiếm cho mình một bảo đảm an ninh bằng cách lập vành đai an toàn ở Đông Dương, kết giao chặt chẽ và toàn diện với Liên Xô. Bởi thế, trong những năm 1980, quan hệ với Liên Xô trở thành “hòn đá tảng trong chính sách đối ngoại” của Việt Nam, quan hệ với Lào và Campuchia trở thành “mối quan hệ đặc biệt”, thành “liên minh chiến lược ba nước Đông Dương”. Lần đầu tiên trong lịch sử, Việt Nam liên minh với một nước lớn khác để chống lại Trung Quốc. Cũng vậy, khu vực ảnh hưởng của Việt Nam ở Đông Dương trong giai đoạn này rộng hơn bất cứ thời kỳ nào khác trong lịch sử.

Các diễn biến của quan hệ Việt-Trung trong thời hiện đại cũng phơi bày khoảng cách lớn giữa mặt “hình thức” và mặt “thực chất” của quan hệ giữa hai nước. Về hình thức, hai nước đều thừa nhận trật tự thế giới kiểu Westphalia (mỗi quốc gia có chủ quyền như nhau) và kiểu Zhdanov (thế giới gồm hai phe: xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa). Nhưng thực chất, hành xử của Việt-Trung lại theo những lôgíc hoàn toàn khác. Không phải “Westphalia” mà là “thiên triều”: Trung Quốc đánh Việt Nam mà không cần bị tấn công trước để “dạy cho Việt Nam một bài học”. (Mỹ 1964 theo “Westphalia”: phải có sự kiện vịnh Bắc Bộ mới có cớ đưa quân vào Việt Nam). Không phải “phe xã hội chủ nghĩa một bên, phe tư bản chủ nghĩa một bên” mà là “chính trị thực tế” (Realpolitik – chính sách đối ngoại dựa trên thực tế tranh giành quyền lực, không dựa trên tiêu chuẩn đạo đức và ý thức hệ) và “cân bằng quyền lực”: Campuchia (xã hội chủ nghĩa) đánh Việt Nam (xã hội chủ nghĩa), Việt Nam đánh Campuchia, Trung Quốc (xã hội chủ nghĩa) đánh Việt Nam, Mỹ (tư bản chủ nghĩa) liên minh với Trung Quốc, Thái Lan (tư bản chủ nghĩa) làm hậu phương cho Khmer Đỏ.

Xung đột nhỏ lồng trong xung đột lớn, tất cả chịu sự chi phối của quan hệ giữa các nước lớn. Quan hệ Việt-Trung rơi vào một bối cảnh mới khi chiến lược của một nước lớn trong tam giác Mỹ-Trung-Xô thay đổi. Điều này đã xảy ra sau khi Nixon lên cầm quyền ở Mỹ (1968), khi Đặng Tiểu Bình lên cầm quyền ở Trung Quốc (1978), và một lần nữa xảy ra sau khi Gorbachov lên cầm quyền ở Liên Xô (1985). Gorbachev thực hiện một phương thức đại chiến lược mới. Vẫn nhắm mục tiêu giữ vững vị trí siêu cường của Liên Xô nhưng bằng cách cải tổ kinh tế (perestroika), minh bạch hóa nền chính trị (glasnost), hòa dịu với phương Tây và Trung Quốc. Ông định thông qua chính sách đối ngoại mới để 1) giảm áp lực đe dọa quân sự từ Mỹ và Trung Quốc, 2) nhận được vốn và công nghệ của phương Tây, nhằm vực dậy nền kinh tế kém hiệu năng của Liên Xô. Không rõ có phải do đánh giá đúng ý đồ của đối thủ hay không mà Trung Quốc đặt ba điều kiện tiên quyết để bình thường hóa quan hệ Xô-Trung là Liên Xô phải rút quân khỏi Afghanistan, chấm dứt ủng hộ Việt Nam can thiệp vào Campuchia, giảm quân dọc biên giới Xô-Trung. Sự cứng rắn của Đặng Tiểu Bình cuối cùng đã buộc Gorbachov nhượng bộ cả ba điều kiện. Lợi dụng xu hướng Liên Xô bỏ rơi Việt Nam để tập trung vào các vấn nạn trong nước, tạo ra khoảng trống quyền lực ở khu vực Biển Đông, đầu năm 1988, Trung Quốc tiến xuống cắm chốt trên quần đảo Trường Sa, nơi trước nay họ chưa hiện diện thường xuyên về quân sự. Trong chiến dịch này, Trung Quốc chọn mỗi vùng một vị trí chiến lược để đổ bộ: đá Chữ Thập ở rìa phía tây, đá Subi ở mỏm phía bắc, đá Châu Viên ở dải phía nam, và ở cụm trung tâm là các đá Gaven, Kennan và Gạc Ma. Tại Gạc Ma đã xảy ra đụng độ với Việt Nam sáng ngày 14/3/1988, kết quả Trung Quốc chiếm được đảo này và Việt Nam mất ba tàu chiến cùng hơn 70 thủy thủ.

 

Hai đại chiến lược, hai thế giới quan

 

Sự thay đổi đại chiến lược của Liên Xô cộng với tình hình bản thân của Việt Nam (kinh tế suy sụp, chiến tranh ở Campuchia trở thành gánh nặng) cũng buộc Việt Nam phải tìm hướng đi mới. Tháng 5/1988, Bộ Chính trị ra Nghị quyết 13 điều chỉnh chiến lược từ “hợp tác toàn diện với Liên Xô” sang “đa dạng hóa, đa phương hóa”. Nghị quyết này là tác phẩm của Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch, thể hiện bước ngoặt quan trọng trong tư duy đối ngoại cũng như đánh dấu bước chuyển lớn trong chính sách quốc tế của Việt Nam. Giống như Nghị quyết 9 năm 1963, Nghị quyết 13 không được đưa ra công khai, chỉ từ nửa sau thập niên 90 mới được nhắc đến như văn kiện mở màn chính sách đối ngoại “đa dạng hóa, đa phương hóa” mà Đại hội đảng 7 (1991) đã thông qua. Cơ sở lý luận của Nghị quyết 13 là một viễn tượng thế giới hoàn toàn khác với những gì Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn mường tượng từ năm 1948, thậm chí từ 1930. Trong tinh thần “đổi mới tư duy”, kể cả tư duy đối ngoại, Phan Doãn Nam, cánh tay phải của Nguyễn Cơ Thạch về lý luận, viết bài “Một vài suy nghĩ về đổi mới tư duy đối ngoại” đăng trên Tạp chí Cộng sản tháng 2/1988 như một bước chuẩn bị cho Nghị quyết 13. Bài báo chỉ trích mô hình “hai phe, bốn mâu thuẫn”, nền tảng thế giới quan của chính sách đối ngoại Việt Nam từ 1948, là giáo điều, không đúng với thực tế. Thay vào đó, bài báo đề xuất coi thế giới ngày nay đầy dẫy các mâu thuẫn phức tạp với đặc điểm nổi bật là sự “tùy thuộc lẫn nhau” giữa các quốc gia bất kể chế độ chính trị-xã hội, một quan điểm vay mượn từ “tư duy mới” của Liên Xô. Theo bài báo, chính sự tùy thuộc lẫn nhau đã làm thay đổi bản chất của chủ nghĩa tư bản và thay đổi mục tiêu của chủ nghĩa đế quốc. Không nói ra, nhưng tư tưởng này đã ngầm bác bỏ quan điểm “chủ nghĩa đế quốc, giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản” của Lênin (chủ nghĩa tư bản trong giai đoạn phát triển tột cùng của nó sẽ dẫn đến hình thức tư bản độc quyền, dẫn đến chủ nghĩa đế quốc, là nguồn gốc của chiến tranh thế giới, cách mạng vô sản là con đường duy nhất bảo vệ hòa bình thế giới), học thuyết nền tảng cho chính sách đối ngoại của các nước xã hội chủ nghĩa từ xưa đến nay.

Mặc dù Nghị quyết 13 với đường lối “đa dạng hóa, đa phương hóa” được thông qua nhưng cơ sở lý luận của nó không được hoàn toàn chấp nhận. Lý do là trong những vấn đề lý luận có tính nền tảng, lãnh đạo Việt Nam quyết định trên cơ sở hoàn toàn nhất trí. Chỉ cần “một số đồng chí” không thông thì vẫn phải gác lại bàn sau (Porter 1990: 13). Kết quả là “tư duy mới” và “tư duy cũ” cùng nhau tồn tại song song như một kiểu “tam giáo đồng nguyên” (so sánh của Vũ Quang Việt).

Một lý do nữa cho sự củng cố trở lại của thế giới quan “hai phe, bốn mâu thuẫn” là ảnh hưởng của các sự kiện ở Đông Âu năm 1989 vào Việt Nam. Sự tan rã của chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu đã dẫn đến tranh cãi gay gắt trong giới lãnh đạo Việt Nam. Một bên, trong đó có Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, khẳng định nguyên nhân chủ yếu là do “mưu đồ của chủ nghĩa đế quốc hòng tiêu diệt chủ nghĩa xã hội”. Bên kia, trong đó có Nguyễn Cơ Thạch, cho rằng nguồn gốc sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu là sự quản lý yếu kém và tư tưởng giáo điều gắn với một mô hình chủ nghĩa xã hội sai lầm. Phát biểu tại Hội nghị trung ương 7 khóa 6 (tháng 8/1989), Nguyễn Văn Linh nói sự bác bỏ quan điểm “hai phe, bốn mâu thuẫn” đã khiến một số người lầm tưởng rằng chủ nghĩa đế quốc đã thay đổi bản chất. Câu nói ám chỉ Nguyễn Cơ Thạch và đồng chí. Mâu thuẫn về thế giới quan giữa hai bên được Nguyễn Văn Linh chốt lại: “Chừng nào chủ nghĩa đế quốc còn tồn tại, chừng nào chủ nghĩa xã hội chưa thắng lợi trên phạm vi toàn thế giới, thì chừng đó học thuyết của chủ nghĩa Lênin vẫn giữ nguyên giá trị của nó” (“Phát biểu của đồng chí Nguyễn Văn Linh. Bế mạc Hội nghị 7 của Ban chấp hành Trung ương Đảng”, Tạp chí Cộng sản, 9/1989, tr. 6). Tuy nhiên, không bên nào áp đảo được bên nào nên tại Hội nghị trung ương 8, tháng 11/1989, giải pháp “hòa cả làng” được áp dụng. Nghị quyết của Hội nghị một mặt chỉ ra nguyên nhân của sự sụp đổ chế độ ở Đông Âu là “những sai lầm chủ quan, duy ý chí” của lãnh đạo các nước đó, mặt khác khẳng định “chủ nghĩa đế quốc đã lợi dụng những khó khăn bên trong của chủ nghĩa xã hội để thực hiện các mưu đồ chống cộng của chúng”.

Hai năm 1988-89 là thời gian bản lề cho chính sách đối ngoại của Việt Nam suốt những năm sau. Thời gian này hình thành thế “hai chân” trong tư duy đối ngoại của Việt Nam. Chính sách đối ngoại của Việt Nam trong thời hậu Chiến tranh Lạnh dựa trên hai đại chiến lược khác nhau. Sở dĩ là hai mà không phải là một vì chúng mang hai ý đồ khác nhau và dựa trên hai quan điểm trái ngược nhau về thế giới.

Chiến lược lớn thứ nhất dựa trên thế giới quan Mác-Lê, nhìn thế giới qua lăng kính “2 phe, 4 mâu thuẫn”, coi mâu thuẫn giữa “chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa đế quốc/tư bản” là mâu thuẫn cơ bản nhất, đấu tranh giai cấp giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa đế quốc/tư bản là động lực cơ bản cho vận động chính trị toàn cầu. Bước vào thời kỳ sau Chiến tranh Lạnh, sự sụp đổ của Liên Xô đặt ra cho Việt Nam một yêu cầu mới. Từ góc nhìn của thế giới quan Mác-Lê, mục tiêu lớn của Việt Nam được xác định là phải bảo vệ chủ nghĩa xã hội thế giới, Việt Nam phải coi Trung Quốc là đồng minh chiến lược, Mỹ là kẻ thù chiến lược, phải đặt trọng điểm an ninh quốc gia vào chống “diễn biến hòa bình”. Chiến lược lớn này lấy “chống đế quốc, bảo vệ chủ nghĩa xã hội” làm mục tiêu lâu dài và cơ bản. (Xem thêm các chương 9, 10 và 14 trong hồi ký của Trần Quang Cơ (2001/2003) về quan điểm chiến lược theo hướng này của Nguyễn Văn Linh và Lê Đức Anh).

Chiến lược lớn thứ hai dựa trên thế giới quan mới được hình thành trong thời kỳ “đổi mới tư duy” cuối những năm 80. Thế giới quan này gồm hai chiều: kinh tế và chính trị. Về kinh tế, nó coi thế giới như một thị trường thống nhất, liên thuộc vào nhau, vận động theo xu hướng toàn cầu hóa và khu vực hóa. Các nước muốn sống còn không có cách nào khác là phải tham gia vào “phân công lao động quốc tế mới”, phải hội nhập vào nền kinh tế thế giới và hội nhập khu vực. Về chính trị, mâu thuẫn cơ bản được coi là mâu thuẫn giữa các quốc gia-dân tộc, cục diện thế giới về cơ bản được xem là chịu sự chi phối của mối tương quan giữa các “nước lớn”. Chiến lược của Việt Nam trong tình hình mới (các nước lớn hòa hoãn, chuyển sang chạy đua kinh tế, xu thế toàn cầu hóa và hội nhập khu vực gia tăng) là phải “hội nhập” mạnh mẽ vào thế giới và khu vực, đặc biệt tranh thủ nguồn lực của các trung tâm tài chính-công nghệ thế giới (Mỹ, Nhật Bản, Tây Âu), thực hiện ngoại giao đa phương, tạo thế cân bằng trong quan hệ với các nước lớn, đặc biệt là Mỹ và Trung Quốc. Trọng điểm an ninh quốc gia, theo chiến lược lớn thứ hai, là chống “tụt hậu”. Chiến lược lớn này lấy “phát triển, hiện đại hóa” làm mục tiêu lâu dài và cơ bản. (Xem thêm cuốn sách của Nguyễn Cơ Thạch (1998) và thư gửi Bộ chính trị của Võ Văn Kiệt (1995) về quan điểm chiến lược theo hướng này).

Một câu hỏi đặt ra là tại sao ở Trung Quốc các mục tiêu phát triển, hiện đại hóa, cũng như chống đế quốc (TQ dùng từ “bá quyền”), bảo vệ chủ nghĩa xã hội cùng nằm trong một đại chiến lược mà ở Việt Nam lại là hai? Mấu chốt nằm ở chỗ Trung Quốc không chống đế quốc theo định nghĩa của Lênin (đế quốc đồng nghĩa với tư bản) mà chống bất cứ nước nào có mưu đồ bá quyền trên thế giới cũng như ở châu Á (Trung Quốc từng gọi Liên Xô là “đế quốc xã hội”), và Trung Quốc chỉ bảo vệ chủ nghĩa xã hội ở Trung Quốc chứ không bảo vệ chủ nghĩa xã hội trên thế giới như Việt Nam (lời Đại sứ Trung Quốc nói với Vụ trưởng Vụ Trung Quốc Bộ Ngoại giao Việt Nam ngày 27/7/1990, xem hồi ký Trần Quang Cơ, tr. 19). Như vậy tuy nhìn bề ngoài thì mục tiêu của Trung Quốc và Việt Nam có vẻ không khác nhau là mấy nhưng về nội dung thì khác nhau cơ bản vì dựa trên hai thế giới quan khác hẳn nhau. Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Võ Chí Công đã chỉ ra điều này tại cuộc họp Bộ Chính trị ngày 19/6/1990: “Trung Quốc lấy lợi ích dân tộc của họ là chính, không phải theo lợi ích chung của chủ nghĩa xã hội. Họ khác ta. Dù ta có muốn hợp tác họ cũng không chịu đâu. Không nên ảo tưởng” (Trần Quang Cơ 2003: 43). Điều có vẻ nghịch lý là chiến lược “phát triển, hiện đại hóa” (không chủ trương liên minh chiến lược với Trung Quốc) dựa trên một thế giới quan giống với của Trung Quốc, trong khi chiến lược “chống đế quốc, bảo vệ chủ nghĩa xã hội” (chủ trương liên minh chiến lược với Trung Quốc) lại có một thế giới quan khác hẳn của Trung Quốc.

Trong những năm 90, một sự “phân công lao động” giữa hai chiến lược lớn đối ngoại đã được dàn xếp. Sự phân công này thể hiện rõ trong cơ cấu và cơ chế lãnh đạo sau Đại hội Đảng 7. Chủ tịch nước Lê Đức Anh, đại diện chiến lược “chống đế quốc, bảo vệ chủ nghĩa xã hội”, phụ trách khối ngoại giao-quốc phòng-an ninh. Thủ tướng Võ Văn Kiệt, đại diện cho chiến lược “phát triển, hiện đại hóa”, phụ trách mảng kinh tế. Tổng bí thư Đỗ Mười đóng vai trò dàn xếp giữa hai chiến lược, là người quyết định cuối cùng.

Hai nhà lãnh đạo cao cấp thúc đẩy đường lối “phát triển” và đại diện cho thế giới quan và quan điểm chiến lược này là Nguyễn Cơ Thạch (Ngoại trưởng 1980-1991) và Võ Văn Kiệt (Thủ tướng 1991-1996). Những người kiên quyết giữ vững thế giới quan Mác-Lê và chủ trương đường lối chiến lược tương ứng là Nguyễn Văn Linh (Tổng bí thư 1986-1991), Lê Đức Anh (Chủ tịch nước 1991-1996), Đào Duy Tùng (Thường trực Ban Bí thư 1991-1996), Nguyễn Đức Bình (lý thuyết gia trưởng của Đảng 1991-1996), Lê Khả Phiêu (Tổng bí thư 1997-2001). Như vậy, mặc dù chính sách ngoại giao “đa dạng hóa, đa phương hóa” được các kỳ Đại hội Đảng liên tục khẳng định tính chính thống, quan điểm “hai phe, bốn mâu thuẫn” vẫn ở thế thượng phong. Thế thượng phong của đại chiến lược “chống đế quốc, bảo vệ chủ nghĩa xã hội” có phần do cú sốc tâm lý bởi các “sự kiện định hướng” của các năm 1989-90-91. Đó là sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu, các đảng “bạn” mất chính quyền ở hàng loạt nước, sự tan rã của Liên Xô.

Suy nghĩ thông thường cho rằng các sự kiện này khiến cho Việt Nam mất đi nguồn viện trợ lớn, thị trường truyền thống và chỗ dựa chính về ngoại giao. Thật ra, các sự kiện Đông Âu năm 1989-90 không có mấy ảnh hưởng “khách quan” lên nền kinh tế Việt Nam mà phần nhiều là ảnh hưởng “chủ quan” lên tâm lý người lãnh đạo. Số liệu thống kê cho thấy năm 1989, Việt Nam đã bắt đầu xuất khẩu dầu thô và gạo ở mức độ đáng kể. Năm 1989 xuất khẩu 1,4 triệu tấn gạo, trong khi chỉ 3 năm trước (1986) lượng gạo xuất khẩu là 0,158 triệu tấn. Cũng ngay trong năm 1989, giá trị xuất khẩu sang khu vực ngoại tệ chuyển đổi (các nước tư bản) tăng vọt lên 1,139 tỉ đô la từ con số 350 triệu đô la của năm 1988. Trong khi năm 1988, xuất khẩu sang khu vực ngoại tệ không chuyển đổi (các nước xã hội chủ nghĩa) còn chiếm 55,6 % tổng giá trị xuất khẩu thì năm 1989, xuất khẩu sang các nước tư bản đã chiếm 58,5% tổng giá trị xuất khẩu. Năm 1991, tuy xuất khẩu sang thị trường các nước xã hội chủ nghĩa sụt hẳn xuống còn 80 triệu rúp từ con số 1,1 tỉ rúp của năm trước, nhưng xuất khẩu sang các nước tư bản cũng tăng mạnh lên gần 1,9 tỉ đô la, khiến tổng giá trị xuất khẩu năm 1991 tuy thấp hơn năm 1990 nhưng vẫn cao hơn năm 1989 (Các số liệu trên theo Tổng cục Thống kê, Số liệu thống kê Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 1986-1991. Hà Nội: Nxb Thống kê, 1992, tr. 93-94). Do sự chuyển hướng chiến lược trong các năm 1987-88 cho nên ngay trong thời gian xảy ra các sự biến ở Đông Âu và Liên Xô (1989-91), Việt Nam đã tạo được xu thế hội nhập vào nền kinh tế thế giới và khu vực, tạo được chỗ bám vào thị trường thế giới. Vốn đầu tư nước ngoài (đăng ký) tăng từ 371 triệu đô la năm 1988 lên 582 triệu năm 1989, 839 triệu năm 1990 và 1,322 tỉ năm 1991. Xuất khẩu sang các nước tư bản tăng từ 448 triệu đô la năm 1988 lên 1,138 tỉ năm 1989, 1,352 tỉ năm 1990, và 2,010 tỉ năm 1991. Nhập khẩu từ các nước tư bản cũng tăng từ 804 triệu đô la năm 1988 lên 879 triệu năm 1989, 1,372 tỉ năm 1990, và 2,049 tỉ năm 1991. Như vậy ngay trong năm 1991, tức là trước khi Liên Xô sụp đổ, Việt Nam đã thu được ở thị trường các nước tư bản khoảng 2 tỉ đô la tiền xuất khẩu, gấp đôi số tiền thu được từ bán hàng sang các nước xã hội chủ nghĩa vào thời điểm đỉnh cao trước đây (1,1 tỉ rúp năm 1990). Mặt khác, nếu viện trợ kinh tế và vay nợ từ các nước xã hội chủ nghĩa (ước khoảng 1-2 tỉ đô la một năm trong những năm 80) mất đi thì Việt Nam lại được bù đắp một khoản tương ứng từ đầu tư trực tiếp của nước ngoài cũng như các khoản viện trợ và cho vay từ các nước tư bản. Năm 1991 Việt Nam nhận được 1,079 tỉ đô la cho vay và 526 triệu viện trợ từ nước ngoài. Ngoài ra còn có hơn 1,3 tỉ đô la đầu tư trực tiếp của nước ngoài được cam kết. (Các số liệu trên theo Tổng cục Thống kê, Niên giám thống kê 1995. Hà Nội: Nxb Thống kê, 1996, tr. 51, 64, 253; các số liệu thống kê chỉ có tính tương đối, lưu ý sự khác nhau giữa TCTK 1992 và TCTK 1996 về giá trị xuất khẩu sang khu vực ngoại tệ chuyển đổi năm 1991). Tóm lại, không thể nói sự tan rã của Liên Xô và khối xã hội chủ nghĩa đã tác hại nặng nề lên nền kinh tế Việt Nam.

Ngược lại, sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở một loạt nước liên tiếp đã gây phản ứng tâm lý mạnh trong đông đảo cán bộ lãnh đạo Việt Nam. Sự sụp đổ của khối xã hội chủ nghĩa gây ra hụt hẫng nghiêm trọng trong hình dung về thế giới của họ. Nhìn thế giới qua lăng kính “2 phe, 4 mâu thuẫn” nhiều người trong số họ lo sợ rằng sau Đông Âu sẽ đến lượt Việt Nam, cảm nhận mối nguy hiểm lớn nhất xuất phát từ Mỹ, coi liên minh giữa các chế độ xã hội chủ nghĩa còn lại là yêu cầu khách quan của tình thế. Yêu cầu chống đế quốc, bảo vệ chủ nghĩa xã hội đối với họ trở nên cấp bách hơn yêu cầu phát triển, hiện đại hóa. Hai yêu cầu này tự chúng không mâu thuẫn với nhau. Song đặt trong hoàn cảnh thực tế, muốn phát triển, hiện đại hóa thì phải cộng tác với các trung tâm kinh tế và khoa học hiện đều do các nước tư bản phương Tây nắm, yêu cầu chống đế quốc, bảo vệ chủ nghĩa xã hội trở nên mâu thuẫn với yêu cầu phát triển, hiện đại hóa.

Do người lãnh đạo cao nhất trong thời kỳ 1990-91 nhiệt tâm theo đuổi mục tiêu đại chiến lược bảo vệ chủ nghĩa xã hội trong cuộc đấu tranh toàn cầu với chủ nghĩa tư bản/đế quốc, mặc dù Bộ Chính trị bất đồng về đánh giá tình hình quốc tế cũng như phương hướng đối ngoại, động cơ đại chiến lược này đã chi phối Việt Nam trong quá trình “bình thường hóa” quan hệ với Trung Quốc cũng như trong việc tìm giải pháp cho vấn đề Campuchia. Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh nói trong cuộc họp Bộ Chính trị ngày 10/4/1990: “Việt Nam và Trung Quốc là hai nước xã hội chủ nghĩa cùng chống âm mưu đế quốc xóa bỏ chủ nghĩa xã hội, phải cùng chống đế quốc. Trước hết phải phát triển quan hệ giữa hai nước, các vấn đề khác giải quyết sau … Một Campuchia thân thiện với Trung Quốc, thân thiện với Việt Nam là tốt nhất. Trên cơ sở điểm đồng này mà giải quyết vấn đề Campuchia có lợi cho Campuchia … Không để Liên Hợp Quốc nhúng tay vào vì Liên Hợp Quốc là Mỹ, Thái Lan là Mỹ” (Trần Quang Cơ 2003: 33).

Cùng một chủ trương bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, nhưng mỗi đại chiến lược có một động cơ khác nhau. Chiến lược lớn thứ nhất xuất phát từ động cơ “đoàn kết với Trung Quốc bảo vệ chủ nghĩa xã hội, chống đế quốc”. Chiến lược lớn thứ hai xuất phát từ động cơ “đa phương hóa quan hệ, phá thế bị bao vây”. Quá trình bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc trong các năm 1990-91, về lý thì là “thực hiện Nghị quyết 13 Bộ Chính trị” nhưng thực chất không phải nhằm đa phương hóa, tạo thế cân bằng giữa các nước lớn, như tinh thần của những người dự thảo Nghị quyết 13, mà động cơ thực sự, như Bộ trưởng Quốc phòng Lê Đức Anh giải thích cho lãnh đạo Campuchia về cuộc gặp cấp cao Việt-Trung ở Thành Đô, là: ”Mỹ và phương Tây muốn cơ hội này để xóa cộng sản. Nó đang xóa ở Đông Âu. Nó tuyên bố là xóa cộng sản trên toàn thế giới. Rõ ràng nó là kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm. Ta phải tìm đồng minh. Đồng minh này là Trung Quốc” (Trần Quang Cơ 2003: 51).

Mặc dù Trung Quốc nhiều lần nói thẳng với Việt Nam là họ không chấp nhận “giải pháp đỏ” ở Campuchia cũng như không thể bắt tay với Việt Nam theo kiểu hai nước xã hội chủ nghĩa liên minh lại chống Mỹ, và mặc dù trong Bộ Chính trị cũng đã có nhiều ý kiến rằng đại chiến lược của Trung Quốc là tranh thủ Mỹ và phương Tây để thực hiện “bốn hiện đại hóa”, do đó không thể liên minh chiến lược với Việt Nam, song các lãnh đạo cao nhất của Việt Nam vẫn hy vọng một ngày kia Trung Quốc sẽ “hiểu ra” mà bắt tay với Việt Nam chống Mỹ (Trần Quang Cơ 2001/2003). Trong cuộc gặp cấp cao Việt-Trung 5-10/11/1991 hoàn tất việc bình thường hóa quan hệ, Việt Nam lại đề nghị Trung Quốc “đoàn kết bảo vệ chủ nghĩa xã hội chống đế quốc”, song Trung Quốc đã khẳng định hai bên là “đồng chí, không là đồng minh” (Thayer 1994). Cho đến tận cuối những năm 1990, Tổng bí thư Lê Khả Phiêu vẫn tiếp tục đề nghị Trung Quốc kết đồng minh bảo vệ chủ nghĩa xã hội và một lần nữa lại bị bác bỏ (N.S.P., “Thư Hà Nội”, Diễn Đàn, số 104, tháng 2/2001).

Vậy tại sao vẫn kéo dài tình trạng “lưỡng giáo đồng nguyên” mà không hợp được hai mục tiêu vào làm một, chẳng hạn như mô hình Trung Quốc? Có thể do nhiều nguyên nhân tác động rất phức tạp với nhau. Cũng có thể vì những lý do rất giản dị như thói quen, nếp nghĩ, niềm tin của một số người rất có thế lực v.v. Bài viết này chỉ nêu một giả thuyết có tính gợi ý. Thứ nhất, như trên đã phân tích, mục tiêu bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và chống bá quyền của Trung Quốc khác mục tiêu bảo vệ chủ nghĩa xã hội, chống đế quốc của Việt Nam về nội dung nên không thể lấy Trung Quốc làm gương. Mặt khác nếu hai đại chiến lược khác nhau cả về mục tiêu phấn đấu lẫn thế giới quan làm nền tảng thì không còn điểm chung nào để có thể hòa vào làm một. Thứ hai, vì cả hai đại chiến lược của Việt Nam sau Chiến tranh Lạnh đều không tới, đều bất cập, nhưng mỗi cái cũng lại có điểm mạnh riêng, và điểm mạnh của chiến lược này lại là điểm yếu của chiến lược kia, cho nên cả hai đứng riêng bổ xung cho nhau thì dễ mà cái này đồng hóa cái kia thì khó, và cũng chưa tìm ra được cái nào khác thay thế, cho nên cứ nhùng nhằng “lưỡng giáo đồng nguyên”.

Đại chiến lược chống đế quốc, bảo vệ chủ nghĩa xã hội nhấn mạnh Việt-Trung cùng phe chống Mỹ, cũng như khi xưa, cả hai cùng là “văn minh” chống lại “man di”, thì nay, cùng “xã hội chủ nghĩa” (hiểu: tiến bộ) chống “tư bản đế quốc” (hiểu: phản động). Như vậy là hợp với yêu cầu của bài toán chống đế quốc, bảo vệ chủ nghĩa xã hội đòi hỏi phải liên minh với cường quốc xã hội chủ nghĩa lớn nhất. Nhưng không gặp thời cơ vì muộn nhất là từ 1978, Trung Quốc đã không còn coi Việt Nam cùng phe, đồng thời luôn đặt yêu cầu hợp tác với Mỹ lên trên yêu cầu chống Mỹ. Vì thế điểm mấu chốt của chiến lược này không thực thi được.

Đại chiến lược phát triển, hiện đại hóa nhấn mạnh hội nhập, hợp tác với phương Tây, giữ thế cân bằng giữa các cường quốc. Như vậy là hợp với yêu cầu của bài toán phát triển, hiện đại hóa đòi hỏi phải có hòa bình, phải tranh thủ được các nước phát triển nhất. Nhìn chung, chiến lược này là hợp thời vì nó phù hợp với xu hướng hội nhập khu vực và việc tạo thế cân bằng giữa các cường quốc (chủ yếu là giữa Trung Quốc và Mỹ) có thể coi là khả thi trong điều kiện quan hệ các nước lớn đang ở giai đoạn hòa hoãn. Vậy thì điểm yếu của chiến lược “hiện đại hóa” và cũng là điểm mạnh của chiến lược “chống đế quốc” nằm ở đâu? Ở đây thử nêu giả thuyết là chiến lược “bảo vệ chủ nghĩa xã hội” có thể đáp ứng tốt hơn chiến lược “hiện đại hóa” về hai nhu cầu: hãnh diện và an toàn.

Chiến lược “hiện đại hóa” nhận Việt Nam là nước nhỏ, chịu sự chi phối của quan hệ nước lớn, không đóng vai trò gì quan trọng trên trường quốc tế. Nó đề ra mục tiêu phấn đấu là “hóa rồng” như các nước công nghiệp hóa ở Đông Á nhưng không nêu cụ thể hơn. Hóa thành rồng gì? Rồng đầu đàn hay rồng cuối đàn, rồng to hay rồng nhỏ? Nếu chỉ hóa rồng chung chung thì đó mới chỉ là một nửa mong ước của người Việt Nam. Tâm lý Việt Nam thích “ta phải nhất”, không thích làm kẻ “thường thường bậc trung”, càng không thích làm kẻ “vô danh tốt tiểu”. Tuy vẫn quen “luồn lách” nhưng vẫn thích được tiếng là “mũi nhọn”, “tiền đồn”.

Mặt khác, nếu Việt Nam muốn hóa rồng thì phải chọn lựa: 1) hoặc là phải bỏ hệ ý thức vô sản để có thể theo mô hình Đông Á, 2) hoặc vẫn giữ hệ ý thức đó và một mình làm chuyện vô tiền khoáng hậu, 3) hoặc theo sau Trung Quốc, họ đi đâu mình theo đó. Quá trình đổi mới của Việt Nam đã không theo lựa chọn 1. Hiện còn quá sớm để kết luận liệu Việt Nam theo hướng 2 hay hướng 3. Vì nếu đi theo Trung Quốc, Việt Nam rồi cũng sẽ phải từ bỏ ý thức hệ vô sản, phải chấp nhận tư sản, cả trong Hiến pháp lẫn trong Đảng. Có thể Việt Nam còn đang chờ xem, nếu Trung Quốc thành công thì sẽ làm theo. Dù thế nào, việc không chọn hướng 1 mà chọn hướng 2 hoặc 3 có nghĩa rằng nhu cầu an toàn là rất lớn đối với Việt Nam. Thậm chí, trong mắt một số người, hướng thứ ba còn cho sự an toàn kép: cứ để Trung Quốc nghĩ hộ và làm trước, chờ họ thành công mình sẽ làm theo, thêm nữa, bắt chước Trung Quốc sẽ làm Trung Quốc vừa lòng (Điều sau này không hẳn đã đúng). Tuy theo hướng này cũng có rủi ro. Như Tổng bí thư Lê Khả Phiêu có lần nói: “Nếu Trung Quốc thành công, chúng tôi sẽ thành công. Nếu Trung Quốc thất bại, chúng tôi sẽ thất bại” (Nayan Chanda, “Friend of Foe?”, Far Eastern Economic Review, 22/6/2000, tr. 32).

Sau 11/9/2001, thời kỳ chuyển tiếp “hậu Chiến tranh Lạnh” kết thúc, tất cả các nước lớn đều điều chỉnh lại chiến lược của mình. Hay nói đúng hơn, thời kỳ nhì nhằng chiến lược sau CTL đã chấm dứt, các nước lớn đã rõ hơn về đường hướng và mục tiêu đại chiến lược của mình. Liệu Việt Nam có thể đóng vai trò gì trong mô hình trật tự thế giới mới của Mỹ và Trung Quốc? Đây sẽ là một câu hỏi quyết định chính sách đối ngoại của Việt Nam trong tương lai.

 

Kết luận

 

Quan hệ Việt-Trung trong gần 2200 năm lịch sử của nó đã trải qua nhiều thăng trầm biến đổi. Có lúc Việt Nam là quận huyện của Trung Quốc mà cũng có lúc Việt Nam lại thuộc về Pháp, lấn lướt được Trung Hoa. Có lúc Việt Nam chịu thần phục Trung Quốc nhưng có lúc lại liên minh với Liên Xô để đối đầu lại Trung Hoa. Mỗi giai đoạn như vậy, trong nội bộ Việt Nam cũng như Trung Quốc đều có các quan điểm khác nhau. Phía Việt Nam có phe nhấn mạnh điểm đồng và có phe nhấn mạnh điểm dị. Phía Trung Quốc có phái coi Việt Nam như kẻ trong nhưng cũng có phái xem Việt Nam như người ngoài.

Tuy nhiên, xuyên suốt gần 22 thế kỷ, tương quan vị thế giữa Việt và Trung vẫn mang một hằng số. Quan hệ Việt-Trung có thể ví như quan hệ giữa một người và một con chip (micro- processor) gắn vào thân thể người đó:

  • không rời nhau được, nhưng lại

  • không đồng hóa được nhau, nhất là

  • không bao giờ cùng đẳng cấp,

  • và nhiều đặc điểm khác.

Xuyên suốt gần 22 thế kỷ, cái nhìn của Trung Quốc về Việt Nam giống như cái nhìn của một người về con chip gắn vào thân thể người đó. Cái nhìn của Việt Nam về Trung Quốc giống như cái nhìn của con chip về cơ thể mà nó gắn vào.

 

* Cornell University, Ithaca, New York, Mỹ. Tác giả cảm ơn hai người thẩm định của Thời Đại Mới, các anh Cao Huy Thuần, Ngô Vĩnh Long, Keith Taylor, James Anderson và Vũ Hữu Nghị về những phê bình, gợi ý và nhận xét quý báu, đặc biệt cảm ơn anh Vũ Quang Việt đã cung cấp một số tài liệu và ý kiến giá trị cũng như đã khích lệ viết bài này.

 


TÀI LIỆU THAM KHẢO

(một số tác phẩm tiêu biểu về từng đề tài)

 

Về lịch sử Việt Nam Cổ, Trung và Cận đại, các quan hệ kinh tế-xã hội và đối ngoại, xem: Lê Thành Khôi, Le Viêt-Nam: Histoire et civilisation. Paris: Minuit, 1955; Lê Thành Khôi, Histoire du Viêt Nam: des origines à 1858. Paris: Sudestasie, 1981.

 

Về lịch sử Việt Nam thời Cổ và Trung đại, các quan hệ kinh tế-xã hội đặt trong bối cảnh quốc tế, xem: Phan Huy Lê, Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn, Lương Ninh, Lịch sử Việt Nam, Tập 1. Hà Nội: Nhà xuất bản Đại học và Trung học Chuyên nghiệp, 1981.

 

Về quan hệ Việt-Trung thời Bắc thuộc, sự hình thành ý thức bản ngã Việt từ sự tiếp xúc và cọ sát với các cộng đồng người láng giềng, xem: Keith W. Taylor, The Birth of Vietnam. Berkeley: University of California Press, 1983.

 

Về so sánh hai mô hình chính trị Việt Nam (thời Nguyễn) và Trung Quốc (thời Thanh), xem: Alexander B. Woodside, Vietnam and the Chinese Model: A Comparative Study of Vietnamese and Chinese Government in the First Half of the Nineteenth Century. Cambridge, MA: Harvard University Press, 1971.

 

Về trật tự thế giới kiểu Tàu và quan niệm cổ truyền của Trung Quốc về trật tự thế giới, xem: John K. Fairbank (bt.) The Chinese World Order: Traditional China’s Foreign Relations. Cambridge, MA: Harvard University Press, 1968; Charles P. Fitzgerald, The Chinese View of Their Place in the World, London: Oxford University Press, 1964.

 

Về viễn tượng của Việt Nam về thế giới, quốc gia và quốc gia trong thế giới qua các thời kỳ, xem: Alexander L. Vuving, “The References of Vietnamese States and the Mechanisms of World Formation”, Asien, số 79, tháng 4/2001, tr. 62-86.

 

Về vận động địa chính trị và đại chiến lược của Việt Nam từ cổ xưa đến trước lúc thuộc Pháp, xem: Vũ Hoằng Dương, “Nghĩ vào cuối thế kỷ: Nước non, non nước …” (2 phần), Cánh Én, số 45 và 47, 1995.

 

Về đại chiến lược của Việt Nam trong thời kỳ Trung đại, cũng như thái độ của Việt Nam với Trung Quốc xem: Trần Quốc Vượng, “Tradition, Acculturation, Renovation: The Evolution Pattern of the Vietnamese Culture”, trong David G. Marr, A. C. Milner (bt.) Southeast Asia in the 9th to the 14th Centuries. Singapore: Institute for Southeast Asian Studies, 1988; Trần Quốc Vượng, “Dân gian và bác học”, in lại trong cùng tác giả, Trong cõi. Garden Grove, CA: Trăm Hoa, 1993, tr. 159-195; Trần Quốc Vượng, “Tây Sơn Quang Trung và công cuộc đổi mới đất Việt ở thế kỷ XVIII”, in lại trong cùng tác giả, Trong cõi. Garden Grove, CA: Trăm Hoa, 1993, tr. 65-75.

 

Về thái độ của Việt Nam đối với Trung Quốc, trong so sánh với Nhật Bản, xem: Vĩnh Sính, “‘Hồn Đại Việt, giọng Hàn Thuyên’ - vị trí lịch sử của Trung Quốc đối với Việt Nam và Nhật Bản”, Diễn Đàn, số 26, tháng 1/1994, tr. 28-30.

 

Về đặc điểm sự giao lưu giữa Việt Nam với bên ngoài, xem: Trần Quốc Vượng, “Việt Nam: 100 năm giao thoa văn hóa Đông-Tây”, Đất Mới, bộ 3, số 3&4, 1991, tr. 32-44.

 

Về cách ứng xử của Việt Nam với Liên Xô và Trung Quốc nhằm phục vụ mục tiêu đại chiến lược của mình (thời kỳ 1956-1969), xem: W. R. Smyser, The Independent Vietnamese: Vietnamese Communism Between Russia and China, 1956-1969. Athens, Ohio: Ohio University Center for International Studies, Southeast Asia Program, 1980.

 

Về cuộc xung đột Đông Dương lần 3 và quan hệ Việt-Trung trong ngũ giác Việt Nam-Trung Quốc-Mỹ-Liên Xô-Campuchia thời kỳ sau 1975, xem: Nayan Chanda, Brother Enemy. The War after the War: The History of Indochina since the Fall of Saigon. San Diego: Harcourt Brace Jovanovich, 1986.

 

Về các thế giới quan làm nền cho chính sách đối ngoại của Việt Nam (Hà Nội) trong thời hiện đại, xem: Eero Palmujoki, Vietnam and the World: Marxist-Leninist Doctrine and the Changes in International Relations, 1975-93, London: Macmillan Press, 1997; Gareth Porter, “The Transformation of Vietnam’s World-view: From Two Camps to Interdependence,” Contemporary Southeast Asia, bộ 12, số 1, 6/1990, tr. 1-19; Võ Văn Kiệt, “Thư gửi Bộ Chính trị”, 9/8/1995, in lại trong Diễn Đàn, số 48, 1/1996, tr. 16-23; Nguyễn Cơ Thạch, Thế giới trong 50 năm qua (1945-1995) và thế giới trong 25 năm tới (1995-2020). Hà Nội: Nxb Chính trị Quốc gia, 1998.

 

Về chặng đường ngoại giao Việt Nam 1975-1991, quan điểm của lãnh đạo và cách xử lý mối quan hệ với Trung Quốc cũng như vấn đề Campuchia, giai đoạn bản lề 1987-91, xem: Trần Quang Cơ, Hồi ức và Suy nghĩ, mimeo, gộp hai bản 2001/2003 (hai chương 13 và 14 về cuộc gặp cấp cao Thành Đô 1990 in lại trên Diễn Đàn, số 134, tháng 11/2003, chương 1 về quan hệ Việt-Mỹ và thời cơ bỏ lỡ năm 1977 trích đăng trong Diễn Đàn, số 136, tháng 1/2004); cũng xem thêm về quan hệ Việt-Trung, quá trình bình thường hóa: Carlyle Thayer, “Sino-Vietnamese Relations: The Interplay of Ideology and National Interest”, Asian Survey, 6/1994.

Lịch sử thử nhìn lại

Lịch sử thử nhìn lại


Lữ Phương *



Các vấn đề được đề nghị nhìn lại ở đây đều xoay quanh hai nhu cầu liên hệ chặt chẽ với nhau trong lịch sử hiện đại của Việt Nam – một “ hệ vấn đề ” theo cách nói của Nguyễn Kiến Giang – đó là độc lập dân tộc và canh tân xã hội 1. “ Hệ vấn đề ” này hiện nay vẫn còn đè nặng lên số phận đất nước, nhưng xét từ cội nguồn, nó đã bắt đầu từ khi Việt Nam bị thực dân Pháp, một ngoại bang xa lạ, từ thế giới phương Tây đến xâm lược và thống trị, khác hẳn với kẻ xâm lược cũ đến từ phương Bắc quá quen biết từ mấy nghìn năm. Vì thế, như một nghịch lý nhưng là hiện thực, quá trình thức tỉnh để sinh tồn của Việt Nam đã bắt đầu từ cuộc đối đầu xương máu đó, để từ đó đặt những bước chân đầu tiên vào thời hiện đại đầy sóng gió, bất trắc. Với ý nghĩa là một cuộc thúc đẩy mò mẫm không tự sinh nhưng lại là tất yếu cho việc hình thành một ý thức mới về lịch sử.



1.

Tuy thời thế đã chuyển biến dữ dội, nhưng do xã hội cổ truyền Việt Nam xây dựng trên mô hình Trung Hoa phong kiến, quen chìm đắm trong cách nhìn nhận thế giới dựa trên hệ thống giá trị tiền hiện đại, nên sự đan cài khắng khít giữa hai vấn đề nói trên chưa được thế hệ những nhà yêu nước chống thực dân buổi ban đầu nhận thức đầy đủ. Chỉ khi phương pháp đấu tranh cũ tỏ ra bất lực, mà kết quả là vô vọng, thì thế hệ những nhà yêu nước kế tiếp mới nhận ra được lý do thất bại của cha anh : thực dân phương Tây không cùng tầm cỡ với người láng giềng phương Bắc “ đồng văn ”, mà là sức mạnh của một hình thái phát triển xã hội đã vượt khỏi chúng ta bằng cả một thời đại, do đó không thể chiến thắng nó bằng cách huy động vốn liếng cũ, dù dựa trên một lòng yêu nước nồng nàn. Một nhận thức mới cũng đã nẩy sinh từ đó, không nhất quán, rõ rệt nhưng dần dần hình thành với những nét chính sau đây : muốn đánh đổ chủ nghĩa thực dân giành lại độc lập cho đất nước, tất yếu phải hình dung được một thể chế đưa được đất nước phát triển cùng thế giới hiện đại mà nội dung chủ yếu của nó là công nghiệp hoá và dân chủ hoá với những hệ quả về tư duy mà quá trình này mang đến. Mối quan hệ giữa hai vấn đề ấy từ đó đã trở thành cương lĩnh của các phong trào yêu nước về sau : công cuộc giải phóng dân tộc phải mang chở trong bản thân một quá trình canh tân xã hội, làm mới tinh thần.

Đây cũng là các vấn đề mà các quốc gia châu Á phải đối mặt trước sự bành trướng của chủ nghĩa thực dân phương Tây, nhưng do nội lực của Việt Nam (cũng như của nhiều nước bấy giờ) thiếu hẳn những nhân tố nội sinh về văn hoá để tự canh tân, dẫn đến sự khủng hoảng trầm trọng về đường lối lãnh đạo, nên lớp người yêu nước của thế hệ mới đều nhất loạt đề xuất phương pháp đi ra ngoài để cầu viện hoặc cần đến một kích động của một hệ thống khác để tư duy của Việt Nam chuyển biến. Phan Châu Trinh hướng về những giá trị tích cực của ngay nước Pháp mà thực dân đã nhân danh để “ khai hoá ” Việt Nam. Phan Bội Châu quay sang nhờ sự giúp đỡ của nước Nhật, nơi đã hoàn thành sớm cuộc canh tân. Nguyễn Ái Quốc lại hướng về nước Nga với viễn cảnh cuộc cách mạng đem lại quyền làm chủ cho những người lao động. Xét về một khía cạnh nào đó, đây chính là điều hay vì là một cuộc hội nhập về tư tưởng có tác dụng phá vỡ bức tường tù hãm của một xã hội khép kín : lần đầu tiên trong lịch sử của mình, Việt Nam đã có điều kiện để thấy thế giới rộng lớn hơn nhiều lần cái chân trời Trung Hoa mà mình tưởng rằng đó là trung tâm của vũ trụ.

Nhưng tính chất đa phương phức tạp và mới mẻ của thế giới đó cũng đã là nguồn gốc sinh ra nhiều khác biệt trong hàng ngũ những người Việt Nam yêu nước mà mở đầu là cuộc tranh luận giữa Phan Châu Trinh và Phan Bội Châu. Cần chú ý rằng ở đây không có vấn đề về tình tự yêu nước, cũng không có bất đồng về sự cần thiết phải canh tân hay không, mà chỉ là sự biện giải khác nhau về các phương pháp đặt ra trong tranh đấu, cụ thể là vào thời điểm bấy giờ, giữa hai vấn đề độc lập và canh tân phải ưu tiên cho vấn đề nào, nhu cầu về dân chủ ở Việt Nam phải đặt ra thế nào trước tình hình yếu kém và bị đô hộ của đất nước, và trong một xã hội đang chuyển mình khó khăn thì có nên đương đầu trực tiếp với thực dân bằng bạo lực hay không.

Về Phan Châu Trinh, chúng ta đều nhớ những đề xuất táo bạo của ông : không dùng bạo lực chống đối mà ưu tiên cho dân chủ hoá, nâng cao dân trí theo văn minh Tây Âu và để thực hiện nhiệm vụ đó, không cần nhờ vả các nước ngoài xa lạ, mà nên yêu cầu chính quyền thực dân cho tiến hành những cải cách. Những ý kiến của Phan Châu Trinh đã đụng chạm đến tận nền tảng xã hội Việt Nam truyền thống, làm nổi bật lên sự đối lập giữa hai thế giới quan, một phát triển, văn minh, năng động và một chậm tiến, lạc hậu, bưng bít. Dưới những chuẩn mực của các xã hội phát triển tập trung nơi nền văn minh phương Tây, Phan Châu Trinh đã vạch trần một cách không thương tiếc căn bệnh trầm kha của con người Việt Nam thời phong kiến : hủ bại, sùng bái quá khứ, sùng bái Trung Hoa, và cho rằng nếu không biết tập trung tẩy trừ cho hết những tác nhân gây nên căn bệnh ấy mà cứ lao vào chiến đấu bằng bạo lực, kết quả nếu không vô vọng thì dù cho có chiến thắng, cuộc chiến thắng cũng vô nghĩa.

Chúng ta cũng biết những ý kiến trên đây có nhiều điều không được Phan Bội Châu hoàn toàn tán đồng. Thí dụ nổi bật nhất là vấn đề dân chủ được Phan Châu Trinh coi là toa thuốc cứu nước vạn năng, nhưng đối với Phan Bội Châu lại không thiết thực bao nhiêu, đơn giản chỉ vì giải pháp ấy thiếu đi một cái nền nâng đỡ mà không có cái nền đó thì dân chủ chỉ là hư vô, không có chỗ tựa. Nước đã mất thì dân không còn. “ Dân không còn nữa, mà chủ với ai ? ” 2.

Chưa kể đến việc thực hiện lại phải đặt quá nhiều kỳ vọng vào thiện chí của chính quyền thực dân, và điều đó đã được Trần Đình Hượu, một nhà nghiên cứu sau này cho là không thích hợp :

 Phan Châu Trinh coi dân chủ còn cấp bách hơn độc lập và tưởng rằng có thể dùng luật pháp, cách cai trị có quy củ theo kiểu Âu Mỹ – dù là do thực dân nắm giữ – để quét sạch những rác rưởi thối tha đó (…). Do ảnh hưởng sách vở, ông tin tinh thần “ yêu giặc như bạn ” của người Pháp, tin “ Nã Phá Luân là người sứ giả Trời sai xuống rắc cái hoa tự do ” cho Châu Âu. Ông tưởng thực tế cũng giống như trong sách vở, tưởng thực dân cũng tôn trọng tinh thần Cách mạng 1789, sợ hãi không đám vi phạm nó ! ” 3.

Sự khác nhau giữa Phan Châu Trinh với Phan Bội Châu là quá cách biệt : một bên “ dựa Pháp đánh đổ vua ” còn một bên “ bài Pháp phục Việt ”, chủ trương của Phan Châu Trinh rất cấp tiến nhưng không tránh khỏi ít nhiều mộng tưởng, trong khi đó thì chương trình của Phan Bội Châu, tuy nấn ná hoài cổ nhưng lại có vẻ gần thực tế hơn. Trật tự tam cương ngũ thường vẫn còn là tơ tưởng của nhiều người, bây giờ không phục hồi lại như cũ mà nên noi gương một số nước chuyển sang thể chế quân chủ lập hiến. Lực lượng vũ trang của phong trào Cần vương sau những thất bại thảm hại vẫn còn những tàn dư có thể tập hợp lại phục vụ cho ngọn cờ canh tân do một lớp thanh niên mới đi du học từ Nhật về lãnh đạo.

Nhưng cuộc vận động của ông không tiến triển được thêm bước nào. Tất cả đã cũng trở thành ảo tưởng không kém, do Nhật Bản câu kết với thực dân Pháp chặn đứng mọi chương trình của ông. Cuối cùng nhà chí sĩ bị trục xuất khỏi Nhật, phải chuyển sang Trung quốc ; 1912 lập Việt Nam Quang Phục Hội để tiếp tục hoạt động, đến 1924 mô phỏng Quốc Dân Đảng của Trung Hoa (do Tống Giáo Nhân, một đồng chí của Tôn Dật Tiên thành lập năm 1912), đổi Việt Nam Quang Phục Hội thành Việt Nam Quốc Dân Đảng. Từ quân chủ lập hiến chuyển hẳn sang cộng hoà nhưng tôn chỉ đấu tranh của Phan Bội Châu vẫn như cũ : dùng bạo động gây tiếng vang và tạo sức ép với chính quyền thực dân.

Công việc đang dự định thì giữa năm 1925, ông bị Pháp bắt, bị đưa về Việt Nam kết án và an trí ở Huế, tổ chức mới vừa thành lập cũng tan rã. Nhưng tinh thần của cuộc tranh đấu mà ông phát khởi vẫn được nhiều tổ chức chính trị khác kế thừa, hoặc trong nước hoặc lưu vong, tất cả đều có thiên hướng dùng bạo lực khuấy động trật tự thực dân bằng những cuộc ám sát, ném bom, nổi dậy… thể hiện qua hoạt động của những đảng phái mà sau này người ta thường gọi là “ dân tộc chủ nghĩa ”, “ quốc gia ”, “ không cộng sản ” như Việt Nam Quốc Dân Đảng của Nguyễn Thái Học, Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh hội của Nguyễn Hải Thần v.v… Hầu hết đều hướng về lý thuyết “ tam dân ” của Tôn Trung Sơn trong cách mạng Tân Hợi và coi đó như nguồn cảm hứng đấu tranh và tổ chức.

Phương thức tranh đấu đó khác hẳn với chủ trương của Phan Châu Trinh được kế thừa và phát triển thành các xu hướng hoạt động nâng cao dân trí bằng những chương trình văn hoá ở các thành thị, hoặc qua các đảng phái chính trị thành lập công khai, chủ trương vận động thay đổi thực tế theo lối cải lương dưới sự kiểm soát của chính quyền thực dân. Chúng ta hãy đọc ý kiến sau đây của nhà nghiên cứu Trần Đình Hượu để hiểu thêm ý nghĩa của nhận xét đó :

 Ở vào thời điểm xuất hiện, tư tưởng cải cách dân chủ của Phan Châu Trinh là yêu nước, chưa thuộc xu hướng cải lương. Ý đồ của ông là “ cùng với nhân nhân, chí sĩ ba kỳ thức tỉnh nhân tâm, hợp quần, hợp xã, khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh, ai nấy thấu rõ ngọn nguồn, đông tây sao mà chẳng vỗ nên bộp ” (Thư Phan gửi cho Nguyễn Ái Quốc năm 1922). Lúc đó giai cấp tư sản chưa thành một lực lượng, nếu tán thành các chủ trương tư sản hoá thì cũng chỉ là với tư cách quần chúng đi theo các nhà khoa bảng. Lúc đầu thực dân tưởng có thể lợi dụng chủ trương cải cách đề làm đối trọng với phong trào bạo động chống Pháp, gần gũi với Trung Quốc, Nhật Bản. Khi thấy quần chúng đông đảo, thật sự thiết tha với độc lập và dân chủ tham gia, lái phong trào sang cách mạng thực sự thì thực dân Pháp mới can thiệp vừa bắt giam những người yêu nước cầm đầu, vừa tổ chức trường Quy thức, ban Tu thư, hội Khai trí tiến đức, cho ra báo Đông Dương tạp chí, Nam phong tạp chí... đề xướng con đường Pháp Việt đề huề, hợp với giai cấp tư sản vừa phát đạt trước sau Đại chiến thế giới lần thứ nhất. Đó là chủ nghĩa cải lương. Phan Châu Trinh cũng như các nhà yêu nước khác chống lại chủ trương đó. Nhưng trong tư tưởng “ không bạo động, bạo động thì chết ” của ông lại có chỗ cho những người thân Pháp và sợ chết dựa vào để chống phong trào yêu nước và cách mạng, biện hộ cho chủ nghĩa cải lương ” 4.


2.

Có một xu hướng khác xuất phát từ mảnh đất đấu tranh nói trên nhưng cuối cùng đã chuyển sang một con đường mới mẻ hoàn toàn : đó là xu hướng cộng sản do Nguyễn Ái Quốc chủ xướng. Nguyễn Ái Quốc là người hợp tác chặt chẽ với Phan Châu Trinh khi mới bắt đầu gia nhập đời sống chính trị ở Pháp. Chính người thanh niên này đã cùng nhóm Phan Châu Trinh thảo ra “ Yêu sách của nhân dân An Nam ” (còn gọi là “ Thỉnh nguyện thư của dân tộc An Nam ”) gồm 8 điểm, tự tay gửi đến hoà hội Versailles (1919) yêu cầu thực thi những đề xuất của Tổng thống Mỹ Woodrow Wilson về cải cách tình hình chính trị ở các nước thuộc địa, trong đó có những thuộc địa của Pháp tại Đông Nam Á, nhưng chờ đợi không thấy kết quả gì, nên ngả sang con đường mới với mong mỏi tìm được một lực lượng bên ngoài có khả năng giúp được Việt Nam thoát khỏi xiềng xích của thực dân một cách thiết thực và hiệu nghiệm hơn 5.

Lực lượng mới này tuy được gọi chung là “ cộng sản ” lấy học thuyết Marx làm kim chỉ nam, thống nhất trong việc chống đế quốc tư bản, xây dựng nên một xã hội hứa hẹn không còn cảnh người bóc lột người, nhưng trong thực tế học thuyết đó lại có nhiều biến dạng với nhiều trường phái, cách mạng có, cải lương có, tranh luận nhau bất phân thắng bại. Bây giờ chúng ta biết rõ lý luận mà Nguyễn Ái Quốc tiếp nhận thuộc trường phái gọi là “ Marx-Lenin ”, được những nhà nghiên cứu phân tích như một thứ học thuyết đặc thù về Marx – vốn là sản phẩm của chủ nghĩa tư bản phương Tây – do Lenin giải thích lại để vận dụng vào việc chống tư bản và xây dựng xã hội mới cho những nước phụ thuộc và thuộc địa, nơi chưa có chủ nghĩa tư bản phát triển.

Tuy do Đệ Tam quốc tế chỉ đạo dưới sự chi phối của Liên Xô, nhưng qua các Đại hội, qua sự khác biệt về quyền lợi của từng quốc gia, đường lối không phải lúc nào cũng thống nhất, vì đó cũng gây ra chia rẽ, công kích nhau rất căng thẳng. Hồi mới tập tễnh làm chính trị, Nguyễn Ái Quốc không hiểu hết lý luận và những phức tạp của nó nhưng ông vẫn nhanh chóng chấp nhận vì thấy Đệ tam Quốc tế ủng hộ rất tích cực phong trào giải phóng dân tộc, chứ không thờ ơ như những thế lực quốc tế khác. Đây là điểm quan trọng xuyên suốt tiểu sử chính trị của ông : vấn đề giải phóng dân tộc phải được xem là mối quan tâm hàng đầu bên cạnh những vấn đề khác của cách mạng vô sản. Vì thế đặt trong bối cảnh đấu tranh của Việt Nam vào tiền bán thế kỷ 20, sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam theo xu hướng của Nguyễn Ái Quốc không khác gì bao nhiêu những tổ chức yêu nước có nội dung canh tân khác.

Đường lối khái quát do Nguyễn Ái Quốc phác họa là vào tháng 2 năm 1930 khi ông hợp nhất được các phe phái cộng sản đang xâu xé lẫn nhau, đường lối này – không lâu sau đó bị xu hướng quá khích trong đảng (đại biểu cho Đại hội Quốc tế Cộng sản lần thứ 6, năm 1928) đem ra chỉ trích nặng nề khiến ông bị giữ lại ở Liên Xô suốt 7 năm, đến 1938 mới được phép trở ra hoạt động lại – có nội dung thật sự tương tự đường lối mà các cuộc cách mạng tư sản dân quyền ở những nước thuộc địa hoặc phụ thuộc chủ nghĩa thực dân trên thế giới vạch ra : chống đế quốc để giải phóng dân tộc, thực hiện khẩu hiệu người cày có ruộng cùng với các quyền tự do dân sự cho một xã hội công dân độc lập.

Như vậy là trong hai vấn đề chống xâm lược và canh tân xã hội, vấn đề thứ nhất đã được Nguyễn Ái Quốc đặt lên hàng ưu tiên, chính diện, không khác gì bao nhiêu với chủ trương của Phan Bội Châu (trong vấn đề đó). Việc sử dụng bạo lực mà Phan Bội Châu đặt ra trong tranh đấu thì được phát triển theo quan điểm cách mạng của đông đảo quần chúng (dù dưới hình thức khởi nghĩa hay chiến tranh) và được kết hợp với nhiều phương thức đấu tranh khác (chính trị, văn hoá…), công khai / bí mật, ôn hoà / bạo lực tuỳ theo tình thế mà ứng biến, chứ không chỉ loay hoay trong những cuộc bạo động gây tiếng vang hoặc chỉ giới hạn cuộc vận động vào từng lớp bên trên như nhiều đảng phái khác. Tính chất dân chủ mà phong trào cộng sản hay nói đến đã được thể hiện qua những biện pháp vận động rộng rãi này.

Những mục tiêu đó đã là cơ sở để Đảng Cộng sản có thể hợp tác với những đảng chính trị theo chủ nghĩa dân tộc khác. 1925, từ Nga sang Trung quốc hoạt động, Nguyễn Ái Quốc đã có quan hệ tốt với Phan Bội Châu, Nguyễn Hải Thần, Hồ Học Lãm… , những người đấu tranh chống thực dân theo đường lối Quốc Dân Đảng của Tôn Trung Sơn, lãnh tụ cuộc Cách mạng Tân Hợi ở Trung Quốc. Ngay cả khi thành lập chính phủ lâm thời năm 1946, vẫn có nhiều thành phần của phe “ quốc gia ”, đối lập về chính kiến, từ Trung Quốc về nước chia quyền như Nguyễn Hải Thần… trong Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội, Nguyễn Tường Tam, Vũ Hồng Khanh… trong Việt Nam Quốc Dân Đảng… Vì lúc bấy giờ cuộc liên minh giữa các cường quốc (trong đó có Liên Xô) vẫn còn hiệu lực để thực hiện cuộc tấn công cuối cùng đè bẹp chủ nghĩa phát xít và thanh toán tàn dư của nó, nên vấn đề quốc/cộng ở Việt Nam vẫn chưa bùng nổ. Và đó cũng là nguyên nhân làm cho cuộc khởi nghĩa 1945 thành công dễ dàng, trong đó có việc khai thác chính xác kết quả của liên minh chống phát xít trên thế giới khiến Nhật đầu hàng.

Nhưng tất cả đều đảo ngược khi Chiến tranh Thế giới 2 vừa chấm dứt, cho phép quân Tưởng Giới Thạch từ phía Bắc, quân Anh từ phía Nam tràn vào giải giới quân Nhật, tạo điều kiện cho thực dân Pháp giành lại quyền lực đã bị sự chiếm đóng của Nhật vô hiệu hoá từ 1940. Sách lược liên hiệp các thành phần khác nhau thể hiện trong chính phủ lâm thời, trước sự hiện diện của các thế lực quốc tế chống cộng sản và đòi hỏi phục hồi vị thế của thực dân Pháp, kéo dài được một thời gian ngắn ngủi, đã đi đến chỗ tan vỡ hoàn toàn (sự kiện phố Ôn Như Hầu tháng 7.1946). Sau một thời gian thương lượng tìm một giải pháp hoà bình với Pháp không xong, chính phủ Hồ Chí Minh (tên mới của Nguyễn Ái Quốc khi ra công khai) đã chủ trương rút lui vào bưng biền kháng chiến. Cuộc liên minh chống phát-xít giữa Liên Xô và các cường quốc phương Tây cũng hạ màn, cuối cùng dẫn đến cuộc Chiến tranh Lạnh do Mỹ và Liên Xô cầm đầu, phân chia thế giới thành hai phe theo hai đường lối, hai ý thức hệ đối lập nhau gọi là tư bản và cộng sản.

Thật sự thì Chiến tranh Lạnh đã manh nha trước khi Chiến tranh Thế giới 2 chấm dứt do nhiều bất đồng của các cường quốc phương Tây với Liên Xô, nhưng phải đợi tiếng súng im đi, mới bộc lộ rõ hơn, trong việc phân chia vùng ảnh hưởng và chiếm đóng giữa hai bên, cùng với việc Mỹ viện trợ tái thiết một số nước châu Âu để không rơi vào tay cộng sản, từ đó hình thành học thuyết gọi là “ be bờ ” (containment) “ ngăn chặn làn sóng đỏ ” của tổng thống Mỹ Truman năm 1947, khởi đầu từ châu Âu rồi lan khắp thế giới. Cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp của Việt Nam cũng bị hút vào ngay sau cách mạng 1945, khi Pháp được Mỹ yểm trợ tái lập chế độ thuộc địa. Sự can thiệp của Mỹ càng ngày càng sâu hơn và mạnh mẽ hơn vào Việt Nam khi Mao Trạch Đông đẩy Tưởng Giới Thạch ra biển vào năm 1949 để sau đó đụng độ trực tiếp với Mỹ trong chiến tranh Triều tiên (1950). Trước tình hình đó, Hồ Chí Minh không có cách nào khác là ngả hẳn về “ phe xã hội chủ nghĩa ” tìm chi viện, trong đó Trung Quốc được Stalin giao cho vai trò trực tiếp, để tiếp tục cuộc chiến đấu của ông.

Trung Quốc bấy giờ vẫn liên minh với Liên Xô, nên cũng hết sức giúp đỡ Việt Nam, nhờ đó Việt Nam tạo ra một chiến thắng cuối cùng tại lòng chảo Điện Biên ác liệt. Nhưng chính sự giúp đỡ dần dà của Trung Quốc đưa đến chiến thắng quyết định này đã đẩy Việt Nam vào vòng phụ thuộc “ người anh em ” của mình hết sức nặng nề. Quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc tuy bên ngoài danh nghĩa là những nước thuộc cùng một chiến tuyến chống đế quốc, chia sẻ cùng một ý thức hệ quốc tế vô sản, nhưng quyết định chính sách đối ngoại của hai bên vẫn là những quyền lợi thiết thân của một quốc gia và đối với Việt Nam thì Trung Quốc đương nhiên bao giờ cũng là một “ đại ca ”.

Nhiều tài liệu của Đảng Cộng sản Việt Nam cho biết khi được mời tham dự hoà hội Genève 1954, vừa chiếm được quyền lực trên lục địa, Trung Quốc đã thông qua việc dàn xếp một cách bất lợi cho Việt Nam để khẳng định sự hiện diện của mình trên chính trường quốc tế. Khi tiếp tục giúp Việt Nam về sau, Trung Quốc vẫn xem Việt Nam như một công cụ để sử dụng vào lúc thích hợp. Theo dư luận trong Đảng, Hồ Chí Minh không phải không biết điều này nhưng mọi thứ đã an bài vì với ông không có gì quan trọng bằng sự đoàn kết “ bầu bạn ” khắp nơi để giành lại độc lập từ sự thống trị của thực dân. Không biết ông có lường được hết hậu quả hay không, nhưng thực tế cho biết rõ là càng dựa vào “ phe xã hội chủ nghĩa ” để chống thực dân thì khái niệm này càng ngày càng mất đi ý nghĩa phổ quát mà ông đã hình dung khi lựa chọn để mang những thuộc tính riêng biệt và cụ thể : một mô hình “ xã hội chủ nghĩa ” đặc trưng mà Mao Trạch Đông đã sáng tạo cho Trung Quốc.

Vì thế, theo một nghĩa nào đó cũng có thể coi sự thành công của cách mạng cộng sản ở Việt Nam chính là kết quả của cuộc nội chiến ở Trung Quốc : nếu Mao Trạch Đông không đánh bại được Tưởng Giới Thạch ở Trung Quốc thì có lẽ tình hình sẽ hoàn toàn có lợi cho phe thân Tưởng nằm phục lâu năm ở đây và số phận của Việt Nam cũng vì đó mà có thể khác đi rất nhiều. Nhưng những gì diễn ra trong lịch sử đã không cho phép chữ nếu này tồn tại. Với sự cận kề về địa lý, phụ thuộc về văn hoá truyền thống, huyễn hoặc về ý thức hệ, dựa vào Mao Trạch Đông để chiến thắng thực dân Pháp, Việt Nam rất khó thoát khỏi sự thao túng của chủ nghĩa cộng sản mao-ít.


3.

Như vậy là từ việc cùng tồn tại chung, qua nhiều lần hợp tác, phân hoá, với nhiều xu hướng chính trị yêu nước khác, phong trào cộng sản Việt Nam do Hồ Chí Minh lãnh đạo ngày càng chiếm được vai trò chủ đạo trong công cuộc chống thực dân giành chủ quyền cho dân tộc, nhưng ý nghĩa của nó cũng ngày càng phức tạp, không còn đơn giản như lúc ban đầu. Điều này đã thể hiện rõ rệt qua hai giai đoạn khác nhau, như chúng ta đã biết, trong quá trình tranh đấu của nó.

Giai đoạn thứ nhất : từ ngày thành lập đến cuộc khởi nghĩa 1945 thành công, thiết lập nên nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Trong giai đoạn này, cương lĩnh tranh đấu tuy do Đảng đề xuất nhưng nội dung chỉ dừng lại ở cuộc cách mạng tư sản dân quyền theo kiểu Tôn Trung Sơn. Do cương lĩnh có nội dung đó, dù khác nhau hoặc đối lập nhau về tư tưởng, những người cộng sản và các đảng phái phi cộng sản vẫn có thể hợp tác với nhau để hành động chung. Tình hình thế giới thuận lợi cho sự hợp tác đó vì trước hiểm hoạ phát-xít, đã có sự liên minh giữa các cường quốc để chống lại.

Sự hoàn tất của cuộc khởi nghĩa 1945 ở Việt Nam đã diễn ra trong bối cảnh đó với một ghi nhận quan trọng cần được nhấn mạnh : đó là một cuộc cách mạng hoàn toàn tự lực của Việt Nam, không hề có sự giúp đỡ trực tiếp của Đảng Cộng sản Liên Xô lẫn Đảng Cộng sản Trung quốc. Nội dung dân tộc và dân chủ trong đường lối đấu tranh tự lực của của Đảng Cộng sản trong giai đoạn này đã thể hiện rất rõ trong “ Tuyên ngôn độc lập ” và Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà 1946 như một cột mốc mang tính bản lề để đất nước vượt qua xã hội cổ truyền, hội nhập thế giới hiện đại và giải quyết những vấn đề căn bản cho một Việt Nam phát triển trong dân chủ mà lịch sử đã đặt ra từ đầu thế kỷ 20.

Giai đoạn hai : từ sau 1949 trở đi, khi cách mạng Trung Quốc thành công, do tình thế bất khả kháng phải dùng chiến tranh để bảo vệ thành quả đã đạt được trong cách mạng 1945, Hồ Chí Minh chuyển hẳn sang dựa dẫm Trung Quốc để chống thực dân. Tính chất dân tộc của cuộc tranh đấu đã bắt đầu nhuốm đậm màu ý thức hệ, không phải là ý thức hệ mác-xít nói chung mà là thứ đặc sản tinh thần mới của Trung Quốc mệnh danh là chủ nghĩa Mao, theo chân các đoàn cố vấn Trung Quốc cùng với súng đạn và lương thực tràn vào Việt Nam. Những cuộc đấu tố cải cách ruộng đất, những cuộc tẩy não tư tưởng diễn ra trong hàng ngũ cán bộ và quân đội ngay trong lúc chiến tranh chống Pháp đang tiếp diễn đã có tác dụng áp đặt cho Việt Nam một đường lối sẽ được khai triển toàn diện về sau này.

Vấn đề cộng sản và không cộng sản, trước đây nhạt nhoà trước nhu cầu chống thực dân, bây giờ đã trở thành tác nhân gây chia rẽ dân tộc, làm phân liệt cả hàng ngũ những người yêu nước chống Pháp, hoặc riêng biệt hoặc hợp tác với cộng sản, từ đó đã đưa cuộc đấu tranh của Việt Nam bước sang một giai đoạn mới, trong đó sự hợp tác giữa những thực thể riêng biệt trong một toàn phần đã được thay thế bởi sự chiếm lĩnh độc tôn về quyền lực của một thành phần cục bộ.

Sự rạn nứt đó đã vỡ oà ra cùng với cuộc Chiến tranh Lạnh đang tăng cường độ ở châu Á. Nhân danh chủ nghĩa chống cộng, Mỹ can thiệp vào Việt Nam để giúp thực dân Pháp duy trì thuộc địa, đã ngày càng đẩy Việt Nam rơi sâu vào ảnh hưởng của Trung Quốc, thể hiện ngày càng quyết liệt qua cuộc xung đột giữa hai miền Nam/Bắc sau 1954. Cuộc đối đầu giữa Mỹ và Trung Quốc đã cản trở Việt Nam thống nhất trong hoà bình. Miền Nam biến thành tiền đồn của “ thế giới tự do ” để Mỹ thực hiện chính sách ngăn chặn sự bành trướng của phe cộng sản theo học thuyết domino.

Điều đó cũng giả định Việt Nam và Trung Quốc “ tuy hai mà một ”, cả hai đều muốn mở rộng chủ nghĩa cộng sản xuống toàn vùng Đông Nam Á. Giả định này không hoàn toàn vô lý nếu nhìn từ nội tại, vì miền Bắc Việt Nam đã thực hiện việc cải tạo xã hội theo mô hình Mao Trạch Đông, tiếp tục các chính sách đã tiếp nhận từ Trung Quốc khi còn kháng chiến : thực hiện “ cải cách ruộng đất ” để tước đoạt thành quả mà nông dân đã có được trong thời cách mạng dân tộc dân chủ, nhân danh một thứ lý thuyết không tưởng được cho là chân lý duy nhất để lãnh đạo, căn cứ vào đó thủ tiêu mọi hứa hẹn trước đây về quyền tự do tư tưởng cho trí thức và áp đặt lên đời sống một hình thái văn hoá chuyên chính ngu dân, lạc hậu.

Nhưng từ một góc nhìn rộng lớn hơn thì lập luận ấy chỉ là kết quả của suy diễn. Bấy giờ Trung Quốc dù có muốn “ xích hoá ” Đông Nam Á thì cũng cũng không đủ sức, nếu có thì cũng chỉ xúi giục Việt Nam, nhưng chỉ trong giới hạn nào đó có lợi cho mình. Còn Việt Nam thì lại chỉ theo đuổi dự định thiết thân : trong khi quyết tâm chống Mỹ để thống nhất đất nước thì cũng cưỡng lại Trung Quốc, không chấp nhận kéo dài nhùng nhằng. Rốt cuộc mặc dù không vừa ý, nhưng Trung Quốc vẫn ủng hộ Việt Nam, ngoài việc muốn sử dụng Việt Nam như một công cụ, còn vẫn giữ chính sách thù địch với Mỹ do vấn đề Đài Loan và sau chiến tranh Triều Tiên. Nhưng khi sự tranh giành vị trí bá quyền với Liên Xô trong phong trào cộng sản quốc tế lên cao dẫn đến xung đột vũ trang, Trung Quốc đã xem Liên Xô như một “ đế quốc xã hội ”, nhanh chóng chuyển sang hợp tác với Mỹ để chống lại. Ngoài việc nắm lấy thời cơ để phân hoá kẻ thù, Mỹ còn muốn qua việc hợp tác này, nhờ Trung Quốc áp lực với Việt Nam hỗ trợ Mỹ trong giải pháp rút lui chủ động hơn khỏi cuộc sa lầy ở Đông Nam Á.

Trung Quốc đã lợi dụng tình hình đó chiếm đoạt Hoàng Sa của Việt Nam trong tay chế độ Sài gòn năm 1974, trước sự án binh bất động của Hạm đội 7 của Mỹ đang lảng vảng ngoài Biển Đông. Mâu thuẫn giữa Việt Nam và Trung Quốc ngày càng trở nên gay gắt khi Việt Nam bất chấp những cuộc đi đêm giữa Mỹ và Trung Quốc bất lợi cho mình, nhất quyết thực hiện việc thống nhất đất nước bằng quân sự. Sau đó không lâu khi Đặng Tiểu Bình chủ trương hiện đại hoá Trung Quốc bằng thủ đoạn “ lòn trôn ”, trắng trợn ve vãn Mỹ để du nhập khoa học và công nghệ thì Việt Nam đã được Trung Quốc sử dụng một lần nữa như một con chốt.

Để đối phó, thay vì nhanh chóng bình thường hoá quan hệ với Mỹ để hoá giải cuộc cờ, Việt Nam quá ảo tưởng về mình sau khi thắng Mỹ, lại đưa điều kiện bồi thường chiến tranh để đàm phán, không gặt hái được kết quả gì, cuối cùng để chống trả thái độ thù địch ngày càng hung hãn của Trung Quốc, đã phải ngả hẳn sang Liên Xô, với niềm xác tín rằng Liên Xô “ xã hội chủ nghĩa ” đích thực hơn. Sự thách thức ấy đã được Trung Quốc trả đũa bằng cách sử dụng Khmer Đỏ tăng cường khuấy phá biên giới phía Nam ; khi Việt Nam chiếm đóng Campuchia để trừng trị, năm 1979 Trung Quốc đã vận động tranh thủ sự tán đồng của Mỹ, mở cuộc tấn công đánh phá tan tành một số tỉnh miền Bắc để “ dạy ” cho tên “ côn đồ Việt Nam ” một bài học.

Bị tổn thất nặng nề, không buộc được Việt Nam rút khỏi Campuchia ngay, nhưng Đặng Tiểu Bình cũng thành công trong việc làm cho Việt Nam bị cô lập và kiệt quệ trong một thời gian dài. Trong khi đem máu của binh sĩ hai nước ra chứng minh với Mỹ rằng mình không còn nằm trong phe cộng sản nữa (Việt Nam là một Cuba ở châu Á cần trừng trị), Trung Quốc đã nhận được từ Mỹ một món quà mà nội dung là một khoảng thời gian yên bình gần 30 năm để tiếp nhận công nghệ và khoa học phương Tây, cần thiết cho việc thực hiện chủ trương “ bốn hiện đại hoá ”, hy vọng thoát khỏi lạc hậu, mau chóng trở thành cường quốc. Còn Việt Nam thì sau cả chục năm trì trệ vì quá tin vào Liên Xô, đến khi Liên Xô sụp đổ, không biết bám víu vào ai để tồn tại như một chế độ chuyên chính nên nghe theo Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh lúc bấy giờ (1991) vội vã quay về với người bạn Trung Quốc để nối lại mối quan hệ “ đồng chí tốt ” đã có từ lâu.


4.

Ngày nay các cuộc chiến tranh chống các thế lực thực dân, đế quốc phương Tây coi như đã lui vào dĩ vãng. Cuộc Chiến tranh Lạnh giữa hai phe chia đôi thế giới cũng đã lụi tàn. Cương lĩnh gọi là “ xây dựng chủ nghĩa xã hội ” theo mô hình Stalin-Mao cũng đã tan vỡ theo sự sụp đổ của cái hệ thống quốc tế đã cổ xuý nó. Để tồn tại cả Trung Quốc lẫn Việt Nam đều phải thích ứng chuyển đổi đường lối. Đường lối này được gọi là “ chủ nghĩa Lenin - thị trường ”, với những cải biến xa hơn về mặt lý luận : đuổi hàng hoá và thị trường ra khỏi sự phê phán của Marx về chủ nghĩa tư bản, nhưng vẫn lén lút bám chặt vào mấy chữ “ chuyên chính vô sản ” của ông về thời kỳ quá độ, cốt chỉ để duy trì cho được sự thống trị độc quyền vĩnh viễn của Đảng cộng sản đối với đời sống chính trị của đất nước. Nói cách khác là làm kinh tế thị trường nửa vời bằng một nhà nước độc tài tuyệt đối. Không có gì gọi là “ chủ nghĩa xã hội ” thật sự ở đây để phải bận tâm tranh cãi thêm về mấy chữ “ định hướng ” hay “ tiến lên ” đi theo nó cả.

Với đường lối nói trên, Đảng Cộng sản Việt Nam cố giữ thói quen nhún nhường đối với người láng giềng phương Bắc, hy vọng tạo ra một động lực mới và một không khí hoà bình để đuổi kịp nhịp phát triển của các nước trong khu vực. Nhưng kết quả lại không như mong muốn. Chính sách của Đặng Tiểu Bình, lấy Việt Nam làm con chốt thí để chiếm lòng tin của giới lãnh đạo Mỹ (dạy Việt Nam một bài học 1979), đồng thời quyết liệt dùng bàn tay sắt đập tan mọi ý hướng canh tân dân chủ hoá (sự kiện Thiên An Môn 1989), sau 30 năm thực hiện một thứ chủ nghĩa tư bản nhà nước chuyên chế, nếu đã đưa được Trung Quốc lên thành một cường quốc thì cũng với những cố gắng sửa chữa sai lầm để thực hiện chính sách “ đổi mới ” đặt nền trên sự trấn áp chính trị, thì sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam lại tạo ra những kết quả trái ngược. Theo chân Trung Quốc mở cửa chào đón chủ nghĩa tư bản quốc tế, cho phép giai tầng trung lưu nội địa hoạt động trở lại, sự lãnh đạo đó vẫn không đưa đất nước thoát ra khỏi tình trạng trì trệ, tụt hậu để “ hoá rồng ” mà vẫn chìm ngập trong vũng lầy nhược tiểu, thối nát, tầm nhìn không thoát khỏi những toan tính lợi ích bè phái trước mắt, vì đó đã đưa toàn xã hội vào cảnh chụp giật hỗn loạn, đất nước lệ thuộc bên ngoài nhiều mặt.

Trước tình hình rối ren ấy, mối quan hệ giữa Việt Nam với người bạn phương Bắc lại rẽ sang một khúc quanh đầy nguy hiểm : dựa vào những kết quả đạt được trong 30 năm phát triển, Trung Quốc đã tạo ra được sức mạnh đủ để mưu tính trở thành một siêu cường mới ở châu Á, thách thức và đi đến chỗ muốn thay thế vai trò bá quyền của Mỹ đã suy yếu trong những năm gần đây. Toan tính ấy mang tính hiện thực đến mức nào thì còn phải chờ xem, nhưng trước mắt Trung Quốc đã gieo rắc tham vọng đó khắp nơi bằng hàng loạt biện pháp tham lam của một đế quốc không cần giấu mặt. Quan trọng nhất là đã tập trung tăng cường sức mạnh quân sự, dựa vào sức mạnh này, hăm doạ độc chiếm Biển Đông, khống chế vùng Đông Nam Á.

Riêng đối với Việt Nam âm mưu đó được thực hiện một cách toàn diện, vì từ vị trí địa chính của mình, Việt Nam chứa đựng tiềm năng tiếp tục trở thành một cái nút chặn lộ trình đi xuống phía Nam của chủ nghĩa dân tộc Đại Hán. Vì thế, ngoài việc liên tục quấy phá, cướp đoạt, lấn chiếm, bắn giết ngoài Biển Đông, Trung Quốc tìm cách xâm nhập vào nội bộ trong các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, tình báo để thao túng, biến Việt Nam thành một quốc gia phên giậu, phụ thuộc để khai thác và sai khiến.

Một câu hỏi khắc nghiệt không thể không đặt ra : phải chăng không muốn nhưng một lần nữa người Việt Nam lại phải bắt đầu một cuộc đối kháng mới với kẻ thù truyền kiếp của dân tộc mình, giống như cha ông chúng ta đã phải đương đầu từ hàng nghìn năm về trước ? Phải chăng nói như một nhà nghiên cứu : mọi cuộc chiến đấu chống các đế quốc phương Tây để gìn giữ chủ quyền của Việt Nam đều trở nên “ thứ yếu ” so với cuộc đương đầu với chủ nghĩa bành trướng Đại Hán phương Bắc 6 ? Dù cho thông tin hiện nay chưa cung cấp cho chúng ta đầy đủ yếu tố để trả lời các câu hỏi này bằng một khẳng định có tính chất đại chiến lược cho cả một thế kỷ, nhưng căn cứ vào những sự kiện đã diễn ra hơn 50 năm qua, bất cứ người Việt Nam nào có chút ưu tư đều cảm thấy cái tai hoạ từ phương Bắc đang đè nặng lên số phận đất nước, ngày càng lộ rõ, ngày càng trắng trợn.

Trước tình hình nguy ngập nói trên, chúng ta đều trông đợi thái độ của Đảng Cộng sản Việt Nam với tư cách là tổ chức chính trị từng dính líu quá sâu vào ý thức hệ mao-ít trong thời kỳ chống thực dân và hiện nay đang là đảng cầm quyền tự cho mình là người duy nhất chịu trách nhiệm trước dân tộc về mối đe doạ bành trướng của Trung Quốc. Chúng ta hy vọng Đảng Cộng sản sẽ công bố đường lối của mình trước toàn dân, như trước đây đã từng công bố nhiều lần trước những biến cố quan trọng của đất nước. Trong khi chờ đợi, ở đây chúng ta chỉ căn cứ vào những gì đã trình bày ở trên để rút ra một số kết luận có tính chất hiển nhiên, dựa vào đó hình dung một chiến lược ứng phó khả dĩ cho dân tộc mà nội dung gồm những điều chủ yếu như sau:

  • Ý thức hệ gọi là “ xã hội chủ nghĩa ” mà Đảng Cộng sản Việt Nam sử dụng trong thời kỳ chống xâm lược nếu có tác dụng tìm kiếm sự hỗ trợ bên ngoài, thì khi đem ra thực hiện trong xây dựng đã hiện nguyên hình là một mô hình không tưởng chuyên chế, đi ngược lại mọi viễn cảnh canh tân trong dân chủ, không tạo đoàn kết mà chỉ gây chia rẽ dân tộc và đưa dân tộc vào con đường lệ thuộc tinh thần. Chủ nghĩa “ Mác-Lênin ”, cơ sở xây dựng “ chủ nghĩa xã hội ” ở Việt Nam, chỉ là một sản phẩm du nhập mang tính chất chính trị tình thế, có nội dung Stalin được Mao Trạch Đông Trung Quốc hoá.

  • Trên thực tế, nhất là trên mặt quan hệ quốc tế, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã từ bỏ ý thức hệ gọi là “ chủ nghĩa xã hội ” từ lâu. Quan hệ giữa Việt Nam và Trung Hoa hiện nay là quan hệ bình đẳng giữa hai quốc gia, không thể lấy quan hệ đồng nhất về ý thức hệ để xử lý các vấn đề có liên hệ đến quyền lợi của hai nước. Nếu sử dụng khái niệm này để quan hệ với Trung Quốc, Việt Nam sẽ rơi vào cái bẫy tâm lí chiến gọi là “ vì đại cuộc ” do Trung Quốc giăng ra.

  • Qua tất cả những diễn biến của lịch sử quan hệ giữa hai nước suốt cả nửa thế kỷ đã qua, Trung Quốc không lúc nào ngừng o ép Việt Nam dựa trên những lợi ích của một quốc gia theo chủ nghĩa bành trướng nước lớn, đến nay đã trở nên trắng trợn hơn bao giờ hết trong toan tính biến Việt Nam thành một thứ phên giậu, phụ thuộc, để sử dụng, khống chế. Không có gì gọi là “ hữu nghị ” hoặc “ đồng chí tốt ”, “ láng giềng tốt ” biểu hiện trong mối quan hệ ấy.

  • Chỉ có một thể chể chính trị mạnh về mọi mặt, bên ngoài có chỗ dựa của sự đồng tình quốc tế, bên trong là một nhà nước có được sự hậu thuẫn của nhân dân, mới tạo ra được sức mạnh tổng hợp ngăn chặn sự gây hấn của một Trung Quốc đang trở thành đế quốc. Vì vậy một đường lối ngăn chặn chủ nghĩa Đại Hán phương Bắc ngày nay tất yếu cũng phải trở về cội nguồn của cuộc đấu tranh chống thực dân từ đầu thế kỷ 20 : chống xâm lược bên ngoài phải đi cùng với việc canh tân và dân chủ hoá xã hội bên trong.

*

Trong viễn cảnh hiện đại hoá, vấn đề ngăn chặn chủ nghĩa bành trướng Đại Hán như vậy không đơn thuần chỉ là việc bảo vệ một cõi “ Nam quốc sơn hà ” như ông cha chúng ta đã làm trước đây. Thực chất, đó là việc phủ nhận một mô hình phát triển không những không đưa đất nước hội nhập vào thế giới hiện đại một cách đích thực mà còn đẩy dân tộc vào vòng lệ thuộc. Suốt một thời gian dài, vì nhu cầu bức thiết của công cuộc đấu tranh chống các hình thức thực dân phương Tây, Đảng Cộng sản Việt Nam đã bị cuốn hút vào cái ý thức hệ ngoại lai đặc biệt đến từ phương Bắc đó, coi như một sự trợ giúp cần thiết mà không ý thức hết cũng như không lường hết được hậu quả trầm trọng và lâu dài của nó. Ngày nay, trước nguy cơ chủ nghĩa bành trướng Đại Hán đang chuyển mình thành chủ nghĩa thực dân, những người cộng sản không thể không tìm về giai đoạn đấu tranh trong tự lực và tự chủ của mình như một điểm tựa truyền thống phi-mao-ít để thoát khỏi sự không chế của nó, do đó cần thiết cũng phải nhìn lại các mối quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc, đặc biệt trong lĩnh vực ý thức hệ, qua các giai đoạn đấu tranh khác nhau, một cách khách quan, đúng như đã diễn ra trong lịch sử.

Lữ Phương


Tài liệu tham khảo

  1. Bộ Ngoại giao nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong 30 năm qua, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1981.

  2. Nhiều người ký tên, Kiến Nghị về Bảo Vệ và Phát Triển Đất Nước, 10.7.2011, boxitvn.blogspot.com

  3. 36 nhân sĩ, trí thức Việt Nam hải ngoại, Thư ngỏ gửi các nhà lãnh đạo Việt Nam về hiểm hoạ ngoại bang và sức mạnh dân tộc, 21.8.2011, Viet-Studies.info, tháng 8.2011.

  4. Nhóm tác giả, Ý kiến chúng tôi : Cải cách toàn diện để phát triển đất nước, 8.9.2011, Thời Đại Mới số 23, tháng 11.2011

  5. Vũ Quang Việt : Phải chăng quan hệ Việt Nam với Trung Quốc còn mang tính bá chủ-chư hầu ?Thời Đại Mới số 23, tháng 11.2011.

  6. Vũ Hồng Lâm, Lịch sử quan hệ Việt-Trung nhìn từ góc độ đại chiến lượcThời Đại Mới số 2, tháng 7.2004.

  7. Giáp Văn Dương, Thoát Trung luận, Blog Giápvăn, 13.8.2011.

  8. Trần Quang Cơ, Hồi ký, tháng 7.2005, Diễn Đàn 12.7.2008.

  9. Nguyễn Kiến Giang, Nhìn lại quá trình du nhập chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam, (Lữ Phương sưu tầm, hiệu đính và giới thiệu), talawas.org, 14.4.2006.

  10. Trần Đình Hượu, Giáo trình Văn học Việt Nam giai đoạn giao thời 1900-1930, Nxb Đại học và giáo dục chuyên nghiệp, Hà Nội 1988.

  11. Lữ Phương, Từ Nguyễn Tất Thành đến Hồ Chí Minh – Sự hình thành một chọn lựaĐặc trang Lữ Phương, Viet-Sudies.info.

  12. Pierre Brocheux, Những suy tưởng về Việt NamThời Đại Mới, số 24, tháng 3.2012,

  13. Nayan Chanda, Brother Enemy, The War after the War, Harcourt Brace Jovanovich, Publishers, San Diego New York London, 1986.

  14. Henry Kissinger, On China, Chapter 13 : Touching the Tiger’s Buttocks, The Third Vietnam War, The Penguin Press, Kindle Edition, 2011.



© 2012 Thời Đại Mới



* Chân thành cám ơn sự phê bình, góp ý của các anh Tống Văn Công, Bùi Văn Nam Sơn, Cao Huy Thuần, Vũ Quang Việt, Nguyễn Ngọc Giao, Ngô Vĩnh Long, Giáp Văn Dương, Trần Hữu Dũng, Hà Dương Tường để bản thảo bài viết này, khi sửa lại, giảm bớt được một số sai sót vội vã do nhận thức có hạn của tác giả.

1 Nguyễn Kiến Giang, Nhìn lại quá trình du nhập chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam, talawas, 14.4.2006.

2 Phan Bội Châu, Thư gửi Phan Châu Trinh, 1907, trong Phan Bội Châu toàn tập, Tập 2, Nxb Thuận Hoá, Huế, 1990, tr. 23.

3 Trần Đình Hượu : Giáo trình Văn học Việt Nam giai đoạn giao thời 1900-1930, Chương III, Mục III, Nxb Đại học và giáo dục chuyên nghiệp, Hà Nội 1988.

4 Trần Đình Hượu : như trên.

Từ Nguyễn Tất Thành đến Hồ Chí Minh, trong Đặc trang Lữ Phương, viet-studies.info.

6 Marvin Ott, Thế kẹt trước Trung Quốc : Bản lĩnh và sự khôn khéo của Việt Nam, Nghiên cứu Biển Đông, 21.4.2012.